Đảng
cương - Quốc pháp - Lòng Dân và Tín nhiệm quốc tế là bốn phương diện hợp thành
công cụ và động lực của cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị của hệ thống chính
trị Việt Nam hiện nay.
Cơ chế kiểm soát
quyền lực chính trị là sự vận hành một cách đồng bộ và thống nhất hệ thống các
thể chế, thiết chế liên quan trong thực thi và kiểm soát quyền lực của Đảng,
Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị, trên nền tảng Quốc pháp,
Đảng cương và truyền thống chính trị dân tộc phù hợp với luật pháp và các thông
lệ quốc tế. Kiểm soát quyền lực chính trị nhằm bảo đảm các chủ thể kiểm soát và
các đối tượng được kiểm soát hoạt động đúng vị thế, chức năng và nhiệm vụ của
mình được Hiến định, theo pháp luật và Cương lĩnh, đường lối chính trị của
Đảng.
VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI ĐẢNG
Quyền lực lãnh đạo của Đảng, khi không chính thức, nghĩa là chưa
Hiến định, được thừa nhận bởi Nhân dân (trong thời kỳ hoạt động bí mật lãnh đạo
dân tộc giành chính quyền về tay Nhân dân); và trở thành chính thức, được chế
định trong Hiến pháp. Nhưng, dưới hình thức lãnh đạo nào, ở bất cứ thời kỳ nào,
đặc trưng xuyên suốt trong quyền lực lãnh đạo của Đảng được thực thi và thể
hiện bằng sự lôi cuốn từ mục tiêu chính trị: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; thể hiện ở cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị; bằng sự vận động,
thuyết phục Nhân dân qua hành động của đảng viên; tập trung cao nhất bằng sự
ảnh hưởng, hấp dẫn và tỏa sáng một cách tự nhiên của Đảng - một thực thể chính
trị trong xã hội bên cạnh các thực thể chính trị khác.
Đảng là một chủ thể lãnh đạo, thực thi quyền lực chính trị của
giai cấp mà Đảng đại diện, chứ không phải là một chủ thể thực thi quyền lực nhà
nước, dù trên thực tế, là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, có vai trò quyết
định trong quá trình tổ chức ra Nhà nước. Đây là vấn đề căn bản, không thể lầm
lẫn. Mặt khác, quyền lực của Đảng khi là “lực lượng lãnh đạo”, thì được giới
hạn bởi quyền lực của Nhà nước. Bởi, Đảng không phải là Nhà nước, nên không
được phép làm thay công việc của Nhà nước. Cương lĩnh chính trị, đường lối chính
trị của Đảng được “khế ước hóa” bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước và việc tổ chức thực thi và bảo vệ pháp luật là công việc của Nhà nước mà
Đảng, với tất cả các tổ chức và tất cả các đảng viên của Đảng, có nghĩa vụ và
quyền lợi gương mẫu chấp hành, không có ngoại lệ, không đứng trên hay bên cạnh
luật pháp. Đó chính là thước đo tính đúng đắn, tính khả thi, sức mạnh và hấp
lực của cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị của Đảng được pháp luật hóa,
với ba tính chất chính danh, chính pháp và chính năng của người cầm quyền dẫn
dắt dân tộc.
Đồng thời, theo Hiến định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”,
“Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình” đã đặt Đảng bình đẳng trước pháp luật như mọi đối tượng
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Đó chính là thước đo vị thế cầm quyền, năng
lực cầm quyền và trách nhiệm lịch sử cầm quyền của Đảng. Tức là kiểm soát quyền
lực của Đảng bằng Quốc pháp, tức Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Tính
chính danh và chính pháp cầm quyền của Đảng được Hiến định và pháp luật hóa.
Để kiểm soát quyền lực của Đảng, Nhân dân thực hiện quyền giám
sát hoạt động của Đảng theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng và tại Điều 4,
Hiến pháp 2013. Nhân dân giám sát Đảng một cách đa diện: phục vụ Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình, gắn bó mật thiết với
Nhân dân, sự vi phạm pháp luật của tổ chức và đảng viên của Đảng... Mặt khác,
việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn được thực hiện với các hình thức
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức
chính trị - xã hội...
Việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng được thực thi bởi
việc đo lường hay định lượng hiệu quả lãnh đạo, lòng tin của Nhân dân, uy tín
của Đảng trên trường quốc tế theo vai trò, chức năng của Đảng cầm quyền được
chế định bởi Hiến pháp và pháp luật.
Đảng thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực của mình thông qua “tự
kiểm soát” bằng các nguyên tắc, quy chế, quy định nội bộ, kỷ luật của Đảng, bảo
đảm tổ chức và hoạt động của Đảng ở tất cả các cấp và từng đối tượng đảng viên
theo Điều lệ Đảng bảo đảm phù hợp với pháp luật.
Kiểm soát quyền lực của cán bộ, công tác cán bộ, các tổ chức của
Đảng là công việc gốc của kiểm soát quyền lực trong Đảng. Mọi mầm họa đối với
bộ máy và thể chế thường bắt đầu từ khâu căn bản này.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ
thống ấy; gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của Nhân dân,
hoạt động và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Theo đó,
ở đây, chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng là
Nhân dân. Công cụ kiểm soát mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định và các định chế
của Hiến pháp và pháp luật.
Thực thi các chế định của Hiến pháp, pháp luật về vai trò lãnh
đạo của Đảng; về giám sát của Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; về giám sát,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khuôn khổ pháp luật, về giám
sát nội bộ Đảng... là những nhân tố bảo đảm kiểm soát hữu hiệu quyền lực chính
trị của Đảng, kiểm soát quyền và trách nhiệm lãnh đạo của Đảng.
Lòng tin của
Nhân dân đối với Đảng là thước đo quyết định vị thế, vai trò và trách nhiệm cầm
quyền và uy tín của Đảng.
VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
CỦA NHÂN DÂN VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NHÂN DÂN
Chỉ Nhân dân mới có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước. Nhưng
Nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu đó trong quá
trình thực thi quyền lực nhà nước. Nhân dân làm chủ bằng các hình thức trực
tiếp và gián tiếp (thông qua các đại biểu, các cơ quan dân cử và các đoàn thể
của dân).
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Quyền làm chủ của Nhân dân không chỉ được đảm bảo bằng Hiến
pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống các phương tiện khác: báo chí và truyền
thông, các thiết chế Quy chế Dân chủ ở cơ sở, bảo đảm Dân biết, Dân bàn, Dân
làm, Dân kiểm tra, Dân thụ hưởng, thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân. Vì vậy, Nhân dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết quyền và
phương diện được kiểm soát.
Vì nhiều lẽ, công dân cũng có thể lạm quyền hoặc vô hình buông
bỏ quyền lực, khi sử dụng các quyền của mình: vì tự do cá nhân dẫn tới
xâm hại tự do của xã hội và tự do của cá nhân khác, xâm hại đến ý chí chung,
thậm chí phạm tội; dùng quyền tự do ngôn luận, quyền dân chủ, quyền biểu
tình,... để gây rối, vô hình tùy tiện hoặc vô thức chống lại cộng đồng và xã
hội; tình trạng bầu thay các cử tri trong việc lựa chọn đại biểu đại diện cho
mình trong các cơ quan của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, ...
Như vậy, một mặt, bảo đảm quyền dân chủ của Nhân dân, để Nhân
dân có điều kiện thực hành dân chủ, hiện thực hóa quyền, nghĩa vụ và lợi ích
của mình; mặt khác, Nhà nước, Đảng và tự Nhân dân cũng cần có cơ chế kiểm soát
các hoạt động tự do ngoài quy định của pháp luật.
Với chức năng
của mình, Đảng tuyên truyền, vận động Nhân dân biết sử dụng quyền lực của mình
một cách hiệu quả, từ việc lựa chọn người đại diện cho mình đến giám sát, phản
biện xã hội; từ việc khiếu nại, tố cáo đến biểu thị ý kiến đúng pháp luật...
Từ nhiệm vụ của mình, Nhà nước kiểm soát các biểu hiện dân chủ quá trớn,
tự do vô lối bằng các chính sách, pháp luật nhằm hạn chế tính tự phát, tâm lý
đám đông tiêu cực trong các xung đột xã hội. Tới lượt mình, Nhân dân kiểm soát
Nhà nước trước hết qua hệ thống bầu cử, sử dụng các công cụ giám sát khác:
thanh tra, kiểm toán, kiểm tra quyền lực của bộ máy nhà nước. Đồng
thời, Nhân dân thông qua các tổ chức có tính đại diện xã hội, các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp; qua giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua quyền
khiếu nại, tố cáo, qua hệ thống phương tiện truyền thông, để kiểm soát quyền
lực nhà nước.
VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân có chức năng và nhiệm vụ quản trị toàn diện đất
nước.
Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân trên nền tảng
chính trị - xã hội là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quyền lực nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành
pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật một cách dân chủ và bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa tối thượng.
Nhà nước phục vụ vô điều kiện Nhân dân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm giải trình trước Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự
phát triển tự do của mỗi người, bảo đảm tự do và dân chủ của toàn xã hội. Bản
thân Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước không thể tự
sinh ra quyền lực, mà chỉ nhận sự ủy quyền của Nhân dân, thay mặt Nhân dân
thực thi quyền lực của Nhân dân mà thôi.
Do đó, để kiểm soát quyền lực Nhà nước, từ nhiều kết quả nghiên
cứu, phải tiếp tục đổi mới nhận thức và xây dựng các phương thức, quy trình,
quy định và các thiết chế có liên quan đến quyền lực nhà nước, gắn kết chặt chẽ
với nhau hợp thành một chỉnh thể. Bằng cách đó, việc kiểm soát quyền lực nhà
nước được thực hiện, nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai
trái của Nhà nước, cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước (phòng ngừa và triệt tiêu mọi sự tha thóa và thoái hóa quyền
lực…), bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực thi theo Hiến pháp,
pháp luật, đúng mục đích, trên cơ sở nhu cầu và ý nguyện của Nhân
dân.
Cơ chế kiểm soát tự bên trong (Nhà nước tự kiểm soát mình, các
cơ quan nhà nước tự kiểm soát mình và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước) nhằm bảo đảm sự thống nhất (về cơ cấu tổ chức, về mục tiêu
hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp,…) giúp cho bộ máy nhà nước tránh được
những nguy cơ đe dọa phá vỡ tính thống nhất và sự vận hành có hiệu quả cao của
cả bộ máy nhà nước; đồng thời, giữ cho các cơ quan nhà nước luôn duy trì được
mối quan hệ nội tại với nhau với tư cách là bộ phận của bộ máy chỉnh thể. Mặt
khác, để bảo đảm sự hợp lý trong việc phân công về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, bảo đảm thực hiện phối hợp về chức
năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, mục tiêu chung nhằm duy trì sự kiểm soát, chế ước, phát hiện và xử lý
kịp thời những biểu hiện không đúng, không hiệu quả trong việc thực hiện quyền
lực nhà nước của mỗi cơ quan, nhân viên.
Nhìn tổng thể, quyền lực nhà nước được phân định thành quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và giao cho các cơ quan khác nhau của Nhà
nước thực hiện. Vì vậy, đối với mỗi quyền lực nhà nước, cần phải thiết lập một
cơ chế kiểm soát có tính chất bộ phận phù hợp nhưng bảo đảm thống
nhất.
Mục tiêu của quản lý Nhà nước là phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, đảm
bảo cho Nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, phát huy
sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh
mẽ lực lượng sản xuất và lực lượng xã hội toàn diện của đất nước, mà rường
cột là xử lý mối quan hệ cốt tử giữa Nhà nước và thị trường (theo nghĩa rộng
nhất của thị trường).
|
Các chủ thể của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là những tổ
chức và cá nhân có thẩm quyền, nghĩa là theo quy định của pháp luật, có quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước. Nội dung kiểm soát quyền
lực nhà nước đối với mỗi loại quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) được
pháp luật quy định khác nhau và chủ thể kiểm soát chỉ có thể kiểm soát đối với
những nội dung đó và trong những phạm vi nhất định, theo luật định. Về
nguyên tắc, đối tượng bị kiểm soát là các tổ chức và cá nhân nắm giữ và thực
hiện quyền lực nhà nước, không trừ một ai, một cơ quan nào.
Nói khái lược, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là sự tổng
hợp của nhiều “cơ chế kiểm soát có tính chất bộ phận”, nhằm kiểm soát tất cả
các nhánh quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp)
dù ở các phạm vi khác nhau.
Trong các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài,
bầu cử dân chủ là phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng nhất. Đây cũng
chính là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất. Nó thể hiện
quyền dân chủ của Nhân dân và quyền lãnh đạo của Đảng. Nhân dân có quyền, trách
nhiệm và điều kiện để lựa chọn những người gắn bó, có trách nhiệm với vận
mệnh của Nhân dân, có quyền giám sát và quyền bãi miễn hoặc thu hồi lại quyền
lực khi người đại diện được bầu không còn xứng đáng nữa. Trong lúc đó, với
tư cách là đảng cầm quyền, Đảng lựa chọn đảng viên giới thiệu ra ứng cử, để
Nhân dân bầu. Như vậy, một đại biểu được bầu phải đáp ứng được sự tín nhiệm của
Nhân dân và của Đảng. Đảng và Nhân dân đều thực hiện sự giám sát của mình với
các vị đại diện đó.
Ở đây, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý đặt ra
vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trở thành một nhiệm vụ kép và có ý nghĩa
kép: Đảng vừa thực hiện quyền lực lãnh đạo, vừa kiểm soát quyền lực nhà nước,
Nhân dân vừa kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng, vừa kiểm soát quyền lực nhà
nước.
Như đã trình bày, kiểm soát tự bên trong chính là phương thức
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau, nghĩa là tổ chức bộ máy nhà nước
bảo đảm các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc thực thi quyền lực nhà nước vừa
thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào
có thể lạm quyền theo Hiến định.
Tất cả mọi tổ chức và công dân được phép làm tất cả những gì mà
pháp luật luật không cấm. Do đó, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp và
pháp luật là rất quan trọng, bảo đảm tính chất dân chủ và thượng tôn pháp luật
của Nhà nước pháp quyền của chúng ta. Điều đó không cho phép bất cứ tổ chức chính
trị - xã hội nào, cố nhiên bất kể ai và lực lượng nào đứng trên, đứng ngoài
Hiến pháp và pháp luật.
Để kiểm soát quyền lực nhà nước, không thể không thực thi sự
kiểm soát của các cơ quan tư pháp đối với các cơ quan nhà nước. Tòa án Nhân dân
thực thi quyền tư pháp, có quyền xét xử đối với mọi đại biểu Quốc hội, thành
viên Chính phủ, khi vi phạm pháp luật. Việc hiến định nguyên tắc xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, làm cho khả năng kiểm soát quyền lực nhà
nước của tòa án là tất yếu và công minh. Cùng với chức năng công tố, Viện
Kiểm sát Nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm ngăn chặn việc
lạm quyền của cơ quan và công chức nhà nước, trong các hoạt động tư pháp.
Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ
phối hợp hành động, được thực hiện theo luật pháp và các quy chế. Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa là người lãnh đạo Mặt trận vừa là thành viên của Mặt trận. Vì vậy
quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ
hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Đảng, Nhà nước cần tiếp
tục sửa đổi và hoàn thiện cơ chế, pháp luật và chính sách, đáp ứng các điều
kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai
trò giám sát và phản biện xã hội.
Nói khái lược, Đảng cương - Quốc pháp - Lòng Dân và Tín nhiệm
quốc tế là bốn phương diện hợp thành công cụ và động lực của cơ chế kiểm soát
quyền lực chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Dưới sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Những điều mà pháp
luật cấm là những điều được xã hội thỏa thuận và ghi thành khế ước (Hiến pháp)
và được cụ thể hơn nữa thông qua các đạo luật. Đó cũng chính là giới hạn
quyền lực của công dân (Nhân dân) để công dân thực hiện đúng, đầy đủ và hiệu
quả quyền lực của mình.
NHỊ LÊ_____________________________
Bài đăng TCTG số 6/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét