Từ thuở hồng hoang, cuộc sống của
người Việt đã gắn liền với biển. Ba vùng văn hóa lớn (Đông Sơn ở miền Bắc, Sa
Huỳnh ở miền Trung và Nam Trung bộ, Óc Eo ở niềm Nam) đều lưu giữ những dấu
tích người Việt Nam mở đất, lấn biển; sống cùng biển và vươn ra biển để mưu
sinh, để mở mang lãnh thổ. Do đó, quá trình dựng nước và giữ của người Việt từ
ngàn năm nay là một quá trình lấn biển và chinh phục biển khơi. Muốn giữ biển
phải gắn với chinh phục, khai thác, làm giàu từ biển.
Nằm trong khu vực Biển Đông, Việt Nam có ba mặt Đông, Nam và
Tây-Nam trông ra biển với bờ biển dài 3.260 km, có nhiều đảo và quần đảo lớn
nhỏ bao bọc. Với vị trí biển địa chiến lược đặc biệt quan trọng, Việt Nam không
chỉ có nguồn tài nguyên phong phú với giá trị khai thác kinh tế lớn, vùng biển
nước ta còn giữ vị trí địa chiến lược, an ninh quốc phòng quan trọng.
Để làm rõ
những vấn đề được nêu ra trong loạt bài “Đánh thức “mặt tiền” Biển Đông của Báo
Quân đội nhân dân Điện tử, phóng viên đã có cuộc trao đổi với TS sử học Nguyễn
Nhã, tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc khảo về Trường Sa, Hoàng Sa và
những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
TS Nguyễn Nhã: Đối với người Trung Hoa mà các nhà
Nho xưa kia chúng ta ảnh hưởng cho Giang Sơn (Sông núi) là biểu tượng Quốc gia
hay Tổ quốc. Song trong dân gian Việt Nam lại thường gọi Đất Nước là biểu tượng
cho Quốc gia, Tổ quốc. Đất bao gồm cả núi, đồng bằng; nước gồm cả nước sông
ngòi và nước biển.
Ngoài ra
theo truyền thuyết về Lạc Long Quân sinh 100 người con, thì 50 con lên núi, 50
con xuống biển. Người con đầu lên núi đã lập ra nước Văn Lang, tức Quốc tổ Hùng
Vương, còn 50 con xuống biển đã đi khắp nơi. Từ đó, Bốn biển anh em một nhà.
Nên Việt Nam có triết lý “bầu bí” như “Bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”, giàn đây có thể là giàn Trái đất”.
Như thế
trong dân gian Việt Nam rất quan tâm, tôn trọng biển, chứ không chỉ quan tâm
đến Giang (Sông) như người Trung Quốc.
Chính vì
lẽ đó, đường biển có ý nghĩa trọng yếu trong bảo vệ quốc gia. Thời Trần đã có
hang “Đầu gỗ” ở Vịnh Hạ Long, dùng cọc gỗ chặn vào cửa sông, cùng với đó cắt cử
quan Trần Khánh Dư canh giữ biển. Ngoài ra, còn có Cảng Vân Đồn để giao lưu
thương mại qua biển. Đến khi thế kỷ 17, khi các thương gia phương Tây cũng như
người Hoa, người Nhật đến giao thương, nếu ở Đàng Ngoài có Phố Hiến (Hưng Yên),
thì Đàng Trong có cảng Hội An (Quảng Nam), đều ở xa Thủ phủ kinh kỳ vì đề phòng
giặc ngoại xâm.
Hiện nay,
28 tỉnh thành của Việt Nam có mặt tiền là bờ biển, nên có thể nói kinh tế biển
từ nuôi trồng thủy hải sản, đến nghề đánh bắt cá biển, đặc biệt là đánh bắt xa
bờ đang trở thành động lực phát triển đất nước. Mặt khác, Việt Nam có nhiều
cảng biển, như cảng Vân Phong - cảng nước sâu nhất thế giới tới 40m, 60m, hay
cảng Cam Ranh - cảng quân sự tốt nhất thế giới với thành phố biển xinh đẹp Nha
Trang.
Nói một
cách dễ hiểu về tầm quan trọng của biển Đông, đó là cứ 4 chiếc tàu đi trên biển
thì chắc chắn có 1 chiếc đi qua biển Đông. Do đó, giao thương biển Đông quan
trọng hàng đầu thế giới và tất nhiên rất quan trọng với phát triển kinh tế Việt
Nam, khi đây là cửa ngõ của đất nước ra thế giới.
TS Nguyễn Nhã: Vào thế kỷ 16, 17, người phương
Tây bắt đầu quan tâm đến biển Đông và giao thương với Đàng Ngoài như Phố Hiến,
ở Đàng Trong như ở Hội An. Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã lập Đội Dân binh Hoàng
Sa kiêm quản đội Bắc Hải (Trường Sa) đi kiếm sản vật tàu đắm ở Hoàng Sa, trong
đó có nhiều súng ống, chủ yếu lấy người ở Cù Lao Ré, tức đảo Lý Sơn nhô ra biển
Đông xa nhất, gần với Hoàng Sa nhất. Tại Lý Sơn, có Lễ Khao lề thế lính Hoàng
Sa vào cuối tháng 2 âm lịch.
Đến năm 1816, Triều Nguyễn còn cử thủy
quân với sự hướng dẫn của Đội Hoàng Sa đi cắm cột mốc chủ quyền, dựng bia, đào
giếng, xây dựng miếu thờ và trồng cây... ở Hoàng Sa. Các tài liệu phương Tây
còn nói Vua Gia Long đi cắm cờ chủ quyền tại Hoàng Sa và giám mục Taberd còn vẽ
bản đồ “An Nam Đại Quốc Họa Đồ” ghi rõ Paracel “seu” Cát Vàng (seu tiếng latinh
có nghĩa “hay là”). Như thế rõ ràng các chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn đã có công mở
mang bờ cõi về phía biển.
Đặc biệt,
Lê Quí Đôn hay Đại Việt Sử Ký Tục Biên ở Đàng Ngoài lại ghi rất rõ công lao của
Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Về phía chính quyền Trung Hoa, khi các công ty bảo
hiểm Anh (năm 1898) kiện Trung Hoa để người dân hôi của các tàu đắm của Đức và
Nhật ở Hoàng Sa thì chính quyền Trung Hoa nói Hoàng Sa không thuộc địa phận của
Trung Hoa. Đến năm 1909, chính quyền Quảng Đông cho Paracel là đất vô chủ nên
đã cho tàu chiến đến bắn 21 phát súng và lên dảo cắm cờ chủ quyền của Trung
Quốc tại Paracel rồi Trung Quốc bắt đầu gọi Paracel là Tây Sa...
Nhìn từ
việc mở mang bờ cõi phía biển, có thể thấy, từ xa xưa, cha ông đã có tầm nhìn
xa thấy tầm quan trọng của biển Đông, nên đã có những hoạt động khẳng định chủ
quyền ở những hải đảo xa bờ, mang lại nhiều lợi ích cho đất nước. Với chính
sách hướng biển hiện nay của Đảng, Nhà nước, bài học trên rất có ý nghĩa. Cùng
với những kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề này, khi có sự tranh
chấp với các nước láng giềng, sẽ có những chứng cứ mang tính quốc tế, để chính
sách hướng biển của ta được thành công tốt đẹp.
TS Nguyễn Nhã: Theo pháp lý quốc tế cuối thế kỷ
19 đầu thế kỷ 20, việc chiếm hữu chủ quyền phải là thật sự và mang tính nhà
nước. Luật biển 1982 cũng quy định rất rõ ràng về chủ quyền từ lãnh hải đến
lãnh hải mở rộng và khi chồng lấn phải thương thảo cũng quy định rất rõ ràng về
chủ quyền từ lãnh hải đến lãnh hải mở rộng và khi chồng lấn phải thương thảo...
Liên hợp
quốc cũng có những quy định cấm dùng vũ lực khi có tranh chấp chủ quyền. Vì
thế, việc phát triển kinh tế biển và kết hợp quốc phòng an ninh trên biển phải
tuân theo Luật biển 1982, cũng như những quy định của Liên hợp quốc.
Nhiều quốc
gia trên thế giới đã quan tâm đến phát triển kinh tế biển, trong đó có phát
triển hải quân và các đội thương thuyền hùng mạnh. Các nước như Nhật Bản, Vương
quốc Anh đã trở thành cường quốc. Tại sao Việt Nam lại không?
Việt Nam
có 28 tỉnh, thành phố với mặt tiền là biển, có thể tích cực tham gia làm kinh
tế biển. Cùng với đó, Việt Nam có nhiều hải cảng tốt. Biển Đông lại là nơi có
nhiều mỏ dầu khí vào hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Nếu Việt Nam có hải
quân hùng mạnh và kinh tế bền vững sẽ không bị nước nào xử ép, bắt nạt.
TS Nguyễn Nhã: Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
22-10-2018 của Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045 là rất đúng đắn về phát triển kinh tế biển có kế hoạch rõ ràng. Muốn
giữ vững chủ quyền, Việt Nam phải hùng cường.
Trong tác phẩm Việt Nam Huyết Lệ Thi
Thư, Tập 5 mà tôi là tác giả có đề cập đến vấn đề làm thế nào để Việt Nam trở
thành cường quốc biển. Trong đó, những yếu tố khiến Việt Nam trở thành cường
quốc có vai trò của thanh niên. Như thanh niên góp phần xây dựng cảng sâu nhất
thế giới Vân Phong trở thành cảng trung chuyển, đón các tàu trung chuyển
500.000 tấn, đặc biệt các tàu của Nhật, Mỹ... Hay xây dựng đường cao tốc xuyên
Á không qua đèo nào, cao tốc Bắc Nam từ Vân Phong đến cảng Hải Phòng, cảng Sài
Gòn; đón các công ty đóng tàu quy mô như Đại Hàn, các đội thương thuyền lớn hay
các đội ngư dân đánh cá xa bờ như Nhật Bản, các tỉnh thành có bờ biển xây dựng
kinh tế biển như Nhật Bản. Cùng với đó, giáo dục và đào tạo phải làm cuộc cách
mạng, sao cho thanh niên có lòng yêu nước, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
luôn hướng về Tổ quốc và giáo dục kỹ năng tư duy sáng tạo như thanh niên Do
Thái...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét