Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập và
lãnh đạo chỉ tồn tại gần một phần tư thế kỷ (1919-1943) nhưng đã đóng góp
cho nhân loại những giá trị lịch sử to lớn vì quyền lợi của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản đã giúp Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh xác định đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam - Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
CUỘC
KHỦNG HOẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI CỨU NƯỚC CỦA VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
Ngày
1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam. Sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược,
chúng đã thi hành chính sách thống trị và bóc lột rất tàn bạo đối với dân tộc
Việt Nam: độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị và ngu dân về văn hóa.
Những chính sách đó của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi từ xã
hội phong kiến độc lập thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Cơ cấu giai cấp
xã hội bị biến đổi: Bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân
đã tồn tại từ lâu, xuất hiện giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp
tư sản. Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là nông
dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Trước
sự thống trị tàn bạo của bọn thực dân đế quốc, các phong trào chống Pháp, giành
độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra. Tiếp nối các phong trào Văn
Thân và Cần Vương, phong trào yêu nước ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô
cùng anh dũng, từ khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái... nhưng đều không thành công vì thiếu một
đường lối đúng. Yêu cầu khách quan, cấp thiết của lịch sử Việt Nam khi đó là phải
làm sao để khắc phục cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
SỰ
RA ĐỜI CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG
CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong
lúc xã hội Việt Nam đang khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước thì Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh xuất hiện. Trước cảnh nước mất nhà tan, cũng như bao người
Việt Nam yêu nước thời đó, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Song,
không giống với cụ Phan Bội Châu, dù đã “Nam bôn, Bắc tẩu, dấu chân in gần khắp
nửa châu Á” mà “tự xét thấy chẳng việc gì nên”, để đến khi sức tàn, lực kiệt vẫn
ôm mối hận mà than rằng “cuộc đời tôi trăm thất bại chẳng một lần thành công”.
Nguyễn Ái Quốc không tìm đường cứu nước ở phương Đông lạc hậu, Người quyết định
sang Pháp, hướng về các nước phương Tây để trước hết là tìm hiểu cho rõ những
gì đang ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, xem vì sao
các nước phương Tây lại trở nên phú cường, rồi sau đó sẽ trở về giúp đồng bào.
Ngày
5 tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Việt Nam
Nguyễn Tất Thành đã lên tàu Latusơ Tơrêvin rời Tổ quốc thân yêu, vượt trùng
dương đi tìm chân lý cách mạng. Cuộc hành trình trong 6 năm từ Á sang Âu, Phi,
Mỹ rồi lại trở về châu Âu năm 1917 giúp Nguyễn Ái Quốc nhận thức và khám phá
nhiều điều mới mẻ. Khảo sát các cuộc cách mạng ở Pháp, Anh, Mỹ, Người cho rằng,
đó là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng
phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức
lao động của con người. Cách mạng tư sản đã xây dựng lên một chế độ mới tiến bộ
hơn xã hội phong kiến. Nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức,
bóc lột và vẫn mưu toan làm cách mạng. Người đi đến kết luận, chúng ta đã đổ
xương máu để làm cách mạng, thì nên làm đến nơi, nghĩa là làm sao cho cách mạng
rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người.
Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.
Cách
mạng Tháng Mưòi Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn nhất của thế kỷ
XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam:
Độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho đại đa số người? Độc lập dân tộc
đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?
Tháng
3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn đến
phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn
ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng Xã hội Pháp: tiếp tục
theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi theo Quốc tế thứ
ba, con đường cách mạng.
Những
cuộc thảo luận sôi nổi trong Đảng Xã hội Pháp về lý luận cách mạng, về Quốc tế
II và Quốc tế III vẫn chưa thể giúp Nguyễn Ái Quốc lựa chọn được học thuyết mà
mình cần tiếp nhận. Cho đến cuối tháng tháng 7 năm 1920, lần đầu tiên, Nguyễn
Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin để trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng
sản, Người mới tìm thấy ở đó cái cẩm nang giải phóng dân tộc Việt Nam.
Văn
kiện trình bày rõ hướng đi và biện pháp lãnh đạo của Đảng Cộng sản đưa sự nghiệp
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa đi đến thắng lợi hoàn toàn. Lênin bóc trần
thái độ lừa dối của chế độ dân chủ tư sản đối với những người bị bóc lột khi
tuyên bố quyền bình đẳng nói chung, trong đó bao gồm cả quyền bình đẳng dân tộc.
Do vậy, một trong những nhiệm vụ của đảng cộng sản là phải phân biệt rõ những
dân tộc bị áp bức, phụ thuộc không được hưởng quyển bình đẳng, với những dân tộc
đi áp bức, bóc lột được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi. Để đập lại sự lừa dối kiểu
dân chủ tư sản đang che giấu việc tuyệt đại đa số nhân dân trên trái đất bị một
thiểu số nhỏ bé những nước tư sản tiên tiến nô dịch về mặt thuộc địa và tài
chính. Trên thực tế, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước tiên tiến
và quần chúng lao động các nước thuộc địa và phụ thuộc sau chiến tranh thế giới
thứ nhất đang làm tan rã ảo tưởng dân tộc tiểu tư sản về khả năng chung sống
hoà bình và bình đẳng giữa các dân tộc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
Xuất
phát từ những luận điểm trên, Lênin cho rằng: “Điều quan trọng nhất trong chính
sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là phải làm cho
vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi
nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và
giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ
nghĩa tư bản, nếu không có chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức
dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”[1]. Đồng thời, Lênin cũng nêu lên những nhiệm
vụ quan trọng của các đảng cộng sản là phải trực tiếp ủng hộ phong trào cách mạng
của các dân tộc thuộc địa: giai cấp công nhân ở nước tư bản đang thống trị dân
tộc chậm tiến trước tiên có nhiệm vụ ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng
các dân tộc ấy; phải đặc biệt ủng hộ phong trào nông dân ở các nước chậm tiến
chống bọn địa chủ, chống chế độ chiếm hữu nhiều ruộng đất, chống chế độ phong
kiến, phải liên minh chặt chẽ nhất giữa tất cả các phong trào giải phóng dân tộc
với nước Nga Xôviết.
Những
luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những
vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc mà qua 9năm tìm kiếm (1911-1920) Người mới bắt gặp. Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đê thuộc địa của Lênin
đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc nhận biết một tổ chức chính trị cần tham gia là Quốc
tế III do Lênin sáng lập và lãnh đạo thực sự giúp đỡ các dân tộc bị áp bức đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập tự do. Từ đó, Người nhận thức được
là trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản, con đường do Lênin và Quốc tế Cộng sản vạch
ra. Sau này nhớ lại thời điểm được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đê thuộc địa của V.I.Lênin, Người đã viết:
“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Từ
đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế ba”[2].
Niềm
tin của Nguyễn Ái Quốc ở lý luận của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng các dân
tộc thuộc địa và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản là cơ sở để Người
xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội Tua (Tours)
tháng 12 năm 1920 và đây cũng là sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Chính
Người đã nói rõ điều đó khi trả lời nữ đồng chí Rôsơ câu hỏi vì sao lại bỏ phiếu
cho Quốc tế III: “Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược
chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều Quốc tế III rất
chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Quốc tế III nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị
áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Quốc tế II không hề nhắc tới vận
mệnh các thuộc địa vì vậy tôi bỏ phiếu tán thành Quốc tế III. Tự do cho đồng
bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất
cả những điều tôi hiểu”[3].
Qua
10 năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc không
choáng ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản
có nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được
nước, không cứu được dân. Thắng lợi của Cách Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp
Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Sau
khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
đã tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một
chính đảng vô sản ở Việt Nam. Sản phẩm của quá trình chuẩn bị đó chính là sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 với Cương lĩnh chính trị đúng đắn,
thể hiện sự kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, mở ra thời đại mới cho cách mạng
Việt Nam.
Đi
theo đường hướng của Lênin, của Quốc tế Cộng sản, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân
dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập,
tự do. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Thắng
lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận
thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với
những thắng lợi đã giành được trong gần 90 năm qua, Việt Nam từ một xứ
thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới. Đồng thời, những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong gần 90
năm qua còn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, của Quốc tế Cộng sản, cổ vũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
toàn thế giới đứng lên đấu tranh vì các mục tiêu tiến bộ của thời đại.
Kỷ
niệm 100 năm ngày thành lập Quốc tế Cộng sản là dịp để mỗi người dân Việt Nam,
vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức trước đây nhìn nhận thấu đáo hơn
vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
đối với các dân tộc bị áp bức bóc lột trên phạm vi toàn thế thế giới; biết trân
trọng, kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới những tư tưởng tiến bộ do Quốc
tế Cộng sản đề ra; kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp tục xây dựng
đất nước ta đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới./.
Đại
tá, PGS. TS. NGUYỄN VĂN SỰ
Chủ
nhiệm Khoa Lịch sử Đảng CSVN, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét