Vai trò, vị trí cầm
quyền của Đảng thể hiện quyền hạn, trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng
trước nhân dân, trước dân tộc. Vì thế, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề
thiết kế và xây dựng Đảng cầm quyền, một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, sáng
suốt, gắn bó mật thiết và hành động vì lợi ích của nhân dân.
Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền - Đảng cách mạng, Đảng vì dân, vì nước
Mùa
Thu tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam - “một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”, trở thành Đảng cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên
độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Khác xa so với thời kỳ còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp để lãnh đạo toàn dân tộc xóa bỏ ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xây dựng chế độ mới, con người mới, nền văn hóa mới không có mục đích nào khác ngoài mang lại nền độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng to lớn, phức tạp, đầy khó khăn gian khổ nhưng vẻ vang ấy, Đảng cầm quyền vừa là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức của hệ thống chính trị, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị.
Khác xa so với thời kỳ còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp để lãnh đạo toàn dân tộc xóa bỏ ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xây dựng chế độ mới, con người mới, nền văn hóa mới không có mục đích nào khác ngoài mang lại nền độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng to lớn, phức tạp, đầy khó khăn gian khổ nhưng vẻ vang ấy, Đảng cầm quyền vừa là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức của hệ thống chính trị, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị.
Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi
ích gì khác”(1). Trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những
điều tâm huyết về vai trò cầm quyền của Đảng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(2),
đồng thời Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Thực
tiễn vai trò cầm lái con thuyền cách mạng Việt Nam đã khẳng định “Đảng ta là
một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước”(3). Trong các tiêu chí để xác
định một đảng chân chính cách mạng, việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của
nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực, tính chính danh của
Đảng cầm quyền. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải
làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng”(4). Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ “Phải đem hết sức dân,
tài dân, của dân làm cho dân” và chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết
sức quan tâm chăm lo đời sống của nhân dân. Chỉ khi thấu hiểu và hành động vì
con người, cho sự phát triển toàn diện của con người như vậy trong thực tiễn
hoạt động lãnh đạo, Đảng cầm quyền mới “biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(5).
Muốn
đạt được mục đích nhân bản đó, muốn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
của Đảng, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho được định hướng hoạt động
của Nhà nước, bảo đảm cho bộ máy Đảng và Nhà nước thật sự trong sạch. Nếu hoạt
động lãnh đạo của Đảng thông qua Nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội
ngũ đảng viên, cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị thoái hóa, biến
chất thì Đảng cầm quyền, Nhà nước mà nhân dân đã tin tưởng giao phó quyền lực
chính trị ắt sẽ không giành được sự ủng hộ, niềm tin nơi dân chúng. Mọi chủ
trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng
của nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, theo đúng tinh thần của Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011): “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện
vọng chính đáng của nhân dân”(6). Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
kinh tế, xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm
vụ, điều lệ của tổ chức, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và qua
đó đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân đồng thời phát huy được vai trò,
sức mạnh vô cùng tận của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cách
mạng vĩ đại và theo Hồ Chí Minh là “một sự nghiệp gian nan cực khổ”. Lãnh đạo
sự nghiệp to lớn và vẻ vang đó, Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh, đủ năng
lực, sức chiến đấu để đảm đương vai trò lãnh đạo phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân.
Muốn
vậy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng phải thể hiện rất rõ
bản chất, tầm nhìn, trí tuệ và phương thức định hướng, chỉ đạo chiến lược phát
triển đất nước, bằng Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương,
quan điểm và quyết sách chính trị từ Trung ương đến địa phương. Bản thân Đảng
phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai
cấp và dân tộc. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “việc cần phải
làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi
chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý
phục vụ nhân dân”(7).
Đảng
cầm quyền trong thể chế chính trị “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”
Chế
độ chính trị được Hồ Chí Minh đề cập và phấn đấu xây dựng là chế độ của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở đó, “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung
ương do dân cử ra”, “Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Trong
đó “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”. Nhân dân là chiếc áo giáp thần kỳ che chở, bảo vệ Đảng, Nhà nước; nhân
dân đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để nuôi dưỡng, bảo
vệ chế độ. Không có nhân dân thì chế độ chính trị không có cơ sở để ra đời và
tồn tại.
Thể
chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị và
thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, trung tâm, nhà nước
không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời phong kiến. Vì vậy,
trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là
của nhân dân... nhân dân là ông chủ nắm chính quyền”. Hồ Chí Minh cho rằng dân
là quý nhất, là quan trọng nhất, dân là tối thượng; trong thế giới không có gì
mạnh bằng sức mạnh, lực lượng đoàn kết của nhân dân và lực lượng toàn dân là
lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó.
Theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả quyền lực nhà nước
thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là người chủ Nhà nước và xã hội.
Trong điều kiện dân chủ và pháp quyền, nhân dân có quyền đòi hỏi chính đáng, có
nhu cầu tự nhiên và tất nhiên về việc phải kiểm soát được quyền lực mà mình đã
giao cho chủ thể lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước là Đảng và Nhà nước, để
làm sao cho quyền lực đó không bị biến dạng, không bị tha hóa, không bị lạm
quyền, lộng quyền.
Quan
niệm toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ
triệt để của Nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực
nhà nước và được thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý mà đạo luật cao nhất là
Hiến pháp. Các bản Hiến Pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều thể hiện
điều đó. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ là một nội dung trọng yếu của việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động
của Nhà nước ta, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, tiếp tục khơi nguồn động lực, tiềm năng, trí tuệ của nhân dân
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì
dân, “lấy dân làm gốc” phải luôn là yếu tố văn hóa thẩm thấu trong mọi hoạt
động của Đảng Cộng sản cầm quyền
Văn
hóa chính trị Hồ Chí Minh là đề cao tuyệt đối chữ dân. Trong một nước dân chủ
thì nhân dân là chủ, làm chủ. Văn hóa đó được thể hiện rất rõ qua thực hành văn
hóa trong Đảng, trong Nhà nước, trong các đoàn thể, trong thể chế, bộ máy,
trong con người và qua hành vi của đội ngũ cán bộ, đảng viên, lấy nhân dân làm
hệ quy chiếu trong mọi chủ trương, chính sách.
Người
cho rằng, cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới
mẻ, tươi tốt... là cuộc chiến đấu khổng lồ, vì vậy, cần phải động viên toàn
dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân. Dân
là gốc của nước, của cách mạng. “Nước lấy dân làm gốc”, “gốc có vững cây mới bền.
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(8). Là “gốc của nước”, nên nhân dân cũng
là người quyết định thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm, nhân dân là
nguồn gốc sức mạnh, là nguồn trí tuệ, sáng kiến vô tận. Người viết: “Kinh
nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân
chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm
cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không
ra”, “Không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng làm không
xong”(9). Muốn vậy, Đảng cầm quyền phải luôn quan tâm lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân; thường xuyên chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện chủ trương,
đường lối, chính sách nhằm bảo đảm mưu cầu lợi ích tối cao của nhân dân. “Nghị
quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý
kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”(10).
Quán
triệt sâu sắc quan điểm đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhận thức về
dân chủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có
những sự phát triển vượt bậc trong thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội VI (1986), Đảng
ta chỉ rõ: “Thực tiễn cách mạng chứng minh: ở đâu, nhân dân lao động có ý thức
làm chủ và được làm chủ thật sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng”(11),
vì vậy Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm: “Trong toàn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động”(12). Phương thức tổ chức vận động nhân dân và cũng
là phương châm, khẩu hiệu cơ chế thực hiện dân chủ bước vào thời kỳ đổi mới
được Đại hội VI của Đảng xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Đảng ta cho rằng, đó là nền nếp hằng ngày của dân chủ của xã hội mới, thể hiện
chế độ nhân dân lao động làm chủ, tham gia quản lý nhà nước của mình. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển 2011), Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước”(13).
Con
người là nguồn vốn của mọi nguồn vốn, là nguồn lực quan trọng nhất của mọi
nguồn lực, giá trị cao nhất của mọi giá trị. Con người Việt Nam vừa là mục
tiêu, vừa là động lực, vừa là sức sống của đổi mới, là trung tâm của sự nghiệp
đổi mới. Trải qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có những
nhận thức mới ngày càng sâu sắc, cụ thể hơn về vị trí, vai trò của nhân dân,
của dân chủ và phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một trong bốn bài học lớn được Đảng rút
ra trong tổng kết sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua là, trong toàn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân
dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Trong cơ chế dân chủ một đảng
cầm quyền, ý Đảng trước hết phải từ ý dân và lòng dân, vì vậy, ý Đảng lòng dân
là một, thống nhất hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Lấy dân làm gốc,
phát huy sức mạnh con người Việt Nam đã trở thành bài học và cấu thành hệ giá
trị của đổi mới.
Xây
dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân đi đôi với ngăn ngừa căn bệnh
quan liêu, xa dân của Đảng cầm quyền
Thực
tế hoạt động cầm quyền đặt ra yêu cầu tất yếu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng phải là những người tài đức, phải giành được niềm tin của quần chúng
nhân dân, được dân tin, dân phục, dân yêu. Gánh vác sự nghiệp cầm quyền, Hồ Chí
Minh đã lưu ý chúng ta: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài”(14), và vì vậy vào Đảng không phải là để “làm quan cách mạng”, để “thăng
quan tiến chức”, để “một người làm quan cả họ được nhờ”, “đè đầu cưỡi cổ dân
chúng như dưới thời thực dân, phong kiến”,... Mà điều cốt yếu khi cán bộ, đảng
viên được nhân dân gửi gắm, ủy thác, trao quyền lực, trong một thể chế chính
trị dân chủ, thì yêu cầu về xây dựng văn hóa đạo đức của người cán bộ cách mạng
phải là văn hóa “vì dân”, chính tâm và thân dân. Nghĩa là: “Việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người
cán bộ cách mạng muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân,
kính dân(15), phải đặt quyền lợi của nhân dân trên hết thảy; phải có một tinh
thần chí công vô tư; phải “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng
tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà
Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(16).
Hồ
Chí Minh cho rằng, “Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta (tức là Đảng ta
khi đó chưa ra hoạt động công khai) là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đày tớ
cho dân... Đã phụng sự nhân dân thì phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi
cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức
tránh... Muốn làm được như vậy, thì mỗi cán bộ chính quyền và đoàn thể phải:
Luôn
luôn gần gũi nhân dân.
Ra
sức nghe ngóng và hiểu biết nhân dân.
Học
hỏi nhân dân.
Lãnh
đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức
nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Bốn
điều ấy phải đi song song với nhau. Vì không gần gũi dân thì không hiểu biết
dân. Không hiểu biết dân thì không học hỏi được những kinh nghiệm và sáng kiến
của nhân dân. Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”(17). Toàn Đảng
phải “biết ý kiến dân chúng”, “học dân chúng”, “nâng cao dân chúng”. Suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, Hồ Chí Minh đã hòa mình vào đời
sống của nhân dân lao động, tự cho mình chỉ là người lính vâng mệnh quốc dân ra
mặt trận, “là người đày tớ trung thành của nhân dân”.
Khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, mà nếu không đủ bản lĩnh, ý chí, phẩm chất và trí tuệ, không đề cao dân chủ, dựa chắc vào nhân dân sẽ không dễ vượt qua những thử thách, khó khăn. Để bảo đảm tính chính danh cầm quyền của Đảng trước Tổ quốc, trước nhân dân, Đảng cầm quyền phải có đường lối chính trị đúng đắn, nhưng để xây dựng được đường lối đúng đắn và làm cho đường lối đó trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết Đảng phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng danh và ngang tầm. Chính vì vậy, vấn đề cốt tử trong mọi hoạt động của Đảng là làm sao để mỗi “Đảng viên và cán bộ phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải nắm vững chính sách của Đảng và của Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng như thế mới xứng đáng là đảng viên và cán bộ của Đảng, như thế mới lãnh đạo được quần chúng”(18).
Khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, mà nếu không đủ bản lĩnh, ý chí, phẩm chất và trí tuệ, không đề cao dân chủ, dựa chắc vào nhân dân sẽ không dễ vượt qua những thử thách, khó khăn. Để bảo đảm tính chính danh cầm quyền của Đảng trước Tổ quốc, trước nhân dân, Đảng cầm quyền phải có đường lối chính trị đúng đắn, nhưng để xây dựng được đường lối đúng đắn và làm cho đường lối đó trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết Đảng phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng danh và ngang tầm. Chính vì vậy, vấn đề cốt tử trong mọi hoạt động của Đảng là làm sao để mỗi “Đảng viên và cán bộ phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải nắm vững chính sách của Đảng và của Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng như thế mới xứng đáng là đảng viên và cán bộ của Đảng, như thế mới lãnh đạo được quần chúng”(18).
Sinh
thời, V.I. Lê-nin từng cảnh báo: Đối với một Đảng Cộng sản đang lãnh đạo nhân
dân “quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và
đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”(19). Vì thế cho nên, Đảng
phải luôn tỉnh táo và kịp thời phát hiện, sửa chữa mọi biểu hiện vi phạm, chà
đạp quyền làm chủ của nhân dân; quan liêu, xa dân và những tật bệnh khác, giữ
cho cơ thể Đảng luôn trong sạch và có sức chiến đấu, sức đề kháng cao. Từ rất
sớm, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta phải luôn cảnh giác, đấu tranh phong ngừa
những căn bệnh vốn là nguy cơ của đảng cầm quyền, trong đó có căn bệnh quan
liêu, xa dân.
Theo
Hồ Chí Minh mất dân chủ, quan liêu, xa dân cũng như những khuyết điểm khác có
nhiều loại và mỗi khuyết điểm là một chứng bệnh, mỗi chứng bệnh là một kẻ địch.
Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài... Địch bên
trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ bên trong phá ra. Sự phá hoại của thế lực
thù địch bên ngoài là một thực tế cần hết sức cảnh giác. Nhưng, điều đáng lo
ngại hơn lại chính là sự tha hóa, suy thoái từ trong nội bộ Đảng, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ. V.I. Lê-nin cho rằng, “Không ai có thể tiêu diệt
được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở
chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp
đổ”(20). Bởi vậy, việc nhìn ra những tật bệnh để kiên quyết chữa trị, giữ cho
cơ thể Đảng khỏe mạnh là một việc thường xuyên và tất yếu trong xây dựng
Đảng.
Đứng
trước căn bệnh quan liêu, xa dân, Hồ Chí Minh nhiều lần cảnh báo và chỉ ra
những biểu hiện nguy hại của nó: cách xa quần chúng, không hiểu thấu tâm tư
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, không học hỏi dân chúng, xem khinh quần
chúng, sợ quần chúng phê bình, thích dùng mệnh lệnh hành chính, thiếu kiểm tra,
đôn đốc trong lãnh đạo,... Người nghiêm khắc chỉ ra có một bộ phận cán bộ, đảng
viên “cả đời chỉ loanh quanh trong trụ sở. Có người thì bao giờ “sấm ra đá kêu”
mới gặp dân chúng một lần. Khi gặp dân chúng thì đút tay vào túi quần mà “huấn
thoại”, nói hàng giờ, nói bao la thiên địa. Song, những việc thiết thực cần kíp
của địa phương, những điều dân chúng cần biết thì không nói đến”(21). Để “tẩy
sạch” bệnh quan liêu, xa dân trong cán bộ, đảng viên, để người chiến sĩ cách
mạng tránh bị đào thải khi mắc phải chứng bệnh nguy hiểm này, Hồ Chí Minh đã
đưa ra liều thuốc “đặc trị”, trong đó thực hành “4 phải”:
“-
Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
-
Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
-
Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
-
Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư”(22).
Người
tin rằng, bằng cách đó, Đảng cầm quyền vừa chống được nguy cơ thoái hóa, biến
chất, sai lầm về đường lối vừa ngày càng trở nên trong sạch, vững mạnh
hơn.
Để
Đảng luôn vì dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng phải xây dựng được đội
ngũ cán bộ cách mạng “có lòng kiên quyết, có chí hy sinh”, đủ đức, đủ tài phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Đội ngũ đó phải ít lòng ham muốn về vật chất,
không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói đi đôi với làm, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư,... Phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên làm nên
chất lượng của Đảng tiên phong. Đảng ta như một cơ thể sống, từng tổ chức đảng,
từng cán bộ, đảng viên có đức và thực tài sẽ làm cho Đảng mạnh và ngược lại,
những sự vi phạm dân chủ, quan liêu, xa dân của người cán bộ, đảng viên sẽ làm
suy yếu Đảng, hệ thống chính trị và phong trào cách mạng. Cho nên, người cán bộ
cách mạng là thật sự là công bộc, tận tụy hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân - đó cũng chính là phục vụ chân lý và thực hành dân chủ - lẽ sống cao
thượng của người chiến sĩ cách mạng.
Trong
quá trình đó, phải nâng cao ý thức cảnh giác đối với những âm mưu phá hoại,
những luận điệu xuyên tạc, chống phá mà các thế lực thù địch có thể tuyên
truyền trong quần chúng nhân dân hòng hạ thấp uy tín của Đảng, làm cho nhân dân
mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý
hoài nghi, kích động nhân dân gây mất ổn định chính trị và chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc./.
-------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 290
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 – 612
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 294, 289
(5) Hồ Chí Minh: Văn hóa - nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1981, tr. 516
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 65
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 616
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 409 - 410
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 292
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 297
(11), (12) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 115, 28
(13)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 249
(15) Người xưa luận bàn về chính tâm và thân dân: có lần Quý Khang Tử hỏi Khổng Tử: “Sử dân kính, trung dĩ khuyến, như chi hà?” (Muốn khiến dân cung kính, trung thành và cổ vũ lẫn nhau, nên làm thế nào ?), Khổng Tử đáp: “Lâm chi dĩ trang, tắc kính; hiều từ, tắc trang; cử thiện nhi giáo bất năng, tắc khuyến” (Đối xử dân với thái độ trang trọng thì dân sẽ cung kính; hiếu thuận với cha mẹ, thương yêu với mọi người thì dân sẽ trung thành; cất nhắc người đức hạnh tài năng, dạy người yếu kém năng lực thì dân sẽ cổ vũ lẫn nhau). Dẫn theo: Những vấn đề biến đổi xã hội học trong sự biến đổi xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011, tr. 25
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 326
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 88
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 279
(19) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, t. 44, tr. 426
(20) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 311
(21), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 89, 90
PGS. TS. Đỗ Xuân Tuất
Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 290
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 – 612
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 294, 289
(5) Hồ Chí Minh: Văn hóa - nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1981, tr. 516
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 65
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 616
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 409 - 410
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 292
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 297
(11), (12) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 115, 28
(13)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 249
(15) Người xưa luận bàn về chính tâm và thân dân: có lần Quý Khang Tử hỏi Khổng Tử: “Sử dân kính, trung dĩ khuyến, như chi hà?” (Muốn khiến dân cung kính, trung thành và cổ vũ lẫn nhau, nên làm thế nào ?), Khổng Tử đáp: “Lâm chi dĩ trang, tắc kính; hiều từ, tắc trang; cử thiện nhi giáo bất năng, tắc khuyến” (Đối xử dân với thái độ trang trọng thì dân sẽ cung kính; hiếu thuận với cha mẹ, thương yêu với mọi người thì dân sẽ trung thành; cất nhắc người đức hạnh tài năng, dạy người yếu kém năng lực thì dân sẽ cổ vũ lẫn nhau). Dẫn theo: Những vấn đề biến đổi xã hội học trong sự biến đổi xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011, tr. 25
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 326
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 88
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 279
(19) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, t. 44, tr. 426
(20) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 311
(21), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 89, 90
PGS. TS. Đỗ Xuân Tuất
Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Theo
TCCS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét