Cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) đã làm dạng thức sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa (T - H - T’) chuyển hóa dần thành dạng thức sản xuất hàng
hóa kiểu liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị (H - T’ -
H’); mà theo đó, bán gắn liền với mua và thặng dư kinh tế được chia sẻ rộng
rãi, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ.
Như chúng ta đã biết, trước chủ nghĩa tư bản, ở
thời kỳ sản xuất hàng hóa giản đơn (H - T - H), hàng hóa được sản xuất
ra bằng công cụ thủ công; sức sản xuất bị giới hạn bởi sức người và kinh nghiệm
nên cách thức sản xuất hàng trăm năm không thay đổi; chủ thể của sản xuất và
trao đổi hàng hóa là những người sản xuất hàng hóa tiêu dùng (tiền chỉ
là vật trung gian để trao đổi những hàng hóa khác nhau nhằm mục đích tiêu
dùng). Nhưng ở dạng thức sản xuất hàng hóa giản đơn (H - T - H), mua đã tách
rời bán cả về thời gian và không gian (bán có thể chưa mua, bán ở nơi này nhưng
mua có thể lại ở nơi khác), cung tách rời cầu; nên sản xuất hàng hóa ngay ở
dạng thức giản đơn (H - T - H) tự bản thân nó đã hàm chứa sự không phù hợp giữa
cung và cầu, và đương nhiên cũng hàm chứa luôn cả sự tích lũy tiền (bán mà
không mua hoặc mua không hết tiền) và dần dần, tiền (T) trở thành mục đích trực
tiếp của sản xuất trao đổi hàng hóa, làm cho sản xuất hàng hóa từ dạng thức sản
xuất hàng hóa giản đơn (H - T - H) chuyển sang dạng thức sản xuất hàng hóa kiểu
tư bản chủ nghĩa T - H - T’ (với T’ > T).
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và kinh tế tư
bản cá biệt
Ở dạng thức sản xuất hàng hóa kiểu tư bản chủ
nghĩa (T - H - T’), chủ thể sản xuất không phải là người sản xuất hàng hóa tiêu
dùng, mà là nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt (nhà tư bản cá biệt); là nhà tư
bản cá biệt hay nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt, bởi vì: 1-
Họ đã tích lũy được tiền bạc, do đó, tập trung được các điều kiện của sản xuất
để sản xuất quy mô lớn; 2- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất mà
nội dung cốt lõi là cơ khí hóa đã đưa con người từ chỗ sử dụng công cụ
thủ công năng suất lao động thấp, tới chỗ sử dụng công cụ máy móc năng suất lao
động cao, làm cho con người có thể sản xuất ra số của cải lớn hơn số của cải
nuôi sống họ và gia đình họ (hay làm cho sức lao động có thể tạo ra số giá trị
lớn hơn giá trị của bản thân nó) để nhà sản xuất có thể tìm kiếm giá
trị tăng thêm (có thể kinh doanh) bằng cách sử dụng sức lao động với
tư cách là hàng hóa; 3- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã chuyển sản
xuất kiểu thủ công rời rạc thành sản xuất lớn kiểu máy móc cơ khí mà theo đó,
sản phẩm được làm ra theo một quy trình kỹ thuật nhất định (sản xuất là sản
xuất ra toàn bộ sản phẩm và là công việc mang tính tư nhân của nhà sản xuất);
4- Mặc dù sản phẩm (H) là do rất nhiều người làm ra, nhưng vì những người lao
động làm ra H cũng chỉ là những hàng hóa của nhà sản xuất với tư cách là sức
lao động mà nhà sản xuất đã mua về để sản xuất, nên H là của riêng nhà sản xuất
(nhà sản xuất là nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt). Vì thế, (như C. Mác phân
tích) T’ bao gồm chi phí sản xuất của nhà tư bản (T) và giá trị thặng dư (m) do
sức lao động họ mua được tạo ra (T’ = T + m). Vì chủ thể sản xuất là nhà tư bản
cá biệt mà toàn bộ thặng dư kinh tế (m) dưới hình thái tiền lợi nhuận là thuộc
về nhà tư bản, và vì tiền là mục đích của sản xuất nên phần lớn m dưới hình
thái tiền lợi nhuận lại được tích lũy để mở rộng sản xuất kiếm tiền không ngừng
(vô hạn độ), làm cho bán ngày càng lớn hơn mua; để rồi họ luôn phải đối mặt với
những cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ (bao gồm khủng hoảng cơ cấu và
khủng hoảng sản xuất thừa). Từ năm 1825, cứ 8 năm đến 12 năm khủng hoảng sản
xuất thừa của chủ nghĩa tư bản lại tái diễn một lần (năm 1825 ở nước Anh, năm
1836 ở nước Mỹ; năm 1847 ở Anh, Mỹ và châu Âu). Như vậy, cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất (hay cơ khí hóa) chính là nhân tố cơ bản bảo đảm sự
chuyển hóa thành công từ kinh tế hàng hóa giản đơn thời phong kiến sang kinh tế
tư bản chủ nghĩa; nhưng chính kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên nền tảng kỹ
thuật ấy lại làm cho mâu thuẫn tiềm ẩn giữa mua và bán trong sản xuất hàng hóa
bộc lộ ra thành khủng hoảng kinh tế như một căn bệnh kinh niên của chính kinh
tế tư bản.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai và kinh tế tư
bản tập thể (tư bản độc quyền)
Nếu như nội dung cốt lõi của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất là cơ khí hóa, thì nội dung cốt lõi của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ hai là điện khí hóa mà điển hình là sự
xuất hiện máy móc sử dụng điện,như động cơ đốt trong và sự xuất hiện một
loạt các ngành sản xuất công nghiệp mang tính tập trung cao, như
công nghiệp điện lực, công nghiệp luyện thép, công nghiệp hóa chất, công nghiệp
dầu mỏ; đặc biệt là việc xuất hiện máy móc sử dụng điện đã làm cho việc sản
xuất hàng loạt hàng tiêu dùng phát triển (nhất là ở lĩnh vực sản xuất quần áo,
đồ uống, thực phẩm, vận tải và giải trí liên quan đến điện, như phim ảnh, máy
phát thanh, máy ghi âm...). Và tập trung sản xuất cao là một
đặc điểm nổi bật của kinh tế tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn này, để rồi không
lâu sau đó, năm 1857 tất cả các nước tư bản phát triển ở châu Âu và
châu Mỹ đều lâm vào khủng hoảng kinh tế, và rồi định kỳ cứ khoảng 8 năm khủng
hoảng kinh tế lại xảy ra một lần (1866, 1873, 1882, 1890). Sau những cuộc
khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra, hình thức các-ten (hình thức độc
quyền) xuất hiện để “khắc phục mâu thuẫn giữa bán và mua” bằng cách
tìm tiếng nói chung về thị trường mà nội dung chủ yếu là các doanh
nghiệp lớn thống nhất với nhau dưới hình thức hiệp định thỏa thuận về
sản lượng sản xuất, về giá bán, về phương thức thanh toán; và đến sau khủng
hoảng kinh tế 1900 - 1903 thì các-ten (độc quyền) đã thực sự trở thành cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa tư bản, kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Bên cạnh hình thức
các-ten, còn các hình thức “khắc phục” mâu thuẫn giữa mua và bán khác, như
xanh-đi-ca (sản xuất riêng, bán chung), tờ-rớt (quản lý thống nhất cả mua và
bán); những hình thức “khắc phục mâu thuẫn mua - bán này đưa đến xuất hiện những
tập đoàn kinh tế lớn của các nhà tư bản lớn (tư bản tập thể) càng
làm cho sản xuất và của cải tập trung vào số ít là những nhà tư bản lớn; vì sau
khủng hoảng các nhà sản xuất nhỏ bị phá sản hàng loạt và vì các doanh nghiệp
nhỏ không thể cạnh tranh... tất cả những điều đó càng làm cho số ít người đó có
điều kiện tích lũy và tập trung tiền bạc để mở rộng sản xuất nhanh hơn, làm cho
mâu thuẫn giữa bán và mua càng gay gắt hơn; và đại khủng hoảng kinh tế 1929 -
1933 chính là hệ quả tất yếu của mâu thuẫn đó. Như vậy, nếu như cơ khí hóa
(cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất) là sự bảo đảm thắng lợi triệt để của
kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với kinh tế của địa chủ phong kiến ngàn năm trung
cổ, thì điện khí hóa (cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai) đã đưa
kinh tế tư bản chủ nghĩa từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền; nhưng kinh tế tư bản độc quyền không những không giải quyết
được mâu thuẫn giữa bán và mua mà còn làm cho mâu thuẫn đó càng trở lên gay gắt
hơn với sức tàn phá ghê gớm hơn (cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 xảy
ra ở 56 quốc gia, kéo dài suốt 5 năm, làm mất đi 1/3 sản lượng công nghiệp toàn
cầu và 2/3 giá trị thương mại quốc tế).
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư, và
sự hiện hữu của kinh tế chia sẻ
Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, thế giới thực sự
bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với kỹ thuật đặc trưng là điện
tử hóa, và vào thập niên 90 công nghệ điện tử - tin học đã thực sự bùng nổ
và tác động sâu sắc đến hầu hết các lĩnh vực sản xuất và đời sống của nhân
loại. Với sự xuất hiện của chất bán dẫn, của máy tính và các chíp điện tử; sự
xuất hiện của kỹ thuật điện tử viễn thông, kỹ thuật in điện tử, các linh kiện
điện tử siêu nhỏ đã đưa đến sự ra đời những máy móc kích thước nhỏ,
không chiếm diện tích rộng, ít ô nhiễm, ít lao động nhưng đòi hỏi trình độ cao,
rất thích hợp với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm cho các loại
hình doanh nghiệp này phát triển nhanh chóng; và phi tập trung hóa
trong sản xuất, kinh doanh thật sự trở thành một xu thế mạnh mẽ của thời đại, mà
theo đó, thay vì một doanh nghiệp làm ra tất cả các chi tiết của sản phẩm là việc
sản xuất sản phẩm phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau do nhiều nhà sản
xuất, kinh doanh khác nhau thực hiện(điển hình là trong lĩnh vực sản xuất
hàng điện tử, như ti-vi, điện thoại di động, máy điều hòa, tủ lạnh, xuất bản,
in ấn, phô-tô...); bằng cách đó mà các nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt
đã dần dần tự biến mình thành các nhà sản xuất, kinh doanh liên hiệp,
hình thành chuỗi giá trị của sản phẩm hay sản xuất theo chuỗi giá trị (Value
chain). Trong đó, sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động theo thứ tự để tại mỗi
hoạt động, sản phẩm thu được một số giá trị nào đó, đồng thời mang lại cho sản
phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động
cộng lại, làm cho sản xuất hàng hóa từ dạng thức T - H - T’ chuyển dần sang sản
xuất hàng hóa theo dạng thức H - T’ - H’. Trong đó:
T’ là giá trị của H, (T’ = T + ∆T);
T là phần giá trị của H nhưng không phải do nhà
sản xuất H tạo ra;
∆T là phần giá trị gia tăng do nhà sản xuất H
tạo ra và là một phần giá trị của H (một phần của T’).
Trong thực tế, T và ∆T được ghi nhận, được phản
ánh rất rõ ràng, cụ thể ở hệ thống hóa đơn chứng từ, vì đó chính là cơ sở để
tính thuế giá trị gia tăng; hay nói đúng hơn, sự ra đời của thuế giá
trị gia tăng là hệ quả và là bằng chứng về việc sản xuất - tiêu thụ liên hiệp
theo chuỗi giá trị đã tồn tại trên thực tế (1). Đặc biệt là từ khi
nhân loại bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (bắt đầu từ năm 2000)
với sự hiện diện của in-tơ-nét kết nối vạn vật (IoT) và nền
tảng kỹ thuật số đã làm xuất hiện mô hình kinh doanh theo chuỗi cung
ứng (Supply chain), chuỗi cung ứng kết nối các chuỗi giá trị thành hệ thống giá
trị như là một tổ hợp sản xuất - thương mại theo một kế hoạch gắn kết chặt chẽ
từ sản xuất đến tận tiêu thụ, bán lẻ cho khách hàng cuối cùng để gắn bán với
mua không chỉ trên phạm vi địa lý quốc gia mà còn trên quy mô toàn cầu (Global
value chain) với hàng trăm công ty kết nối với nhau với tư cách là những
nhà sản xuất hàng hóa liên hiệp thực sự(2). Và việc tổ chức
sản xuất - tiêu thụ kết nối các chuỗi giá trị làm cho dạng thức H - T’ - H’ không
chỉ là dạng thức kinh doanh xuất hiện trong lĩnh vực sản xuất mà còn là dạng
thức kinh doanh phát triển nhanh trong lĩnh vực lưu thông và các lĩnh vực dịch
vụ (đặc biệt là lĩnh vực thương mại, giao thông, chăm sóc sức khỏe... với hàng
loạt loại hình kinh doanh mới, như thương mại điện tử, Uber, Grap, các loại
hình taxi trực tuyến, vận tải trực tuyến, khám bệnh trực tuyến, với hàng trăm
loại nghề mới, như shipper đưa hàng, bác sĩ gia đình...); trong đó mỗi khâu
được xác định trên cơ sở tính toán kỹ thuật về mặt hoạt động và hạch toán về
mặt giá trị, hình thành các khâu sản xuất tiêu thụ gắn kết kế tiếp nhau mang
tính liên hiệp; các nhà sản xuất tiêu thụ ở từng khâu kế tiếp nhau trong chuỗi
giá trị kết nối lần lượt là “khách hàng” đầu vào và đầu ra của nhau, không
những làm cho cung gắn liền với cầu, bán gắn liền với mua, mà còn làm cho các
hoạt động, các công việc được chia sẻ, được kết nối hết sức rộng rãi và theo đó
mà “giá trị thặng dư dưới hình thái tiền lợi nhuận cũng được phân chia
rộng rãi” theo mức độ đóng góp giá trị gia tăng ở từng khâu của chuỗi
giá trị sản phẩm, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ và tầng lớp trung lưu
ngày càng đông đảo, tầng lớp tiêu dùng được mở rộng nhanh chóng, nâng
cao sức mua, thu hẹp sự cách biệt giữa mua và bán. Là người đứng đầu tập đoàn
công nghệ toàn cầu, Bin Ghết cũng nhìn thấy vấn đề này khi đưa ra nhận
xét “...toàn thế giới đang ngày càng trở nên bình quân, và xu hướng
toàn cầu tích cực này có vẻ sẽ còn tiếp diễn”(3); còn theo dự báo của Tổ
chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), tầng lớp trung lưu sẽ tăng từ 1,8 tỷ
người năm 2009 lên 4,9 tỷ người vào năm 2030, ở Việt Nam mỗi năm có thêm 1,5
triệu người gia nhập tầng lớp trung lưu theo chuẩn quốc tế; Hitting The
Sweet Spot dự báo “trong vòng 20 năm tới, ngày càng nhiều người sẽ gia
nhập tầng lớp này với nguồn tiền mới và nhiều nhu cầu cần được đáp ứng, các
nhà kinh tế hy vọng nhu cầu tiêu dùng lớn từ tầng lớp này sẽ giải cứu nền kinh
tế toàn cầu... bởi sự phân phối của cải toàn cầu sẽ thay đổi hoàn toàn...”(3).
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh xã hội trung lưu chính là kiểu xã hội chủ
nghĩa mà Trung Quốc hướng tới. Như thế, H - T’ - H’ là dạng thức sản xuất hàng
hóa liên hiệp không chỉ gắn kết trực tiếp giữa mua và bán, mà còn là
dạng thức kinh tế chia sẻ dưới hình thái chia sẻ tiền lợi nhuận; điều
đó không chỉ đúng với những gì đang diễn ra như là một đòi hỏi cấp thiết và
ngày càng rõ trong đời sống kinh tế ngày nay mà còn rất đúng với dự báo của C.
Mác trước đây rằng: nền sản xuất của xã hội tương lai phải là nền sản xuất được
tổ chức mang tính liên hiệp... nhưng ở giai đoạn đầu thì “tính quy định của giá
trị vẫn có ý nghĩa chi phối”.
Ngày nay, tuy mô hình sản xuất hàng hóa liên
hiệp theo chuỗi giá trị (H - T’ - H’) gắn kết chặt chẽ từ sản xuất đến tận tiêu
thụ, bán lẻ cho khách hàng và chia sẻ thặng dư kinh tế dưới hình thái chia sẻ
lợi nhuận chưa thực sự trở thành nền tảng của nền sản xuất xã hội và tuy tầng
lớp trung lưu trên toàn cầu mới chỉ có 1,8 tỷ người (chiếm 23% dân số thế
giới), nhưng điều hết sức kỳ lạ rất đáng suy nghĩ đã xảy ra là từ năm
1980 trở lại đây, các cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bắt đầu từ sản xuất
như trước nữa, mà lại bắt đầu từ lĩnh vực tài chính - tiền tệ rồi mới
lan sang lĩnh vực sản xuất. Các cuộc khủng hoảng 1980 - 1981, 1987 - 1988, 1997
-1998, và 2008 - 2013 đều là những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ; nguyên
nhân thực sự của sự đảo chiều 180 độ này có lẽ còn phải cần nghiên cứu thêm,
nhưng rất rõ ràng là từ năm 1980 đến nay, khủng hoảng kinh tế (ít nhất) cũng
không còn trực tiếp bắt đầu từ sản xuất nữa. Vậy điều gì sẽ xảy ra khi
mô hình sản xuất hàng hóa liên hiệp kết nối các chuỗi giá trị thành một tổ hợp
sản xuất - thương mại như một kế hoạch gắn kết chặt chẽ từ sản xuất đến tận
tiêu thụ, bán lẻ cho khách hàng và chia sẻ thặng dư kinh tế trở thành nền tảng
của nền sản xuất xã hội, khi tầng lớp trung lưu đông đến gần 5 tỷ người vào năm
2030 như dự báo của OECD là hoàn toàn có thể tiên đoán được (nếu dự
báo của OECD là đúng thì vào năm 2030 với dân số là 8,5 tỷ người, tầng lớp
trung lưu chiếm gần 60% dân số thế giới). Rõ ràng khi đó, thặng dư kinh
tế đã được chia sẻ rộng rãi làm cho cầu có khả năng thanh toán tăng lên mạnh mẽ
và cũng chính vì thế mà xã hội không thể tích lũy thặng dư kinh tế quá mức để
sản xuất quá mức như giai đoạn tư bản cá biệt và giai đoạn tư bản độc quyền -
đó chính là cơ sở gốc của sự cân bằng giữa bán và mua. Có lẽ, hy vọng
nhu cầu tiêu dùng lớn từ tầng lớp trung lưu đông đảo do xu hướng phi tập trung
hóa và dạng thức sản xuất hàng hóa liên hiệp kết nối các chuỗi giá trị sinh ra
sẽ giải cứu nền kinh tế toàn cầu... bởi sự phân phối của cải toàn cầu sẽ thay
đổi hoàn toàn như dự báo của một số nhà kinh tế không phải không có cơ
sở.
Tóm lại, cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần
thứ tư mà nội dung cốt lõi là công nghệ điện tử, công nghệ thông tin và
công nghệ số đang làm biến chuyển một cách cơ bản cách sản xuất và
trao đổi hàng hóa của nhân loại (đang làm T - H - T’ biến chuyển dần dần thành
H - T’ - H’); đó là kiểu sản xuất hàng hóa liên hiệp gắn kết trực tiếp giữa bán
với mua và hàm chứa sự chia sẻ rộng rãi thặng dư kinh tế, làm xuất hiện ngày
càng đông đảo tầng lớp trung lưu để lấy lại sự cân bằng giữa tiêu dùng và tích
lũy, giữa bán và mua (góp phần giải quyết mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa).
Đặc điểm của kinh tế chia sẻ (của sản xuất hàng
hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị)
Dạng thức kinh tế chia sẻ hay dạng thức sản xuất
hàng hóa liên hiệp (H - T’ - H’) có những đặc điểm khác hẳn với dạng thức sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa (T - H - T’):
Đặc điểm thứ nhất (nhìn từ góc độ nguyên tắc của
tái sản xuất), nếu ở dạng thức T - H - T’ tiền là điểm kết thúc đã làm cho sự
bù đắp về giá trị không gắn liền với sự bù đắp về hiện vật vì tiền chỉ là hình
thái “trú ngụ độc tôn” của giá trị, không mang hình thái giá trị sử dụng của
hàng hóa theo nghĩa tiêu dùng, thì ở dạng thức H - T’ - H’ giá trị sử dụng (H’)
là điểm kết thúc lại làm cho sự bù đắp về mặt hiện vật luôn gắn liền với sự bù
đắp về giá trị, bởi giá trị sử dụng của hàng hóa đồng thời cũng là “cái giá”
mang giá trị. Nói một cách khác, nếu như dạng thức T - H - T’ tự bản thân nó đã
hàm chứa và dung túng sự vi phạm nguyên tắc sản xuất phải được bù đắp cả về mặt
giá trị và hiện vật; thì dạng thức H - T’ - H’ tự bản thân nó lại là một bảo
đảm sự bù đắp hiện vật phải gắn liền với sự bù đắp về mặt giá trị; chính bằng
cách đó mà sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị hay kinh tế chia sẻ
đã cân bằng được giữa bán với mua.
Đặc điểm thứ hai (nhìn từ góc độ chủ thể của
hành vi mua và bán), nếu ở dạng thức T - H - T’ chủ thể sản xuất là những nhà sản
xuất hàng hóa cá biệt đã làm cho bán không gắn liền mua, thì ở dạng thức H - T’
- H’ chủ thể sản xuất là những nhà sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá
trị và kết nối các chuỗi giá trị lại làm cho bán gắn liền với mua.
Đặc điểm thứ ba và đây là đặc điểm cốt lõi nhất
(nhìn từ góc độ sức sản xuất và sức mua), nếu ở dạng thức T - H - T’ chủ thể trong sản
xuất là nhà sản xuất hàng hóa cá biệt đã làm cho toàn bộ phần thặng dư kinh tế
trong giá trị của sản phẩm dưới hình thái tiền lợi nhuận thuộc về nhà sản xuất
hàng hóa cá biệt, dẫn đến sự tích lũy và mở rộng sản xuất “vô hạn độ” làm cho
sức sản xuất ngày càng cách biệt sức mua, thì chủ thể sản xuất ở dạng thức H -
T’ - H’ là những nhà sản xuất tiêu thụ liên hiệp theo chuỗi giá trị mà theo đó
các hoạt động, các công việc được chia sẻ, được kết nối hết sức rộng rãi và
cũng theo đó mà thặng dư kinh tế dưới hình thái tiền lợi nhuận cũng được “phân
chia rộng rãi” theo mức độ đóng góp giá trị gia tăng ở từng khâu của chuỗi giá
trị sản phẩm, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ và tầng lớp trung lưu
ngày càng đông đảo, tầng lớp tiêu dùng được mở rộng nhanh chóng, do đó mà
nâng cao được sức mua, hạn chế được phần tiền của tích lũy cho sản xuất “vô hạn
độ”, vì thế mà cách biệt giữa mua và bán cơ bản được giải quyết.
Đặc điểm thứ tư, nếu như ở dạng
thức T - H - T’ với chủ thể sản xuất là những nhà sản xuất hàng hóa cá biệt,
chức năng thước đo giá trị và chức năng trao đổi của tiền đòi hỏi sự hiện diện
rất lớn của tiền mặt để lưu thông hàng hóa giữa họ, thì ở dạng thức sản xuất
hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị (H - T’ - H’) với chủ thể sản xuất là
những nhà sản xuất tiêu thụ liên hiệp, chức năng kế toán của tiền lại
là chủ yếu (tiền chủ yếu được sử dụng để phân tích, tính toán đo lường
sự gia tăng giá trị của các hoạt động ở từng khâu mắt-xích của chuỗi, để di
chuyển hàng hóa theo chuỗi bằng phương thức thanh toán bù trừ), vì vậy
mà sự hiện diện của tiền trong chuỗi giá trị chủ yếu chỉ là tiền trên ý niệm
(chuỗi giá trị thực tế như Mai-cơn Pooc-tơ mô tả chỉ là chuỗi giá trị phân
tích, chỉ là khái niệm từ quản lý sản xuất, kinh doanh) làm cho lượng
tiền mặt thực tế lưu thông giảm đi rất nhiều. Và khi tiền công, hoạt động mua
bán lẻ trong lĩnh vực tiêu dùng hoàn toàn được thanh toán bằng thẻ tín dụng thì
H - T’ - H’ là dạng thức sản xuất hàng hóa gần như không còn tiền mặt; H - T’ -
H’ chuyển hóa thành dạng thức H - H’, vì khi đó tiền hoàn toàn chỉ còn là tiền
trên ý niệm, chỉ còn là tiền kế toán - đúng như C. Mác đã dự báo đó là nền sản
xuất liên hiệp thực sự.
Như vậy, H - T - H và T - H - T’ là những dạng
thức sản xuất hàng hóa khác nhau trong lịch sử nhân loại và lịch sử nhân loại
cũng đã minh chứng sự ra đời của dạng thức sản xuất hàng hóa sau là một tất yếu
từ việc giải quyết mâu thuẫn ở dạng thức sản xuất hàng hóa trước, mà trong
đó các cuộc cách mạng công nghiệp đóng vai trò quyết định. Bài viết
này chỉ làm công việc là khái quát lại và dựa vào cái lô-gíc đó của lịch sử để
phân tích mà rút ra được rằng: cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba,
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm dạng thức sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa (T - H - T’) chuyển hóa dần thành dạng thức sản xuất hàng
hóa kiểu liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị (H - T’ -
H’); mà theo đó, bán gắn liền với mua và thặng dư kinh tế được chia sẻ rộng
rãi, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ, làm gia tăng mạnh mẽ tầng lớp trung lưu;
với những đặc điểm khác hẳn kiểu sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, nhưng
lại hoàn toàn kiểm chứng được về mặt thực tiễn qua mô hình sản xuất hàng hóa
liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị xuất hiện ngày càng
nhiều trong thế giới ngày nay./.
--------------------------------------------
(1) Như chúng ta đã biết, thuế là khoản thu gắn
liền với nhà nước, nhà nước có từ bao giờ thì thuế có từ bấy giờ; nhưng mãi tới
năm 1918, khái niệm thuế giá trị gia tăng mới xuất hiện do C.V. Xi-men - thành
viên sáng lập Tập đoàn SIEMENS AS - tập đoàn sản xuất hàng kim khí điện máy lớn
nhất nước Đức lúc bấy giờ đưa ra. C.V. Xi-men đã sớm nhận ra sự trùng lắp thuế
khi thực hiện thuế doanh thu, bởi khi đó việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
Tập đoàn phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau do nhiều nhà sản xuất,
kinh doanh khác nhau thực hiện. Tuy nhiên, cũng phải đến tận năm 1948, thuế
doanh thu mới tiếp tục được hoàn thiện bởi người Pháp theo hướng đánh vào từng
công đoạn của quá trình sản xuất tiêu thụ (thuế phải nộp của giai đoạn sau được
trừ số thuế phải nộp của giai đoạn trước); và năm 1954, Mo-ri-xơ Lo-rơ, một
viên chức thuế Pháp đã hoàn chỉnh đạo luật thuế giá trị gia tăng và thuế giá
trị gia tăng chính thức ra đời từ ngày 10-4-1954
(2) Chẳng hạn, The Supply-chain Council là một
tổ hợp thương mại toàn cầu kết nối 700 công ty bao gồm cả thiết kế kế hoạch,
cung ứng, sản xuất và bán lẻ...
(3), (4) Nguồn: bookhunterclub.
com>bill-gates-ban-ve-. . 2thg5,2016; lee jong-Wha “Asia’s Almighty Middle”,
Project Syndicate, 19-3-2015, nghiencuuquocte. org> trung-luu-chau-a; và
kinhtai. vn>Sự kiện, 26 th12. 2017
Đồng Văn PhườngTS, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét