Hơn 30 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đất nước ta có nhiều đổi mới cả về kinh tế, xã hội và chính trị.
Tại mỗi kỳ đại hội Đảng, báo cáo chính trị đều đề cập tới thành tựu cũng như
phương hướng tiếp tục đổi mới chính trị. Điều này khiến cho một số người băn
khoăn: “Liệu đổi mới chính trị có dẫn đến thay đổi chế độ chính trị?”. Bên cạnh
những suy tư chân thành như vậy, một số kẻ xấu cũng nhân đây rêu rao “Việt Nam
đang thay đổi chế độ chính trị, ngày càng xa rời chủ nghĩa xã hội!”. Trước
những suy tư và ngộ nhận nói trên, sau đây bài viết góp phần khẳng định Đảng
Cộng sản Việt Nam đã và tiếp tục lãnh đạo đổi mới chính trị, nhưng không phải
là thay đổi chế độ chính trị.
Việt Nam đã đổi mới
chính trị
Để thấy được sự đổi mới chính trị ở Việt Nam
trong hơn 30 năm qua, có thể xem xét những biểu hiện của nó trên 3 phương diện:
1- Đổi mới tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam; 2- Đổi mới thể chế
chính trị, cụ thể là đổi mới Hiến pháp và pháp luật; 3- Những biểu hiện dân chủ
hóa trong đời sống chính trị thực tế. Trên tất cả các phương diện đó, có rất
nhiều sự đổi mới, nhưng tựu trung là hướng đến một nền chính trị ngày càng dân
chủ đầy đủ hơn.
Thứ nhất, đổi mới tư duy chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) khẳng định, trước hết, Đảng ta đã
đổi mới tư duy chính trị, thể hiện ở việc nhận thức rõ hơn về tình hình thế
giới, từ đó đổi mới chủ trương, đường lối đối ngoại và đổi mới tổ chức cũng như
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Đúng là mọi sự đều phải bắt nguồn từ nhận
thức. Ngay từ năm 1986, mặc dù đây là thời điểm hệ thống xã hội chủ nghĩa do
Liên Xô đứng đầu vẫn còn tồn tại, có sức mạnh cân bằng với phương Tây do Mỹ
đứng đầu, song từ tình hình thế giới và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
năm 1975, Đảng ta đã bước đầu thấy rõ cần có sự thay đổi mạnh mẽ tư duy về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó bao hàm thay đổi nhận thức về
chính trị quốc tế. Từ nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động hướng đến
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN). Tư duy này càng được củng cố với việc Việt Nam dần xóa bỏ
thế bị bao vây cấm vận và thế bị cô lập trên trường quốc tế. Với đường lối đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế,
đến nay Việt Nam đã là thành viên có uy tín của nhiều tổ chức quốc tế và khu
vực, có quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, quan hệ thương mại với 200 quốc
gia và vùng lãnh thổ, là một trong 12 thành viên đầu tiên của Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Song song với đổi mới tư duy về chính trị
quốc tế, tư duy mới về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của các
giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xây dựng đất nước,... ngày càng được củng cố,
trở thành cốt lõi trong tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm
1991 và “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) là quá trình hoàn thiện
nhận thức về chủ nghĩa xã hội thấm đậm tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều quan trọng là
những tư duy mới này không phải chỉ là tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam với tư cách là đảng cầm quyền, mà còn là nhận thức chung của cả xã hội,
định hướng cho hoạt động của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội và mỗi người dân.
Thứ hai, đổi mới thể chế chính trị.
Đổi mới tư duy chính trị với những nội dung
cơ bản nêu trên được chuyển thành những thay đổi về mặt thể chế. Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã được sửa đổi theo sự
đổi mới của tư duy chính trị. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Hiến pháp
năm 2013 và hàng chục đạo luật khác đã thể chế hóa về mặt pháp lý tư duy chính
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo thành khuôn khổ thể chế cho đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị. Có thể thấy sự đổi mới của thể chế chính
trị như sau:
Mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân: Điều 2 Hiến pháp năm 2013 ghi: “1- Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức”.
Hiến pháp khẳng định, nhân dân thực hiện
quyền dân chủ không chỉ thông qua Nhà nước, qua tổ chức đại diện khác, mà còn
bằng hình thức trực tiếp. Luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân
từ năm 1992 đến nay đều cho phép công dân có quyền tự ứng cử. Những văn bản quy
định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về thủ tục hành chính, về bầu
cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, về chế độ trách nhiệm của
người được bầu; những văn bản pháp luật bảo đảm quyền làm chủ của công dân,
như: Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo (nay là Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo); Pháp
lệnh Thanh tra (nay được nâng thành Luật Thanh tra), Luật Báo chí (sửa đổi),
Luật Xuất bản (sửa đổi), Pháp lệnh về phòng, chống tham nhũng (nay là Luật
Phòng, chống tham nhũng), đặc biệt là Quy chế Dân chủ ở cơ sở (sau nâng thành Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn)..., tất cả đã minh chứng sự thay
đổi mạnh mẽ trong thể chế chính trị Việt Nam theo hướng ngày càng dân chủ hơn.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Qua sự sàng lọc của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam. Với địa vị
đó, đã có lúc Đảng bao biện, làm thay Nhà nước (như tự phê bình của Đảng). Từ
năm 1991, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” đã khẳng định, Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Điều này được khẳng định lại tại Điều 4
Hiến pháp năm 2013. Cùng với phát triển tư duy về nhà nước pháp quyền, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn tìm tòi để giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, trong sự phát triển của đất nước không thể không
có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời không thể không có sự
lãnh đạo của Đảng. Đảng phải lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền, đồng thời
tuân thủ quyền hạn của Nhà nước pháp quyền. Nghị quyết của Đảng không thay cho
pháp luật; quyết định của Đảng không thay cho quyết định của cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước. Đảng viên của Đảng phải thông qua bầu cử trực tiếp của cử
tri hoặc bầu cử gián tiếp của đại biểu nhân dân mới trở thành người nắm giữ các
chức vụ nhà nước và có quyền lực nhà nước.
Về mặt tổ chức, trong các cơ quan nhà nước
đều có cấp ủy đảng là hạt nhân lãnh đạo, như đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng
ủy..., nhưng không vì thế mà các đảng viên giữ cương vị đứng đầu các cơ quan
nhà nước khi vi phạm pháp luật có thể tránh khỏi bị xử lý nghiêm khắc cả về mặt
đảng và chính quyền.
Mối quan hệ giữa nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội với Đảng: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động, là đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng chịu sự giám sát của
nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi quyết định của mình. Đây là
những khẳng định rất mới, thể hiện mối quan hệ hai chiều giữa người lãnh đạo và
người chịu sự lãnh đạo; giữa đại biểu cho một bộ phận và đại biểu cho toàn thể
dân tộc.
Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng thể hiện rõ hơn tinh thần dân
chủ. Điều đó được thể hiện trong các quy định của pháp luật, của Điều lệ Đảng,
cũng như trong các quy định của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội. Theo đó, Đảng dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội,
đồng thời chịu sự giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức này.
Thứ ba, những biểu hiện dân chủ hóa trong đời
sống chính trị thực tế.
Với sự đổi mới tư duy chính trị và đổi mới
thể chế chính trị, thực tiễn đời sống chính trị của đất nước trong hơn 3 thập
niên qua đã khởi sắc theo hướng ngày càng dân chủ hơn, đúng như Đảng ta đã xác
định từ Đại hội VII (năm 1991): Thực chất của đổi mới hệ thống chính trị chính
là vấn đề dân chủ hóa.
Trong các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp, có nhiều công dân ngoài Đảng tự ứng cử và không ít người
đã trúng cử. Đã có nhiều hơn đại biểu cho khối doanh nhân tham gia cơ quan
quyền lực nhà nước. Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thể hiện rõ
hơn quyền lực của cơ quan đại biểu của nhân dân trong lập pháp, giám sát và
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương. Bộ máy hành chính
nhà nước từ Trung ương đến địa phương đang đổi mới theo hướng công khai, minh
bạch, hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ đang phấn đấu không chỉ là người phục vụ
nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, mà còn là người kiến tạo phát triển. Bộ máy tư
pháp đã có những cải cách quan trọng, thể hiện rõ hơn vai trò bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, có trách nhiệm với sinh mệnh của người
bị xử oan, sai.
Để ngày càng xứng đáng là đảng duy nhất cầm
quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang, một mặt, tăng cường
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; mặt
khác, quyết liệt đấu tranh với tham nhũng, lãng phí. Chưa khi nào công
tác kiểm tra, kỷ luật đảng được tiến hành mạnh mẽ như hiện nay. Chỉ trong nhiệm
kỳ Đại hội XII, đến nay đã có gần 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính trị,
Ban Bí thư quản lý và hàng nghìn người khác bị kỷ luật với những hình thức khác
nhau. Hầu như tất cả số đó đều liên quan tới tham nhũng. Đáng chú ý là, cuộc
đấu tranh chống tham nhũng đã được đông đảo nhân dân, các phương tiện thông tin
đại chúng ủng hộ, hưởng ứng, và điều đó càng làm tăng thêm uy tín của Đảng.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với Đảng, Nhà nước trong
những năm qua đã mạnh mẽ hơn. Vai trò của báo chí ngày càng trở nên quan trọng
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, trên khắp đất nước, bên
cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội chính thống, đã có hàng trăm tổ
chức tự nguyện của các tầng lớp, giai cấp có phạm vi hoạt động trong cả nước;
hàng nghìn tổ chức hoạt động trong phạm vi địa phương được thành lập và có đóng
góp đáng kể vào phát triển kinh tế, xã hội của các vùng, miền.
Dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế ngày càng
rõ nét với sự lớn mạnh không ngừng của thành phần kinh tế tư nhân và môi trường
kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Kinh tế tư nhân đã thực sự trở thành một trong những động lực quan trọng của
phát triển đất nước và tiếp tục được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
Tất cả những đổi thay đó là điều không thể
phủ nhận, ngay cả đối với một số người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đã nhiều
năm chống đối Đảng, Nhà nước ta. Ghi nhận sự đổi mới chính trị cả trong tư duy
chính trị lẫn thể chế chính trị và đời sống chính trị thực tế, nhiều tổ chức
quốc tế, nhiều quốc gia đã thiết lập và phát triển quan hệ chính trị tốt đẹp
với Việt Nam. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khái quát tại Đại hội
XII: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức
mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Đổi mới chính trị ở
Việt Nam đã và sẽ không làm thay đổi chế độ chính trị, mà làm cho chế độ chính
trị ngày càng thể hiện rõ hơn sự tiến bộ và phù hợp với điều kiện, đặc điểm của
đất nước Việt Nam
Những đổi
mới về chính trị như đã nêu ở trên có làm thay đổi chế độ chính trị của Việt
Nam hay không? Câu trả lời là “không!”. Đó là khẳng định và quyết tâm của Đảng
Cộng sản Việt Nam và cũng là nguyện vọng của đa số người dân Việt Nam.
Để thấy rõ căn cứ khoa học và thực tiễn của
vấn đề này, trước hết, cần hiểu được các khái niệm “chế độ
chính trị” và “chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay”, và vì sao chế độ chính
trị của Việt Nam hiện nay lại là sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam và đại
đa số nhân dân Việt Nam; thứ hai, chế độ chính trị của Việt
Nam hiện nay có tương thích, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hay không?
Về các khái niệm “chế độ chính trị” và “chế
độ chính trị của Việt Nam hiện nay”.
Khái niệm “chế độ chính trị” đã xuất hiện từ
lâu trong sách, báo chính trị, song thật khó tìm được một định nghĩa hoàn chỉnh
về nó. Ngay cả C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng không đưa ra định nghĩa về khái niệm
này. Cũng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin rất ít khi sử dụng khái niệm
“chế độ chính trị”. V.I. Lê-nin cũng không đưa ra định nghĩa về nó. Do vậy,
chỉ có thể thông qua văn cảnh của V.I. Lê-nin mà nhận biết nội hàm của khái
niệm này. Chẳng hạn, trong “Thư gửi Đại hội Đảng Cộng sản (b) Nga lần
thứ XIII”, năm 1922, V.I. Lê-nin viết: “Tôi rất muốn đề nghị Đại hội
lần này quy định một số thay đổi trong chế độ chính trị của chúng ta”(1).
Trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”, V.I. Lê-nin nói: “Người
ta quên mất rằng, do đặc điểm của chế độ chính trị nước ta mà hợp tác xã ở nước
ta có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Nếu không kể những tô nhượng... thì thường
thường trong hoàn cảnh nước ta, chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với
chủ nghĩa xã hội”(2). Nói tới chế độ chính trị của nước Nga Xô-viết,
V.I. Lê-nin coi đó là sự tồn tại thực tế của chính quyền Xô-viết, là vai trò
độc quyền lãnh đạo của một đảng cộng sản duy nhất ở Nga, hay nói rộng hơn, là
sự độc quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân và liên minh giữa giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân.
Tuy không định nghĩa “chế độ chính trị”,
nhưng khi nói đến nó, các nhà kinh điển mác-xít muốn trả lời cho câu hỏi: Quyền
lực nhà nước đang nằm trong tay giai cấp nào và cá nhân nào; nó được hình thành
theo phương thức nào (chiếm đoạt hay bầu cử) và được thực hành theo nguyên tắc
nào (độc đoán hay dân chủ)?
Theo nhà nghiên cứu khoa học chính trị người
Anh An-đrây Hây-út (Andrew Haywood), các nhà nghiên cứu khoa học chính trị đều
thừa nhận việc đề cập đến nội hàm khái niệm “chế độ chính trị” là khó thống
nhất và cần phải dựa vào nhiều tiêu chí, trong đó có một số tiêu chí thường
được đưa ra nhằm trả lời các câu hỏi sau: 1- Ai cai trị? Sự tham gia chính trị
chỉ có nhóm tinh hoa, nhóm ưu tiên hay bao gồm toàn thể nhân dân? 2- Làm thế
nào để đạt được sự hài lòng? Sự tuân thủ chính phủ dựa trên sự đe dọa, cưỡng
bức hay là sự thỏa thuận? 3- Quyền lực của chính phủ là tập trung hay phân tán?
Hình thức nào để kiểm tra và cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị? 4-
Quyền lực chính phủ bị đòi hỏi và chuyển giao như thế nào? Đó là chế độ mở và
cạnh tranh hay độc quyền? 5- Cái gì làm cân bằng giữa Nhà nước và cá nhân? Sự
phân bổ quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ và công dân là thế nào? 6- Sự phát
triển mức sống vật chất thế nào? Sự phân phối của cải có bình đẳng không?
7- Đời sống kinh tế được tổ chức ra sao? Kinh tế đi theo cơ chế thị trường hay
cơ chế kế hoạch? Vai trò kinh tế của Nhà nước thế nào? 8- Làm thế nào để chế độ
ổn định, tồn tại qua thời gian và có năng lực đáp ứng đòi hỏi và thách thức
mới?
Cũng có cách phân chia chế độ chính trị theo
hình thức nhà nước, như quân chủ tuyệt đối, quân chủ lập hiến, cộng hòa tổng
thống, cộng hòa nghị viện, cộng hòa nửa tổng thống...
Ngoài ra, có thể phân chế độ chính trị theo
thái độ ủng hộ hay không ủng hộ tự do dân sự. Theo đó, có thể phân thành chế độ
vô chính phủ, chế độ thiểu quyền, chế độ toàn trị.
Trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội,
các nhà nước thường xác định chế độ chính trị của mình qua quốc hiệu và hiến
pháp (mặc dù trong thực tế, có thể không đạt được). Tùy theo mỗi nước, hiến
pháp sẽ cụ thể hóa chế độ chính trị trong lời nói đầu, hay trong một số điều
khoản nhất định, trong một chương, thậm chí trong nhiều chương, nhất là các
chương về quyền hạn, nhiệm vụ của các thiết chế nhà nước cụ thể, như tổng
thống, nghị viện, tòa án....
Hiến pháp nước Mỹ, từ văn bản đầu tiên (năm
1789) cho đến ngày nay với nhiều lần được bổ sung, không có chương nào quy định
về chế độ chính trị, song qua toàn bộ các điều của Hiến pháp, người ta thấy
được tinh thần cộng hòa và dân chủ mà nhà nước Mỹ và xã hội Mỹ sẽ đi theo.
Như vậy, từ khoa học chính trị, khoa học pháp
lý và từ thực tiễn của các nước trên thế giới, có thể hiểu “chế độ
chính trị” là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những nguyên tắc cơ bản
điều chỉnh tổ chức và hoạt động của nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân, giữa nhà nước và các tổ chức chính trị; điều chỉnh các quá trình chính trị
cơ bản của đất nước, qua đó thể hiện bản chất giai cấp của quyền lực chính trị
trong xã hội.
Nói về chế độ chính trị của Việt Nam, Hiến
pháp Việt Nam năm 1946 có chương đầu là “Chính thể” (thể chế chính trị), trong
đó chỉ nêu 3 điều ngắn gọn, khẳng định những điều cơ bản, tối quan trọng mà đất
nước đã và sẽ phấn đấu hướng đến là Dân chủ, Cộng hòa và Thống nhất lãnh thổ.
Hiến pháp Việt Nam năm 1959 có tên chương I
là “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, trong đó có 8 điều cụ thể hóa về chế độ
chính trị. Tiếp theo, chương II có tên là “Chế độ kinh tế và xã hội”.
Các bản Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và năm
1992 có tên chương I là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính
trị”, với nhiều điều quy định. Tiếp theo, chương II có tên là “Chế
độ kinh tế”.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có tên chương
I là “Chế độ chính trị”, với 13 điều quy định một cách toàn diện, bao
trùm, từ vấn đề độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đến các vấn đề về bản
chất và nguyên tắc tổ chức nhà nước, vị trí, vai trò của nhân dân, của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội,
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, nguyên tắc đối ngoại của Nhà nước Việt
Nam, trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền
công dân, trừng trị các hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
và sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước...
Đó là những điều khẳng định những thành quả
mà cách mạng nước ta đạt được trong nhiều thập niên đấu tranh giành độc lập và
xây dựng đất nước, nhất là qua hơn 3 thập niên tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước. Đó cũng là lý tưởng, mục đích mà cả dân tộc hướng tới và cần phát huy hơn
nữa. Đó vừa là những nguyên tắc có tính chỉ đạo xuyên suốt việc tiếp tục xây
dựng các quy định pháp luật cụ thể, vừa là những nguyên tắc điều chỉnh ngay các
hoạt động thực tiễn của công dân, Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền.
Do đó, Hiến pháp năm 2013 sau khi được hàng triệu lượt cá nhân, tổ chức góp ý
và được Quốc hội thông qua, đã chứng minh cho sự thống nhất, đồng lòng với Đảng
Cộng sản Việt Nam của đại đa số nhân dân ta.
Cũng giống chế độ chính trị của bất kỳ quốc
gia nào, chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay là sản phẩm của quá trình phát
triển, hoàn thiện và sẽ tiếp tục được phát triển, hoàn thiện.
Phát triển, hoàn thiện chế độ chính trị ở
Việt Nam không cản trở quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế của đất nước,
mà càng làm cho đất nước độc lập, tự chủ, giàu mạnh, phồn vinh, người dân được
tự do, hạnh phúc.
Chủ nghĩa Mác khẳng định, suy cho cùng, kinh
tế quyết định chính trị. Theo quy luật tiến hóa của loài người, các chế độ
chính trị sẽ ngày càng tiến bộ vì con người. Sự phát triển của thế giới ngày
nay trên nền tảng của quan hệ kinh tế thị trường toàn cầu hóa với cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư khiến nhiều quốc gia phải đổi mới, không chỉ về
kinh tế mà cả về chính trị. Việt Nam đang trên đà tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế cũng sẽ tiếp tục đổi mới chính trị. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII
của Đảng đã nêu lên những phương hướng cơ bản của công cuộc xây dựng đất nước,
mà theo nghĩa rộng của khái niệm, đều thể hiện sự phát triển và hoàn thiện đổi
mới chính trị. Theo nghĩa hẹp, có thể coi 4 phương hướng sau (cũng do Đại hội
XII của Đảng đề ra) đều liên quan trực tiếp tới đổi mới chính trị, đó là: Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trên mỗi phương hướng nêu lên, Đảng ta đề ra
nhiều giải pháp cụ thể. Có những giải pháp đã được thực hiện từ nhiều năm
trước; có những giải pháp mới hơn hoặc mạnh mẽ hơn, được cụ thể hóa bằng những
nghị quyết hội nghị Trung ương trong thời gian gần đây và trở thành hành động
thực tế. Có thể nói, việc Đảng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong thời gian vừa qua là mạnh mẽ chưa từng có, có ý nghĩa không chỉ làm
trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước, mà còn làm tăng sự tin tưởng và ủng hộ
của nhân dân đối với Đảng. Cũng như vậy, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng
chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số để phục vụ tốt hơn cho doanh nghiệp và
người dân, kiến tạo phát triển vừa tạo được sự ủng hộ của người dân và cộng
đồng quốc tế đối với Nhà nước Việt Nam, vừa thực sự thúc đẩy phát triển kinh
tế, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Cộng đồng quốc tế
đã thừa nhận sự đổi mới và phát triển nhanh chóng của Việt Nam trong hơn 30 năm
qua gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam đã bước vào
ngưỡng phát triển trung bình của thế giới, có nhiều thành tựu trong xóa đói,
giảm nghèo, tạo lập sự công bằng, không để ai bị gạt ra bên lề của sự phát
triển, cũng như trong thực hiện bình đẳng giới... Cộng đồng quốc tế sẽ tiếp tục
ủng hộ mạnh mẽ một Việt Nam ổn định về chính trị, phấn đấu vì sự giàu mạnh của
đất nước, hạnh phúc của nhân dân.
Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm, không chỉ
liên quan tới việc quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị nằm trong tay ai, mà
còn liên quan trực tiếp tới tự do, hạnh phúc của mỗi người dân, vận mệnh của cả
đất nước, dân tộc. Đổi mới chính trị vừa là yêu cầu từ cuộc sống, vừa là nhu
cầu từ chính bản chất của Đảng, Nhà nước ta. Bởi vậy, đổi mới chính trị đòi hỏi
phải giữ vững những nguyên tắc làm thành chế độ chính trị, đồng thời phải có sự
khéo léo của đội ngũ những người lãnh đạo. Đó là những thách thức lớn đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam chân
chính./.
----------------------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 45, tr. 393, 427
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét