Bản Di chúc
thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị
lịch sử và tầm nhìn thời đại, tầm nhìn xa trông rộng của một bậc thiên tài. Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm
qua, hôm nay và cho cả mai sau. Di chúc bất hủ của Người là chỉ dẫn, là lời
dạy, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền
vững.
Di chúc là
tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.
Là người
cách mạng, là người mácxít, là người thấu hiểu quy luật khách quan của tự
nhiên, của xã hội, của con người, trong Di chúc, Bác Hồ đã nhận thức và đón
nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại,
chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Bác viết: "Tôi
để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách
mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp
nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".
Mở đầu Di
chúc với ý chí phi thường, niềm tin son sắt, tinh thần lạc quan cách mạng,
trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo rất
đúng về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và về sự thống nhất đất nước.
Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh
qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là
một điều chắc chắn". Đây là dự báo của một thiên tài, biết trước sự việc
như Hồ Chí Minh. Người cũng nêu những công việc Người dự định làm sau đó. Người
viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc
mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu
thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".
Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.
Là Người
sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công
tác xây dựng Đảng. Người cho rằng sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, thì vấn đề
đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự
vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong
Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm
quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không
thể thắng lợi.
Xây dựng và
giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống
nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, mà còn là sinh
mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trong bản Di
chúc, vốn được Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965,
Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG” và Người cũng khẳng định sức mạnh to lớn
của đoàn kết qua thực tiễn cách mạng nước ta: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng
một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày
thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng
hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là
mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về cả
mai sau.
Vì sao Chủ
tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết
thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người
còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất, đó
không phải là đoàn kết giả tạo, hình thức, nó phải thể hiện cả ở tư tưởng, cả
trong hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là
đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, ban hành một quyết sách thì
không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau lại nhân danh đoàn
kết, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của
Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa
trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, của
nhân dân, của tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song
khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho
phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Đảng là tổ
chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia
tổ chức một cách tự giác, tự nguyện, việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các
nguyên tắc của Đảng không chỉ là nguyện vọng của nhân dân mà còn là trách nhiệm
của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản
và quan trọng, trong từng tổ chức Đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ,
“Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của
mình”(1), mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, được
lắng nghe; mọi quyết định quan trọng đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách
dân chủ. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm túc tự
phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và
thống nhất của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên
phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện
đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo
Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám
mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê
bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”(2). Đây cũng là quy luật
phát triển của Đảng, tự phê bình và phê bình là để giúp nhau sửa chữa, giúp
nhau tiến bộ, để công việc được hiệu quả hơn, để đoàn kết và thống nhất trong
nội bộ. Để thực hiện đoàn kết thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc
dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Trong Di chúc, Người căn dặn
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng.
Để có sự
đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện nguyên tắc, bản lĩnh, lý trí mà còn
rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ
sung vào bản Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có
sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán
bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu.
Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà
còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì
vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức Đảng bên cạnh
việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi
dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí.
Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng,
chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo
Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội
mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng,
xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Sự đoàn kết
thống nhất trước hết phải được xây dựng trong Đảng, được thể hiện trong Đảng.
Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình trước những
tác động từ bên ngoài. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong
Đảng.
Nhìn lại
chặng đường đã qua với không ít giai đoạn rất phức tạp, nhưng Ban Chấp hành
Trung ương mà hạt nhân là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn vững vàng, luôn đoàn kết
thống nhất.
Thấm nhuần
tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng,
giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy
được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh
đạo đất nước mà Nhân dân đã tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ đại hội Đảng,
vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá
một cách toàn diện và sâu sắc.
Trong Di
chúc, ngay sau khi nói về Đảng, là Người nói về đoàn viên và thanh niên. Người
viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái
xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn:
"Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa
"chuyên".
Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
50 năm qua,
Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều
đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp
cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng,
những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng
ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn
xa của Hồ Chí Minh về xây dựng lớp lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng của nhân dân là hết sức tài tình. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào
thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự
quan tâm, sự chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa việc chăm lo đào
tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc
cực kỳ quan trọng của Đảng, của nhân dân ta.
Nói về nhân
dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi
cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực
dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy,
nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân
ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".
Suốt cuộc
đời của Người là chăm lo cho đời sống của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn
dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
Khi viết VỀ
VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này,
tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn
nữa, nhiều hơn nữa".
Ngay cả việc
ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau
khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì
giờ và tiền bạc của nhân dân".
Nhân dân
luôn trong trái tim của Người, tất cả vì nhân dân, dành cho nhân dân. Người
viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Cả cuộc đời
Chủ tịch Hồ Chí Minh là phấn đấu, hy sinh cho dân tộc, cho nhân dân; là phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Người mong muốn và có niềm tin
mãnh liệt vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân
tộc, của nhân dân ta. Đoạn cuối cùng của bản Di chúc lịch sử, thiêng liêng,
Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới". "Một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh" phải chăng là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tương lai hay đây chính là đặc trưng cơ bản
nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bản Di chúc
thiêng liêng, lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân
ta không dài, cô đọng, súc tích, giản dị, dễ hiểu; nhưng trong đó hàm chứa
những tư tưởng vĩ đại, lớn lao của Người định hướng cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc, của nhân dân Việt Nam cả hôm qua, cả hôm nay và cả mai sau.
Sau 50 năm
thực hiện Di chúc của Người, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư
tưởng thiên tài của Bác ngay từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là
ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 50 năm thực hiện Di
chúc thiêng liêng của Người, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Bác, chúng
ta tự hào đã làm được nhiều việc, chúng ta trân trọng những thành quả đã đạt được;
nhưng chúng ta cũng rất buồn, thậm chí đau lòng về những thiếu sót, hạn chế,
thậm chí những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội, ngay trong Đảng vẫn còn sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên.
Bước vào
thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ
phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá
nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và
thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình
có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên
cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa
phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Những năm
gần đây, Đảng ta đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc
giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng và trong các cơ quan, đơn
vị. Tuy nhiên, thực tế là ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm
trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa
thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất
trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng
lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực
sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức Đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho
thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động,
ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại,
những người nắm trọng trách lãnh đạo, nhất là ở cấp cao nếu không có ý thức
đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ
lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời
điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ vận hội mới nhưng cũng đầy những
thử thách lớn lao, những thành tựu toàn Đảng, toàn dân đạt được qua gần 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết
thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự
trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế
giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta
vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn
tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ,
gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất
trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay.
Giờ đây,
đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối
với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây
dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các
tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết của Đảng
chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm
đoàn kết dân tộc.
Đặc biệt,
trước thềm Đại hội XIII của Đảng, khi chúng ta đang đứng trước thời điểm phải
lựa chọn những người xứng đáng, vừa có tài, vừa có đức để đảm nhận những trọng
trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy
truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của
tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự
thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
-------------------------
(1) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.118.
(2) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.223.
PGS.TS.
VŨ VĂN PHÚC
Phó
Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Trung ương
Ban Tuyên
giáo Trung ương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét