VĂN
HÓA LÃNH ĐẠO HỒ CHÍ MINH - CHUẨN MỰC
VĂN
HÓA LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tiêu chí đánh
giá sự khác nhau về văn hóa lãnh đạo giữa các đảng chính trị phụ thuộc vào tính
chất, mức độ, phạm vi tác động của các giá trị mà đảng đó tạo ra. Tức là, đảng
đó đại diện cho giai cấp, tầng lớp nào, ra đời, tồn tại và phát triển vì mục
tiêu gì, những giá trị và những biến đổi xã hội được tạo ra dưới sự lãnh đạo
của đảng có tính phổ quát không, có phù hợp với quy luật khách quan và xu thế
thời đại hay không. Theo đó, têu chí nào đánh giá văn hóa lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, hay nói cách khác, chuẩn mực văn hóa lãnh đạo của Đảng ta là
gì? Thực tế cho thấy, với vai trò là người sáng lập, rèn luyện Đảng ta và có khoảng
thời gian dài trên cương vị Chủ tịch Đảng - văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh không
chỉ là chuẩn mực văn hóa lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn làm cho
văn hóa lãnh đạo của Đảng ta thực sự nhân văn, nhân đạo, có tính phổ quát và
sức sống lâu bền cùng thời gian.
Văn hóa lãnh đạo là những giá trị được sáng tạo ra trong quá
trình các đảng chính trị hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của mình. Những giá
trị đó biểu hiện ở hệ tư tưởng; ở chủ trương, đường lối của đảng và cách thức
tổ chức thực hiện đường lối đó; ở phẩm chất, nhân cách đội ngũ cán bộ, đảng
viên và những biến đổi trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng. Văn hóa
lãnh đạo không chỉ có tính cộng đồng mà còn có tính
cá nhân sâu sắc. Bởi lẽ, những giá trị
chung của văn hóa được hình thành từ sự chấp nhận và chia sẻ của cộng đồng đối
với những giá trị riêng mà mỗi cá nhân tạo ra. Do đó, trong trường hợp cụ thể,
những giá trị mang dấu ấn cá nhân, nếu thực sự vĩ đại, thực sự đặc sắc, hoàn
toàn có thể chi phối, định hướng cho quá trình sáng tạo các giá trị mới của cả
một giai cấp, một cộng đồng, một quốc gia dân tộc, thậm chí là cả nhân loại.
Lịch sử chính trị thế giới đã ghi
nhận văn hóa chính trị của các cá nhân như: C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin - những
người đã làm thay đổi về chất quá trình ứng xử của giai cấp vô sản với quyền lực
nhà nước của giai cấp tư sản và tạo cơ sở, nền tảng để các Đảng Cộng sản sáng tạo
những giá trị mới của văn hóa lãnh đạo. Ở nước ta, Hồ Chí Minh là Anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với khoảng thời gian 24 năm trên cương vị
Chủ tịch Đảng - Văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, văn hóa chính trị của Người nói
riêng, trong đó có văn hóa lãnh đạo đã sớm trở thành nền tảng, chuẩn mực văn
hóa lãnh đạo của Đảng ta. Thực tế cho thấy, ngay từ Đại hội II (2-1951), Đảng ta đã khẳng định: “Hồ Chủ tịch, người
cộng sản Đông dương đầu tiên và là sáng lập viên của Đảng. Người đem thân thế
và tài năng của mình hoàn toàn cống hiến cho Đảng và cho công cuộc giải phóng của
giai cấp công nhân và dân tộc... Đường
lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là
đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch… Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường
lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy,
là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng
lợi hoàn toàn”[2]. Hơn
nữa, Đảng ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. Đây chính là cơ sở lý
luận chắc chắn nhất về vai trò của cá nhân đối với cộng đồng, mà cụ thể là của
C.Mác, Ph.Ănghgen, Lênin và Hồ Chí Minh đối với sự hình thành, phát triển văn
hóa lãnh đạo của Đảng ta.
Văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành văn
hóa chính trị của Người, bao gồm những giá trị Chân, Thiện, Mĩ của tư tưởng và
hành vi, được sản sinh ra trong quá trình hoạt động cách mạng với cương vị là
người lãnh đạo, có vai trò quan trọng góp phần tạo nên mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam và là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta. Văn hóa lãnh đạo Hồ
Chí Minh có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, mục tiêu duy nhất và xuyên
suốt của sự lãnh đạo là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Với mục tiêu đó,
Hồ Chí Minh đã lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và trong quá trình lãnh đạo luôn kiên định con đường
cách mạng vô sản. Trên hành trình tìm đường cứu nước, bằng những trải nghiệm
thực tế và sự dày công nghiên cứu, so sánh, Người đã rút ra kết luận: “Con
đường tiến tới xã hội chủ nghĩa của các dân tộc là con đường chung của thời
đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”[3].
Kết luận đó đã và đang được thực tiễn cách mạng thế giới kiểm nghiệm là hoàn
toàn đúng đắn, hợp quy luật khách quan, xu thế thời đại và nguyện vọng của số
đông quần chúng nhân dân.
Thứ hai, trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh
luôn đặt lợi ích của dân tộc và giai cấp lên trên hết, không ngừng củng cố,
tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Bởi lẽ, Người luôn quan niệm, Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, ngoài lợi ích của dân tộc và giai cấp, Đảng ta không có lợi ích nào
khác. Vì vậy, toàn Đảng và mỗi đảng viên “Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân; phải hiểu thấu rằng lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải
đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”[4].
Mặt khác, để hoàn thành sứ mệnh của mình với tư cách là đội tiền phong, bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp và dân tộc, Đảng phải không ngừng củng cố, tăng
cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Mọi hoạt động của đảng phải lấy lợi
ích của giai cấp và dân tộc làm nền tảng, bởi theo Người: “Giai cấp mà không có
Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được, Đảng mà không có giai cấp công nhân
cũng không làm được gì”[5].
Thứ ba,
luôn tiền phong, gương mẫu để cảm hóa quần chúng nhân dân là yếu tố quyết định
địa vị lãnh đạo và cầm quyền của đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng là một
tổ chức tự nguyện của những người ưu tú nhất trong các tầng lớp nhân dân. Vì
vậy, Đảng phải thực sự là người vạch đường, chỉ lối để dân tộc đi đến độc lập,
tự do, ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Đảng viên phải là người đi đầu trong mọi
hoạt động lý luận và thực tiễn với phương châm: “Đảng viên đi trước, làng nước
đi sau”, phải biết “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Tiền phong gương mẫu
để cảm hóa nhân dân vừa là phương thức biểu hiện quyền lực của Đảng, vừa là yếu
tố bảo đảm cho Đảng giữ vững địa vị là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền ở
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[6].
Thứ tư,
đảng phải là một khối thống nhất về ý chí và hành động, là hạt nhân của khối
đại đoàn kết dân tộc, có tinh thần quốc tế, trong sáng, thủy chung. Hồ Chí Minh
luôn nhận rõ vai trò to lớn của đoàn kết và không ngừng xây dựng, củng cố sự
đoàn kết, thống nhất trong đảng để trên cơ sở đó xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Người đã chỉ rõ: “Đoàn kết đã đưa Đảng ta và
nhân dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cho nên chúng ta quý trọng và
ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí - trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như
giữa các đảng và giữa các nước anh em - như giữ gìn con ngươi của mình”[7].
Thứ năm, Đảng là người lãnh đạo
nhưng đồng thời phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Bên cạnh
việc đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng thực sự là
người đầy tớ của nhân dân. Thực tế cho thấy, với mục tiêu, lý tưởng tất cả vì
độc lập của dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, trong suốt cuộc đời
cách mạng của mình, dù ở bất cứ cương vị nào Người cũng luôn nhất quán một
phương châm hành động: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân
thì phải tránh”[8].
Phương châm đó là yếu tố quyết định việc hình thành phong cách lãnh đạo Hồ Chí
Minh đó là: lãnh đạo phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của dân để
xác định chủ trương, đường lối, biện pháp thực hiện và phải trở lại nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; lãnh đạo phải gần dân, sâu sát thực
tế, tôn trọng dân, học hỏi dân, thực sự là công bộc, là đầy tớ trung thành của
nhân dân.
Văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh với những nét đặc trưng nêu
trên đã bảo đảm cho Đảng ta thực sự là một đảng cách mạng chân chính, được nhân
dân tin tưởng, đi theo Đảng, trao quyền lãnh đạo cho Đảng, quyết tâm bảo vệ
Đảng và thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đã đưa đến sự thay đổi diện mạo
đời sống chính trị của đất nước, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành
người làm chủ, sánh vai cùng các dân tộc khác trên con đường tiến tới văn minh.
Nhân kỷ niệm ba mươi năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã khái quát: “Đảng ta là
đạo đức, là văn minh, Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no. Công ơn Đảng
thật là to, Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng.
Hiện nay sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu,
rộng, đã và đang đặt ra trên con đường phát triển của dân tộc cả thời cơ và
thách thức, đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm
chất đạo đức và năng lực lãnh đạo để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên,
trước sự tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên có chức, có quyền suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tình trạng quan liêu, xa rời thực tế,
cửa quyền, hách dịch, tham nhũng, lãng phí đã và đang gây bức xúc trong nhân
dân, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Mặt khác,
các thế lực thù địch không ngừng tìm mọi cách chống phá Đảng, xuyên tạc chủ
trương, đường lối của Đảng, mua chuộc, lôi kéo, khống chế cán bộ, đảng viên,
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, đòi thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam. Thực tế nêu
trên càng đòi hỏi Đảng ta phải thấm nhuần văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh, không
ngừng bồi đắp và phát huy văn hóa lãnh đạo của Người trong tình hình mới.
Để văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh tiếp tục tỏa sáng trong quá
trình lãnh đạo của Đảng, trước hết cần khẳng định rằng: mặc dù điều kiện, hoàn
cảnh có thay đổi đến đâu thì văn hóa lãnh đạo của Người vẫn mãi là chuẩn mực
văn hóa lãnh đạo của Đảng ta. Trên cơ sở đó, các cấp ủy đảng quán triệt và cụ
thể hóa thành các quy chế, quy định trong hoạt động lãnh đạo cũng như trong xác
định tiêu chuẩn của cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy các cấp. Bên
cạnh đó, đòi hỏi mỗi đảng viên phải không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện,
nâng cao nhận thức về lý luận chính trị; về đảng chính trị và đảng cầm quyền;
về quy luật vận động, phát triển tất yếu của nhân loại; về xu thế thời đại; về
bản chất của cái gọi là “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” mà các phần tử
phản động lợi dụng dân chủ đang ra sức hô hào. Tiếp tục đưa việc “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, tức là phải thật sự
làm theo, khắc phục tình trạng chỉ học mà không làm theo, thậm chí làm trái với
những điều đã học. Mặt khác, cần phát huy vai trò của nhân dân, của các tổ chức
quần chúng trong quản lý, rèn luyện đảng viên nói chung, trong kiểm soát quyền
lực của những đảng viên có chức, có quyền nói riêng./.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009, t12, tr.9
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, Tập 11, tr.19.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 8, tr.13.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 10, tr.477.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.168.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 14, tr.33.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.21.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét