Thứ Hai, 16 tháng 1, 2017

VỀ CÁI GỌI LÀ “CHỦ NGHĨA CHIA RẼ VÀ CỰC ĐOAN DƯỚI HÌNH THỨC CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN”
                                                                                   Thanh Thiên
Trong các quan điểm, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin của các thế lực phản động hiện nay, có cái gọi là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan thể hiện dưới hình thức chủ nghĩa Mác - Lênin”. Thực chất của quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, đối lập với tư tưởng đoàn kết giai cấp vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lênin một cách vô căn cứ, vu khống, bịa đặt. Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin mà đó là tư tưởng sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè phái, tả khuynh hoặc hữu khuynh... Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên chia rẽ và cực đoan, phiến diện, không thể đồng nhất, lẫn lộn những sai lầm đó với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trên thực tế, như chúng ta biết, Mác, Ăngghen, Lênin luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu “vô sản toàn thế giới hãy đoàn kết lại!”. Về sau này Lênin bổ sung thêm: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức hãy đoàn kết lại”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, Mác, Ăngghen, Lênin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ chức cách mạng. Lênin coi giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng Cộng sản như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất bại. Đảng đấu tranh chống lại tư tưởng và hành động cực đoan, phiến diện, duy ý chí, chia rẽ, bè phái. Coi chia rẽ, bè phái là một trong những tội nặng nhất, làm phá hoại tổ chức đảng. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đã đúc rút bài học quan trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng “ngày nay chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan làm cho Việt Nam hòa bình đã 40 năm, song vẫn còn bị chia rẽ”.
Ý kiến trên đây là cực đoan, võ đoán, bất chấp thực tế lịch sử. Trước kia đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau là do sự xâm lược của đế quốc Mỹ muốn xâm chiếm Việt Nam, chia cắt đất nước ta. Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong suốt 21 năm. Đến ngày 30-4-1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được hòa bình, thống nhất, không còn bị chia rẽ. Hiện nay, đối với những người đã từng tham gia chế độ cũ trước đây, đường lối của Đảng và Nhà nước ta là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, lấy lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc làm mẫu số chung để đoàn kết toàn dân; lấy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm mục tiêu chung, làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những người có ý kiến khác, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; thực hiện hòa hợp dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tăng cường đồng thuận xã hội, tập hợp đoàn kết mọi người vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có những người nào sau 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rồi nhưng vẫn ôm mối hận thù dân tộc, vẫn bị định kiến chi phối, không vượt qua được sự mặc cảm của quá khứ mới tách mình ra khỏi dân tộc, thậm chí tìm cách chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một bộ phận nhỏ người Việt ở nước ngoài do thiếu thông tin khách quan, trung thực về tình hình trong nước, vẫn ôm hận thù, chống phá Đảng và Nhà nước ta, vu khống Việt Nam đàn áp tôn giáo, dân tộc thiểu số, vi phạm dân chủ, nhân quyền, vận động các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Việt Nam. Chính những người này mới là lực lượng đang theo chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan./.


Lại một sự xuyên tạc trắng trợ về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam
                                                                                       Thanh Thiên
HƯƠNG ĐẤT VIỆT: Trong thời gần đây, nhiều phần tử cơ hội, phản động trong và ngoài nước tiếp tục có những hành động xuyên tạc về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Đáng chú ý là: vào ngày 08/12/2016, đối tượng Trần Gia Phụng (trú tại Canada) tán phát tài liệu, nội dung tuyên truyền, vu khống các cơ quan chức năng của Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo”; xuyên tạc Đảng và Nhà nước ta “dùng bạo lực để đàn áp giáo dân”; đồng thời kêu gọi các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài hỗ trợ cho các phong trào đấu tranh ở Việt Nam”.
Hành vi và luận điệu mà Trần Gia Phụng đưa ra là một sự xuyên tạc trắng trợ, không có căn cứ về quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam, không một tôn giáo nào đang hoạt động đúng pháp luật mà bị cấm đoán. Việc người dân theo hay không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào là trên cơ sở tự nguyện. Tuyệt nhiên, không có chuyện các cơ quan chức năng ở Việt Nam “dùng bạo lực để ép buộc giáo dân”. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp. Các tín đồ tôn giáo là một phần không thể thiếu trong cộng đồng người Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi của một công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật. Vì vậy, các tổ chức tôn giáo và tín đồ tôn giáo không ngừng tăng lên. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay, Nhà nước ta đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 39 tổ chức tôn giáo, một pháp môn tu hành, với trên 24 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số. Cả nước có gần 53 nghìn chức sắc, 133,7 nghìn chức việc, 28 ngàn cơ sở thờ tự. Trên thực tế, ai chũng nhận thấy, các lễ: Nôen, Phật đản cũng như những lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian từ lâu đã trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng ấy được chính quyền các địa phương tạo điều kiện đáp ứng. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn ra khắp nơi. Nhiều chính quyền địa phương còn cấp đất cho giáo hội làm nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo.

Tuy nhiên, công tác tôn giáo ở nước ta do nhiều nguyên nhân cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Trong đó, có khó khăn do cả khách quan và chủ quan; có những khó khăn về điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống; có những khó khăn do cơ chế, chính sách, pháp luật và khâu thực hiện; nhưng cũng có khó khăn do sự khác biệt về nhận thức, do chưa thấu hiểu nhau giữa các cơ quan chức năng và các tổ chức tôn giáo; có khó khăn do sự xúi giục, kích động từ các thế lực thù địch. Những luận điệu mà Trần Gia Phụng đưa ra tuy không mới, nhưng nó dễ đánh lừa những người nhẹ dạ, cả tin. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nêu cao cảnh giác để không bị mắc phải những “chiêu trò” mà các phần tử cơ hội, phản động đang thực hiện nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta./.
MỘT SỐ YÊU CẦU VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
                                                                                       Thanh  Thiên
                   Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn cao cả là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, trước những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của tình hình khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trước sự chống phá điên cuồng của các thế lực phản động, thù địch đối với cách mạng nước ta, chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng những mâu thuẫn, đối lập nhau trong trật tự thế giới đa cực, trong quá trình toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản chi phối hiện nay để chọn bước đi thông minh, sáng tạo, có lợi cho sự phát triển. Để đạt được mục đích đặt ra mà vẫn giữ vững phương hướng chính trị, không phạm sai lầm về đường lối, đòi hỏi Đảng ta không những phải nắm vững, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình hình mới.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và có hệ thống những di sản tư tưởng, lý luận của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh; phải đổi mới tư duy để trở về với chính thực chất hệ thống luận điểm của các ông đã hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong đó cần hết sức chú ý đến những bổ sung, phát triển mà chính các ông phác họa trước những thay đổi của thực tiễn.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở khách quan, dám nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận thách thức. Chúng ta phải kiên quyết phê phán những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá đúng đắn tính chất, hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xây dựng, phát triển đất nước, dám nhìn thẳng vào những sai lầm để khắc phục và hoạch định cho sự phát triển đi lên.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở thực tiễn xây dựng đất nước và những điều kiện cụ thể của thế giới đương đại. Điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên định mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải luôn tìm tòi sáng tạo những giải pháp đặc thù cho sự phát triển đất nước. Trong khi đòi hỏi phải cảnh giác với nguy cơ chệch hướng, chúng ta cũng cần phải đặt ra vấn đề chống chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ - một thứ nguy cơ có thể dẫn tới những hậu quả tiêu cực đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải luôn hướng tới mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất, đó là con người. Trong suốt hành trình của mình, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không bao giờ xa rời mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng loài người. Đó là tư tưởng khoa học, mang tính nhân văn cao cả và phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên toàn thế giới. Điều đó, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, hình thành những giải pháp hợp lý, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta để từng bước thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người toàn diện. Cương lĩnh chính trị của Đảng ta khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển”. Từ định hướng có tính nguyên tắc chung ấy cần phải cụ thể hóa nhanh chóng thành các chính sách, xây dựng những cơ chế xã hội bảo đảm thực hiện các chính sách về con người, làm cho con người Việt Nam ngày càng được hưởng cuộc sống tự do hơn, hạnh phúc hơn cùng với mỗi bước phát triển của đất nước./.


Thứ Ba, 10 tháng 1, 2017

THẤY GÌ QUA CÁC LUẬN ĐIỆU ĐÒI TỰ DO NGÔN LUẬN Ở VIỆT NAM
                                                                              Trần Trí Nam
Dựa trên những thông tin thiếu khách quan, không trung thực, áp đặt, Nghị viện châu Âu ra Nghị quyết Ngày thứ Năm (09/6/2016), thúc giục Việt Nam chấm dứt ngay lập tức việc sách nhiễu, hăm dọa, và đàn áp các nhà hoạt động chính trị, các nhà báo, các blogger, các nhà đối kháng. Còn tại Hội nghị lần thứ 39 của Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH, International Federation of Human Rights) ở Johannesburg, Nam Phi, từ ngày 23 đến 27 tháng 8 năm 2016, đã thông qua với đa số tuyệt đối “Nghị Quyết về tình trạng Nhân quyền tại Việt Nam”. Trong đó, Nghị quyết về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam tố cáo chính sách của Việt Nam khoá cửa thông tin và kiểm duyệt nhằm thiết lập cuộc đàn áp man rợ (công an bạo hành, sách nhiễu, dựng các phiên toà bất công, ban hành các điều luật thủ tiêu tự do); Yêu cầu Việt Nam hợp tác thực sự và chân thành với Liên Hợp quốc trên lĩnh vực nhân quyền, bằng cách thực hiện các Thủ tục đặc biệt, như mời các Báo cáo viên Liên Hợp quốc đặc nhiệm trên các lĩnh vực tự do ngôn luận, … Lý do mà họ đưa ra không có gì khác là Việt Nam kiểm soát và ngăn chặn internet, bắt giữ, giam cầm các bloggers có tiếng nói đối lập, v.v…
Đây không phải lần đầu tiên Nghị viện châu Âu và FIDH đưa ra cái nhìn sai lệch về tình hình tự do ngôn luận ở Việt Nam. Cần phải khẳng định, sự thật về tự do ngôn luận ở Việt Nam trái ngược hẳn với những gì mà họ đưa ra.
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và bảo đảm cho mọi người dân có quyền tự do ngôn luận theo hiến pháp, pháp luật nhằm phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Theo tinh thần ấy, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về tự do ngôn luận. Kết quả khảo sát của WeAreSocial - một tổ chức nghiên cứu độc lập về truyền thông xã hội toàn cầu đã cho thấy, tính đến tháng 12-2012, số người dùng internet ở Việt Nam là 30,8 triệu người (tăng 10,8 triệu người so với năm 2008), chiếm 34% dân số (cao hơn mức trung bình của thế giới là 33%). Việt Nam hiện có hơn 3 triệu người dùng blog cá nhân để bày tỏ chính kiến trên mạng xã hội, tổ chức các diễn đàn thảo luận, phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gửi các góp ý, kiến nghị đến các cơ quan chức năng... Tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) xếp hạng Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 châu Á về số lượng người sử dụng internet. Sự phát triển nhanh của các phương tiện thông tin đại chúng và internet cho thấy, quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin ở Việt Nam đã có bước cải thiện và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, luật pháp Việt Nam quy định hạn chế quyền tự do ngôn luận trong một số trường hợp, phù hợp với Công ước về các quyền dân sự và chính trị, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng và đạo đức của xã hội.
Những trường hợp mà FIDH hay Nghị viện châu Âu gọi là “các bloggers có tiếng nói đối lập” thực chất, họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Lợi dụng vào quyền tự do ngôn luận, những đối tượng đó đã sử dụng internet để tuyên truyền xuyên tạc các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời, truyền bá những luận điệu phản động gây hoang mang trong xã hội... nhằm chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân Việt Nam. Các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam bắt giữ, xử lý họ là vì họ vi phạm pháp luật chứ không hề hạn chế họ về quyền tự do ngôn luận.
Rõ ràng những thành tựu về tự do ngôn luận nói chung, tự do báo chí, tự do khai thác, sử dụng internet nói riêng của Việt Nam là không thể phủ nhận. Những tiến bộ đó được sự ghi nhận, đánh giá cao của dư luận quốc tế. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam có quyền tự hào về những thành quả của mình và kiên quyết đấu tranh, phản bác mọi suy nghĩ, hành động xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình tự do ngôn luận nói chung, tự do báo chí, tự do internet nói riêng ở Việt Nam./.


TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG
TRONG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỰC
                                                                                                   Phú Quốc
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là một chỉnh thể các giá trị do Người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động cách mạng, bao gồm các giá trị về tư tưởng, hành vi và nhân cách chính trị. Trong đó, triết lý hành động là một giá trị cốt lõi, là nguyên tắc chỉ đạo mọi hành vi, hành động chính trị: từ lựa chọn hệ tư tưởng; vận dụng, phát triển và sáng tạo lý luận đến những ứng xử chính trị cụ thể trong đấu tranh cách mạng cũng như trong đối nội và ngoại. Triết lý đó là yếu tố quyết định làm nên một Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc; nhà văn hóa kiệt xuất; anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và góp phần tạo ra bước ngoặt trong tiến trình phát triển của dân tộc. Do vậy, xác định rõ giá trị lịch sử và ý nghĩa hiện thực của triết lý hành động Hồ Chí Minh để vận dụng và phát huy trong giai đoạn cách mạng mới là vấn đề có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
1. Triết lý hành động Hồ Chí Minh - bản chất và biểu hiện
Triết lý hành động là những quan điểm lý luận có tính chân lý để chỉ đạo hành động, đồng thời cũng là những lý luận có tính chân lý được rút ra từ hành động. Đây là hai mặt của quá trình hoạt động thực tiễn mà mỗi cá nhân với tính cách là thành viên của xã hội cần phải có; là tiền đề, điều kiện của nhau, tác động, chi phối và bổ sung cho nhau. Ai cũng có triết lý hành động của riêng mình, nhưng sự khác nhau giữa các triết lý là ở mức độ, phạm vi, tính chất của những hành động cụ thể dưới sự chỉ đạo, điều chỉnh của triết lý đó. Với tính cách là lãnh tụ chính trị của Đảng, của dân tộc, suốt đời hy sinh, phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của nhân dân - triết lý hành động Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý trong việc chỉ đạo và điều chỉnh mọi hoạt động cách mạng, là giá trị cốt lõi trong văn hóa chính trị của Người, là di sản quý báu mà Người để lại cho Đảng, Nhà nước nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng ta nói riêng.
Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh là một nhà chính trị thực tiễn, một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Ngay từ khi còn là một thiếu niên, Người đã nghĩ đến việc tìm cách thay đổi chế độ chính trị thuộc địa, nửa phong kiến ở Việt Nam để nhân dân ta thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ. Cho đến khi từ giã cõi trần, Người cũng chỉ có một mong muốn cuối cùng là, “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(1). Ý thức rõ rằng, mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua một quá trình cách mạng lâu dài bằng con đường cách mạng vô sản, mà động lực chủ yếu là quần chúng nhân dân. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã xác định một triết lý hành động suốt cuộc đời cách mạng của mình là: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(2).
Đó là triết lý hành động vì thắng lợi của cách mạng và vì quần chúng nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Bởi lẽ, mọi suy nghĩ, hành động của Người đều chỉ nhằm phát huy cao nhất tiềm năng cách mạng của quần chúng để làm thay đổi diện mạo đời sống chính trị, tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân thực sự là cội nguồn của quyền lực nhà nước, được hưởng đầy đủ và có chất lượng các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người trong môi trường chính trị bình đẳng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”(3). Mặc dù vậy, với tư cách là giai cấp tiên tiến nhất trong số các giai cấp hiện đang tồn tại ở thời đại công nghiệp hóa - giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có thể đại diện đấu tranh cho quyền lợi của các giai cấp đang bị áp bức, bóc lột, bị xâm phạm các quyền tự do, dân chủ và giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo”(4). Như vậy, triết lý hành động Hồ Chí Minh là sự phản ánh tập trung nhất bản chất của giai cấp công nhân, thể hiện sâu sắc tính chất nhân văn, nhân đạo, tất cả vì con người và sự nghiệp giải phóng con người.
Ở Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa nhận thức và hành vi, tư tưởng và hành động. Do đó, triết lý hành động của Người không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà luôn biểu hiện sinh động trong mọi hoạt động thực tiễn từ việc lớn cho đến việc nhỏ. Chẳng hạn như: khi chưa hiểu “đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì”(5), thì Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, vì họ đồng tình với Người về cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, còn khi đã được tiếp cận Luận cương của Lênin và hiểu về Quốc tế Cộng sản thì Người lại bỏ phiếu cho việc ra đời Đảng Cộng sản Pháp; trong lúc học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng Người chỉ chọn chủ nghĩa Lênin vì đây là hệ thống lý luận có lợi cho nhân dân; hay, mặc dù đã khảo sát và lựa chọn mô hình nhà nước công nông của Cách mạng Nga. Tuy nhiên, khi nhận thấy, ngoài công, nông còn có các giai cấp, tầng lớp khác, cho nên để bảo đảm quyền lợi của số đông, Người đã chủ trương xây dựng nhà nước Dân chủ Nhân dân sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi; để giữ được chính quyền cách mạng và nền độc lập vừa mới giành được trong lúc thù trong, giặc ngoài liên minh chống phá, Người đã lấy quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân làm cái bất biến để có thể ứng xử linh hoạt trước các thủ đoạn của kẻ thù. Bên cạnh những việc lớn lao, có tính chiến lược, lâu dài của cách mạng, Người cũng luôn quan tâm đến những ngành, những giới, những tổ chức, cá nhân cụ thể, đặc biệt là những người khó khăn, yếu thế trong xã hội.
2. Giá trị lịch sử và ý nghĩa hiện thực của triết lý hành động Hồ Chí Minh
Triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lịch sử sâu sắc, mà còn có ý nghĩa hiện thực to lớn đối với quá trình phát triển của đất nước. Thực tiễn đã chứng minh: triết lý hành động Hồ Chí Minh là cơ sở tất yếu của việc Người tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đem lại cho dân tộc ta hệ tư tưởng cách mạng, khoa học nhất của thời đại và để Người trở thành một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Triết lý hành động mang tầm chân lý đó, chẳng những có vai trò to lớn trong việc ra đời một đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam; thức tỉnh tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân, mà còn chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về con đường, lực lượng, phương pháp cách mạng và tạo nên bước ngoặt vĩ đại để đất nước sánh bước cùng thời đại trên con đường tiến đến văn minh, hiện đại. Bằng việc thiết lập một mô hình nhà nước đáp ứng nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh đã tạo nên sự đồng thuận xã hội và khối đoàn kết dân tộc vững chắc cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc và bảo vệ thành quả cách mạng.
Ngày nay, trong giai đoạn mới, cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc đã có sự thay đổi lớn cả về nội dung và hình thức. Nhiều cơ hội song cũng không ít thách thức gay gắt đang đặt ra trên con đường phát triển của đất nước như: những tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường; những thách thức an ninh phi truyền thống; những vấn đề toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu… Trước thực trạng đó, đất nước chỉ có thể phát triển nếu giữ vững và tăng cường được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng thuận cao trong xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc.
Tuy nhiên, với thuộc tính tha hóa của quyền lực cộng với sự chống phá của các thế lực thù địch, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên của đảng - những chủ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, hành động không vì lợi ích của nhân dân, mà vì lợi ích cá nhân. Họ đang lạm dụng quyền lực được nhân dân giao phó để tham nhũng, lãng phí, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, áp dụng pháp luật không thống nhất, thậm chí tùy tiện, làm cho người dân chẳng những không thấy được sự che chở của chính quyền, mà còn phải lo đối phó với chính những người đã được mình ủy quyền. Điều đó vừa làm chậm tốc độ phát triển của đất nước, tạo nên sự bức xúc, bất mãn trong nhân dân, làm phai mờ tính chính đáng, hình ảnh tốt đẹp của Đảng và chính quyền cách mạng, vừa là cơ sở, tiền đề để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Do đó, nếu triết lý hành động Hồ Chí Minh được quán triệt và biểu ra trong mọi hành vi, hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức sẽ là yếu tố then chốt để củng cố, tăng cường niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của dân tộc, sự tồn vong của chế độ chính trị và là một trong những chỉ số đánh giá chất lượng sống của các tầng lớp nhân dân.
3. Phát huy vai trò của triết lý hành động Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay
Trong giai đoạn cách mạng nhiều khó khăn, thách thức mới như hiện nay, việc phát huy vai trò của triết lý hành động Hồ Chí Minh là vấn đề cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn chính trị to lớn. Đây là một quá trình làm cho tư tưởng và hành động thân dân, vì dân, tôn trọng và đề cao vai trò của nhân dân mà Người để lại thấm sâu vào nhận thức và biểu hiện rộng khắp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chế độ, vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội; nâng cao thái độ yêu mến, tự hào và trách nhiệm bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ chính trị; tạo sự đồng thuận xã hội để tập trung và phát huy mọi nguồn lực của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy vai trò của triết lý hành động Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay cần quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tức là luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhưng không chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn. Chủ động đổi mới, phát triển lý luận trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn, lựa chọn các mục tiêu ưu tiên phù hợp với nhu cầu thực tế của nhân dân và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Bảo đảm sự hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng, dân chủ, bảo vệ môi trường sống và sinh kế của nhân dân trên các vùng, miền cụ thể, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và sự phân hóa xã hội do mất cân đối trong phát triển.
Để phát huy vai trò của triết lý hành động Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là những người có chức, có quyền về bản chất của quyền lực và về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi chức danh cụ thể. Hai là, phát huy cao độ vai trò của Đảng, Hội đồng nhân dân các cấp và đội ngũ các nhà khoa học trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật trong việc đánh giá tác động của các dự án đầu tư, các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Ba là, cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực sự cầu thị, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, kịp thời giải quyết thấu đáo những vướng mắc, bức xúc trong nhân dân, trước hết là những bức xúc của người dân với chính quyền cơ sở. Bốn là, xử lý nghiêm khắc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng và bộ máy Nhà nước những đảng viên, cán bộ, công chức lạm quyền, độc đoán, nhũng nhiễu nhân dân, tham nhũng, lãng phí. Cần xác lập cơ chế chịu trách nhiệm suốt đời của cán bộ các cấp trước những quyết định của mình và trước tài sản của nhà nước. Năm là, hoàn thiện cơ chế, phát huy cao độ vai trò giám sát, kiểm soát quyền lực và phản biện xã hội của các tầng lớp nhân dân, các phương tiện truyền thông đại chúng./.
 


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t15, tr.614.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t4, tr.51.
(3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t8, tr.264. 245.

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t12, tr.561.
VĂN HÓA LÃNH ĐẠO HỒ CHÍ MINH - CHUẨN MỰC
VĂN HÓA LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tiêu chí đánh giá sự khác nhau về văn hóa lãnh đạo giữa các đảng chính trị phụ thuộc vào tính chất, mức độ, phạm vi tác động của các giá trị mà đảng đó tạo ra. Tức là, đảng đó đại diện cho giai cấp, tầng lớp nào, ra đời, tồn tại và phát triển vì mục tiêu gì, những giá trị và những biến đổi xã hội được tạo ra dưới sự lãnh đạo của đảng có tính phổ quát không, có phù hợp với quy luật khách quan và xu thế thời đại hay không. Theo đó, têu chí nào đánh giá văn hóa lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hay nói cách khác, chuẩn mực văn hóa lãnh đạo của Đảng ta là gì? Thực tế cho thấy, với vai trò là người sáng lập, rèn luyện Đảng ta và có khoảng thời gian dài trên cương vị Chủ tịch Đảng - văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh không chỉ là chuẩn mực văn hóa lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn làm cho văn hóa lãnh đạo của Đảng ta thực sự nhân văn, nhân đạo, có tính phổ quát và sức sống lâu bền cùng thời gian.
Văn hóa lãnh đạo là những giá trị được sáng tạo ra trong quá trình các đảng chính trị hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của mình. Những giá trị đó biểu hiện ở hệ tư tưởng; ở chủ trương, đường lối của đảng và cách thức tổ chức thực hiện đường lối đó; ở phẩm chất, nhân cách đội ngũ cán bộ, đảng viên và những biến đổi trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng. Văn hóa lãnh đạo không chỉ có tính cộng đồng mà còn có tính cá nhân sâu sắc. Bởi lẽ, những giá trị chung của văn hóa được hình thành từ sự chấp nhận và chia sẻ của cộng đồng đối với những giá trị riêng mà mỗi cá nhân tạo ra. Do đó, trong trường hợp cụ thể, những giá trị mang dấu ấn cá nhân, nếu thực sự vĩ đại, thực sự đặc sắc, hoàn toàn có thể chi phối, định hướng cho quá trình sáng tạo các giá trị mới của cả một giai cấp, một cộng đồng, một quốc gia dân tộc, thậm chí là cả nhân loại.
Lịch sử chính trị thế giới đã ghi nhận văn hóa chính trị của các cá nhân như: C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin - những người đã làm thay đổi về chất quá trình ứng xử của giai cấp vô sản với quyền lực nhà nước của giai cấp tư sản và tạo cơ sở, nền tảng để các Đảng Cộng sản sáng tạo những giá trị mới của văn hóa lãnh đạo. Ở nước ta, Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với khoảng thời gian 24 năm trên cương vị Chủ tịch Đảng - Văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, văn hóa chính trị của Người nói riêng, trong đó có văn hóa lãnh đạo đã sớm trở thành nền tảng, chuẩn mực văn hóa lãnh đạo của Đảng ta. Thực tế cho thấy, ngay từ Đại hội II (2-1951), Đảng ta đã khẳng định: “Hồ Chủ tịch, người cộng sản Đông dương đầu tiên và là sáng lập viên của Đảng. Người đem thân thế và tài năng của mình hoàn toàn cống hiến cho Đảng và cho công cuộc giải phóng của giai cấp công nhân và dân tộc... Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch… Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy, là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”[2]. Hơn nữa, Đảng ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. Đây chính là cơ sở lý luận chắc chắn nhất về vai trò của cá nhân đối với cộng đồng, mà cụ thể là của C.Mác, Ph.Ănghgen, Lênin và Hồ Chí Minh đối với sự hình thành, phát triển văn hóa lãnh đạo của Đảng ta.
Văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành văn hóa chính trị của Người, bao gồm những giá trị Chân, Thiện, Mĩ của tư tưởng và hành vi, được sản sinh ra trong quá trình hoạt động cách mạng với cương vị là người lãnh đạo, có vai trò quan trọng góp phần tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta. Văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, mục tiêu duy nhất và xuyên suốt của sự lãnh đạo là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Với mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và trong quá trình lãnh đạo luôn kiên định con đường cách mạng vô sản. Trên hành trình tìm đường cứu nước, bằng những trải nghiệm thực tế và sự dày công nghiên cứu, so sánh, Người đã rút ra kết luận: “Con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”[3]. Kết luận đó đã và đang được thực tiễn cách mạng thế giới kiểm nghiệm là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật khách quan, xu thế thời đại và nguyện vọng của số đông quần chúng nhân dân.
Thứ hai, trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích của dân tộc và giai cấp lên trên hết, không ngừng củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Bởi lẽ, Người luôn quan niệm, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, ngoài lợi ích của dân tộc và giai cấp, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy, toàn Đảng và mỗi đảng viên “Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; phải hiểu thấu rằng lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”[4]. Mặt khác, để hoàn thành sứ mệnh của mình với tư cách là đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp và dân tộc, Đảng phải không ngừng củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Mọi hoạt động của đảng phải lấy lợi ích của giai cấp và dân tộc làm nền tảng, bởi theo Người: “Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được, Đảng mà không có giai cấp công nhân cũng không làm được gì”[5].
Thứ ba, luôn tiền phong, gương mẫu để cảm hóa quần chúng nhân dân là yếu tố quyết định địa vị lãnh đạo và cầm quyền của đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng là một tổ chức tự nguyện của những người ưu tú nhất trong các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, Đảng phải thực sự là người vạch đường, chỉ lối để dân tộc đi đến độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Đảng viên phải là người đi đầu trong mọi hoạt động lý luận và thực tiễn với phương châm: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”, phải biết “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Tiền phong gương mẫu để cảm hóa nhân dân vừa là phương thức biểu hiện quyền lực của Đảng, vừa là yếu tố bảo đảm cho Đảng giữ vững địa vị là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[6].
Thứ tư, đảng phải là một khối thống nhất về ý chí và hành động, là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc, có tinh thần quốc tế, trong sáng, thủy chung. Hồ Chí Minh luôn nhận rõ vai trò to lớn của đoàn kết và không ngừng xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong đảng để trên cơ sở đó xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Người đã chỉ rõ: “Đoàn kết đã đưa Đảng ta và nhân dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cho nên chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí - trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như giữa các đảng và giữa các nước anh em - như giữ gìn con ngươi của mình”[7].
Thứ năm, Đảng là người lãnh đạo nhưng đồng thời phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Bên cạnh việc đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng thực sự là người đầy tớ của nhân dân. Thực tế cho thấy, với mục tiêu, lý tưởng tất cả vì độc lập của dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, dù ở bất cứ cương vị nào Người cũng luôn nhất quán một phương châm hành động: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”[8]. Phương châm đó là yếu tố quyết định việc hình thành phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh đó là: lãnh đạo phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của dân để xác định chủ trương, đường lối, biện pháp thực hiện và phải trở lại nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; lãnh đạo phải gần dân, sâu sát thực tế, tôn trọng dân, học hỏi dân, thực sự là công bộc, là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh với những nét đặc trưng nêu trên đã bảo đảm cho Đảng ta thực sự là một đảng cách mạng chân chính, được nhân dân tin tưởng, đi theo Đảng, trao quyền lãnh đạo cho Đảng, quyết tâm bảo vệ Đảng và thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đã đưa đến sự thay đổi diện mạo đời sống chính trị của đất nước, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, sánh vai cùng các dân tộc khác trên con đường tiến tới văn minh. Nhân kỷ niệm ba mươi năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã khái quát: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no. Công ơn Đảng thật là to, Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng.
Hiện nay sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, đã và đang đặt ra trên con đường phát triển của dân tộc cả thời cơ và thách thức, đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên, trước sự tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên có chức, có quyền suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tình trạng quan liêu, xa rời thực tế, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng, lãng phí đã và đang gây bức xúc trong nhân dân, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Mặt khác, các thế lực thù địch không ngừng tìm mọi cách chống phá Đảng, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, mua chuộc, lôi kéo, khống chế cán bộ, đảng viên, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam. Thực tế nêu trên càng đòi hỏi Đảng ta phải thấm nhuần văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh, không ngừng bồi đắp và phát huy văn hóa lãnh đạo của Người trong tình hình mới.
Để văn hóa lãnh đạo Hồ Chí Minh tiếp tục tỏa sáng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, trước hết cần khẳng định rằng: mặc dù điều kiện, hoàn cảnh có thay đổi đến đâu thì văn hóa lãnh đạo của Người vẫn mãi là chuẩn mực văn hóa lãnh đạo của Đảng ta. Trên cơ sở đó, các cấp ủy đảng quán triệt và cụ thể hóa thành các quy chế, quy định trong hoạt động lãnh đạo cũng như trong xác định tiêu chuẩn của cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy các cấp. Bên cạnh đó, đòi hỏi mỗi đảng viên phải không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao nhận thức về lý luận chính trị; về đảng chính trị và đảng cầm quyền; về quy luật vận động, phát triển tất yếu của nhân loại; về xu thế thời đại; về bản chất của cái gọi là “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” mà các phần tử phản động lợi dụng dân chủ đang ra sức hô hào. Tiếp tục đưa việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, tức là phải thật sự làm theo, khắc phục tình trạng chỉ học mà không làm theo, thậm chí làm trái với những điều đã học. Mặt khác, cần phát huy vai trò của nhân dân, của các tổ chức quần chúng trong quản lý, rèn luyện đảng viên nói chung, trong kiểm soát quyền lực của những đảng viên có chức, có quyền nói riêng./.




[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t12, tr.9
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tập 11, tr.19.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 8, tr.13.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 10, tr.477.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.168.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 14, tr.33.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.21.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN - MỘT GIÁ TRỊ
NỀN TẢNG CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
                                                                                                       Phú Quốc
Đảng cầm quyền là vấn đề không mới và là tất yếu khách quan của đời sống chính trị đương đại. Vì vậy, việc Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền chẳng những hoàn toàn chính đáng, phản ánh sự lựa chọn sáng suốt của lịch sử mà còn là một giá trị nền tảng của văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại.
Văn hóa chính trị truyền thống là những giá trị về chính trị được tạo ra trong quá trình vận động, phát triển của quyền lực nhà nước khi mà đấu tranh giai cấp trong xã hội chưa gay gắt, được biểu hiện ở mức độ quan tâm đến con người của các triều đại Phong kiến. Bên cạnh đó, văn hóa chính trị hiện đại là tổng hòa các giá trị chính trị đánh dấu sự phát triển cao của đấu tranh giai cấp, biểu hiện ở thể chế, thiết chế, đường lối, quan điểm, mục tiêu, lý tưởng của một nền chính trị, cùng những nhận thức và hành vi ứng xử cụ thể của các chủ thể chính trị, trước hết là của đảng chính trị. Do đó, đảng chính trị vừa là một giá trị, vừa là yếu tố quyết định bản chất, tính chất của văn hóa chính trị hiện đại.
Đảng cầm quyền là đảng chính trị đã giành được chính quyền, chi phối mọi hoạt động của nhà nước và thông qua quyền lực nhà nước để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích giai cấp mà đảng đó là thành viên hoặc là người đại diện. Sự ra đời, tồn tại và hoạt động của các đảng chính trị nói chung, đảng cầm quyền nói riêng là một giá trị nổi bật trong văn hóa chính trị của nhân loại, đánh dấu sự phát triển về chất của cuộc đấu tranh giai cấp và xu thế dân chủ hóa đời sống chính trị. Thực tế cho thấy, trong xã hội hiện đại, vai trò của các đảng chính trị là không thể thiếu và ngày càng tăng lên.
Đảng chính trị luôn mang bản chất giai cấp mà đảng ấy là đại diện và một giai cấp cùng lúc có thể có nhiều đảng chính trị tuyên bố đại diện cho lợi ích của họ. Do đó, bản chất giai cấp, hệ tư tưởng luôn là tiêu chí quyết định nhất để phân biệt sự khác nhau giữa các đảng chính trị. Việc các đảng chính trị có cùng hệ tư tưởng cạnh tranh với nhau để nắm quyền lực nhà nước, thực chất chỉ là sự cạnh tranh mang màu sắc chính trị của các nhóm lợi ích và sự đối lập giữa các đảng đó chỉ là sự đối lập giữa một nhóm nắm chính quyền và một nhóm không nắm chính quyền. Như vậy, ở các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa hiện nay, cái gọi là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thực chất chỉ là sự đa dạng các nhóm lợi ích chính trị, đa dạng mục tiêu, xu hướng chính trị trong khuôn khổ một hệ tư tưởng của chủ nghĩa tư bản. Và, ở các thể chế chính trị ấy, việc người dân lựa chọn đảng cầm quyền, về bản chất cũng chỉ là sự tín nhiệm và lựa chọn một nhóm chính trị nào đó của giai cấp tư sản. Điều đó cho thấy, cách mạng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa chỉ thực sự giành thắng lợi khi các Đảng của giai cấp công nhân trung thành với hệ tư tưởng Mác - Lênin trở thành đảng cầm quyền.
Sự ra đời của các đảng chính trị và trở thành đảng cầm quyền ở mỗi quốc khác nhau phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và truyền thống văn hóa chính trị của quốc gia đó. Có những đảng ra đời trước khi có nhà nước, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền bằng một cuộc cách mạng xã hội, trở thành đảng cầm quyền. Bên cạnh đó, có những đảng ra đời trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp, pháp luật và trở thành đảng cầm quyền thông qua bầu cử. Dù ra đời dưới hình thức nào, các đảng cầm quyền đều phải bảo đảm tính chính đáng, tức là phải được sự thừa nhận của quần chúng nhân dân, hoặc là phải hợp hiến và hợp pháp.
Ở Việt Nam, truyền thống văn hóa chính trị nhân văn, nhân đạo, hòa bình đã hình thành từ khi bắt đầu xuất hiện nhà nước và được bồi đắp trong suốt chiều dài lịch sử. Mặc dù vậy, sau khi thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta thành một nước thuộc địa, nửa Phong kiến, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang đã liên tiếp nổ ra, nhưng do chưa có một tổ chức cách mạng lãnh đạo, chưa có đường lối đúng nên không giành được thắng lợi. Các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đều trở nên bế tắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: “Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”[1]. Đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, bằng nhãn quan chính trị và sự chuẩn bị chu đáo, Hồ Chí Minh đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người chỉ rõ, muốn cách mệnh, “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[2].
Sự xuất hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam là một giá trị đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về chất của văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống. Bởi lẽ, Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa một học thuyết cách mạng, khoa học nhất của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước có truyền thống hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, Đảng không chỉ là đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà còn là đảng của cả dân tộc. Ngay khi ra đời, Đảng đã tuyên bố cương lĩnh hoạt động và xác định mục tiêu chính trị là, lật đổ sự thống trị của thực dân, Phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân và thiết lập nhà nước Công, Nông, Binh, mà sau này Hồ Chí Minh đã xác định lại là nhà nước Dân chủ nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cách mạng chân chính, khác hẳn về chất so với các đảng chính trị của giai cấp tư sản. Bởi vì, Đảng chủ trương thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đề cao độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác, hướng tới mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp và giải phóng con người không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Mặt khác, phẩm chất đạo đức của những người cộng sản được Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện cộng với cương lĩnh chính trị đúng đắn, sáng tạo, hợp quy luật khách quan và xu thế thời đại đã có sức cảm hóa kỳ diệu đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Vì vậy, từ khi có Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã coi Đảng là đảng của mình, gọi Đảng là đảng ta, một lòng, một dạ tin tưởng vào Đảng, tự nguyện đi theo Đảng làm cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang và viết lên những trang sử hào hùng trong tiến trình phát triển của dân tộc.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ nhu cầu đấu tranh cách mạng với khát vọng độc lập, tự do, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ khi có Đảng lãnh đạo, chủ nghĩa yêu nước và những giá trị tốt đẹp của dân tộc mới được phát huy và không ngừng phát triển.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang vững bước trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu tổng quát là: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu đó sẽ từng bước được cụ thể hóa bằng việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; một nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa lấy tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; một nền quốc phòng toàn dân lấy mục tiêu tự vệ là chính; một nền ngoại giao thân thiện với chủ trương trở thành bạn và đối tác tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Con đường mà dân tộc Việt Nam đang đi dưới sự lãnh đạo của Đảng là con đường phát triển hợp quy luật khách quan, xu thế thời đại và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Kiên định con đường đó với mục tiêu nhất quán độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vừa thể hiện một trình độ văn hóa chính trị, vừa là một giá trị nền tảng của văn hóa chính trị Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Kết quả lãnh đạo của Đảng chẳng những bảo đảm tính chính đáng, mà còn là yếu tố cơ bản nhất để Đảng giành được sự tín nhiệm của nhân dân, khẳng định vai trò là đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, Đảng không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm cần phải được khắc phục để có thể tiếp tục khẳng định tính chính đáng của vị trí, vai trò là đảng cầm quyền, xứng đáng là một giá trị nền tảng của văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại và sự tin yêu của nhân dân./.




[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.401.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.289.
VỀ CÁI GỌI LÀ “ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP MỚI LÀ DÂN CHỦ”
Việt Giang
Vấn đề đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là vấn đề mới, nó xuất hiện và được bàn luận, đề cập từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang thống trị xã hội. Lúc đầu, tư tưởng “đa nguyên luận” nhằm chống lại tình trạng độc quyền, mất dân chủ của giới tài phiệt và một số chính trị gia tư sản, bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư và lợi ích của một số nhóm nhỏ trong xã hội. Tuy nhiên, điều này không đạt được mục đích trong thực tế, mà nó lại chỉ dẫn đến việc hình thành nên một số đảng phái trong xã hội nhằm phân chia, tranh giành quyền lực lẫn nhau. Sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, sự thống trị độc quyền của giai cấp tư sản bị xóa bỏ, điều này làm cho những chính trị gia tư sản và các học giả tư sản lại rùm beng lên cái gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Theo họ, điều này “sẽ tạo nên sự đa dạng, phong phú trong ý thức hệ tư tưởng” và “là nhân tố bảo đảm cho một nền dân chủ thực sự” (!).
Nhưng nếu như chúng ta nhìn vào thực chất tình hình ở một số nước thì không phải là như vậy. Chúng ta không phủ nhận có những yếu tố tích cực của đa nguyên, đa đảng nhưng thực chất đa nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ. Một đảng lãnh đạo không đồng nhất với độc tài, không đồng nhất với mất dân chủ. Không nhất thiết cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thực sự và không có đa nguyên, đa đảng thì không có dân chủ.
Đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm cho dân chủ thực sự, mà bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã khẳng định: dân chủ là nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là một thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân, là một giá trị của nhân loại. Đó không phải là sản phẩm tự nhiên mà có và cũng không phải là hoàn thiện ngay một lúc, nó là một quá trình đấu tranh và ngày càng phát triển và từng bước hoàn thiện. Do đó, ở trong bất cứ xã hội nào dù nhất nguyên hay đa nguyên, dù một đảng hay đa đảng, nhưng đảng cầm quyền và nhà nước quan tâm đến việc bảo đảm quyền lực thực tế thuộc về nhân dân, thực sự tôn trọng, chăm lo cho đời sống của nhân dân, xem dân là gốc, lấy dân làm gốc, là chủ thể của quyền lực chính trị… và được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, thành chủ trương, chính sách, đường lối, được thực hiện trên thực tế thì xã hội đó có dân chủ, người dân được làm chủ, và thực sự là người chủ của đất nước.
Hiện nay, ở hầu hết các nước tư bản đều thực hiện đa nguyên, đa đảng nhưng quyền làm chủ của nhân dân có được bảo đảm hay không lại là vấn đề khác. Những cuộc lật đổ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị vẫn xảy ra ở nhiều nước, trên nhiều châu lục kéo dài hàng chục năm, làm thiệt hại lớn về nhân mạng và kinh tế… Vậy phải chăng đa nguyên, đa đảng đã mang lại lợi ích cho nhân dân, mang lại dân chủ thực sự cho xã hội?
Thực tế cái gọi là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở một số nước không như một số người hiểu rằng đó là một chế độ “dân chủ thực sự”, mà bản chất của nó vẫn là nhất nguyên chính trị. Đó là một chế độ chính trị tư sản và giai cấp tư sản vẫn là giai cấp duy nhất nắm quyền thống trị xã hội. Ngay như ở Mỹ có tới hơn 100 đảng nhưng chỉ có hai đảng là Đảng Dân chủ và Cộng hòa thay nhau cầm quyền. Sự ra đời của một đảng phái chính trị không phải với mục tiêu “làm phong phú thêm ý thức hệ tư tưởng” hay là để “đa dạng hóa quan hệ tư tưởng”, mà nó phải làm tròn bổn phận của mình với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội mang lại lợi ích cho dân tộc, cho nhân dân.
Ở Việt Nam, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã từng có đa nguyên, đa đảng, tuy nhiên không một đảng phái chính trị nào đủ sức định hướng đi cho dân tộc và giải quyết được những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, việc đoàn kết tập hợp nhân dân với một lý luận, đường lối và phương pháp đúng đắn đã phát huy được sức mạnh dân tộc làm nên những thắng lợi to lớn. Nhờ có lý luận tiên phong; có đường lối đúng đắn; có tổ chức chặt chẽ, rộng khắp; có kỷ luật nghiêm minh; có đội ngũ đảng viên kiên trung, bất khuất, tài trí và sáng tạo… Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng tiêu biểu cho nghị lực, ý chí, trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc và thời đại. Đảng có mặt ở mọi nơi, gắn bó với đồng bào cả nước, khi thuận lợi hay khi khó khăn, khi thành công hay khi thất bại đều đứng ở nơi đầu sóng ngọn gió, tiên phong đi đầu.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì bền bỉ tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh, làm cho nhân dân thức tỉnh và nhận ra quyền lợi cũng như sức mạnh của mình. Đảng đã gắn kết toàn dân tộc, làm cho toàn dân đoàn kết trở thành một sức mạnh mà không một thế lực nào có thể quật ngã hay bẻ gãy. Mỗi đảng viên đều gắn bó máu thịt với nhân dân, xung phong đi đầu trong những cuộc đấu tranh, không lùi bước trước sự đàn áp dã man của quân thù, bởi vậy dân tin và đi theo Đảng, đồng thời chủ động, tích cực, sáng tạo thực hiện đường lối của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhân dân giành chính quyền và giữ vững nền độc lập dân tộc, tự do cho dân tộc, mang lại đời sống ngày càng ấm no, hạnh phúc nho nhân dân. Không vì một vài sai lầm, khuyết điểm mà phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận hết những công lao của Đảng. Không có lý gì, một Đảng mà trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đã không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng mình ngày càng trong sạch, vững mạnh để trở thành một đảng tiến bộ, cách mạng, chân chính, chắc chắn, để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân, được dân tộc và nhân dân thừa nhận, tin tưởng nay lại cần phải có những lực lượng đối lập để cạnh tranh quyền lãnh đạo với Đảng. Bởi lẽ, điều đó nó không phù hợp với sự lựa chọn khách quan của tiến trình lịch sử dân tộc và không công bằng, không được lòng dân. Đảng luôn khuyến khích mọi người cống hiến trí tuệ và sức lực cho đất nước, nhưng cũng không để ai lợi dụng dân chủ chủ để phủ nhận thành quả cách mạng, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, mưu đồ gây bất ổn xã hội.
Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những  thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, được cả thế giới thừa nhận. Việc lựa chọn con đường đi của mỗi dân tộc, thể chế chính trị của mỗi quốc gia là một vấn đề hệ trọng, phải do chính dân tộc đó lựa chọn, không thể vay mượn, áp dụng máy móc chế độ chính trị nước này cho nước khác. Việt Nam không giống với phương Tây. Và thực tiễn cho thấy dân tộc Việt Nam luôn đủ bản lĩnh, trí tuệ, biết lựa chọn, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để tạo lập con đường đi cho mình, để vượt qua khó khăn thử thách. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ngày càng phát triển, dân chủ ngày càng được phát huy, chính trị xã hội ngày càng ổn định, đời sống người dân ngày càng được nâng lên. Vậy tại sao phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tại sao phải vứt bỏ con đường phát triển đúng quy luật khách quan, hợp xu thế thời đại và nguyện vọng của nhân dân mà chúng ta đang đi để lập thêm những đảng đối lập, rồi lại rơi vào cảnh tranh giành quyền lực lẫn nhau, “nồi da nấu thịt”, làm cho sức mạnh quốc gia suy giảm và kẻ ngoài nhân cơ hội đó để nhòm ngó, kích động gây nên tình trạng mất ổn định nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối của chúng, làm dân chúng đang sống trong hòa bình lại phải rơi vào cảnh loạn li, làm phân tâm xã hội, gây chia rẽ dân tộc. Thực tế cho thấy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, sau đó là sự hỗn loạn trong xã hội ở đó là một sản phẩm của cái gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.

Như vậy, mục đích thực chất của những kẻ đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, không phải là để tạo lập “một nền dân chủ thực sự”, mà thông qua tuyên truyền “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” để kích động tư tưởng dân chủ vô chính phủ, gây mất ổn định xã hội, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, làm chệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mục tiêu của họ không phải là vì nước, vì dân mà vì bản thân họ, thông qua việc kích động nhân dân, sử dụng nhân dân như một công cụ để đạt được mưu đồ đen tối là phá hoại sự ổn định và phát triển của đất nước, phá hoại sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2017

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trần Trí Nam
“Diễn biến hoà bình” (DBHB) là một chiến lược toàn cầu phản cách mạngcủa chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhằm tiêu diệt chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng vô sản thế giới bằng thủ đoạn phi quân sự. Chiến lược này được thực hiện thông qua việc sử dụng tổng hợp các biện pháp tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; phá hoại ngầm, răn đe quân sự để gây bất ổn về chính trị, xã hội cũng như tập trung khai thác triệt để các yếu kém nội tại ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), thúc đẩy các nước này đi đến khủng hoảng, sụp đổ hoặc chuyển hoá các nước XHCN vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, chiến lược “DBHB” đang được các thế lực thù địch sử dụng với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn và mũi nhọn mà chúng tập trung vào chống phá Việt Nam, là lợi dụng những vấn đề phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, làm suy giảm niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Đáng chú ý, trong thời gian qua, lợi dụng vào các diễn đàn dân chủ, các đài phát thanh và trên Internet, các thế lực thù địch ra sức công kích vào các hạn chế của Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác xây dựng chỉnh đốn đảng; về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; về hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô cũng như đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực… Từ đó, chúng phủ nhận các thành tựu cơ bản mà Việt Nam đạt được qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới; quy chụp rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam không đủ năng lực lãnh đạo, điều hành đất nước và cần phải nhanh chóng xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển của đất nước là nhiệm vụ quan trọng nhằm giữ vững ổn định chính trị, xã hội, từng bước xóa bỏ môi trường và các điều kiện thuận lợi cho hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Mặt khác, khắc phục các yếu kém về kinh tế, chính trị, xã hội là yếu tố tiên quyết nhằm củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần quan tâm, chú trọng giải quyết, khắc phục các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội đặt ra sau đây:
Thứ nhất, cần thấy rõ vấn đề trọng tâm là khắc phục suy giảm kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, duy trì tốc độ tăng trưởng đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Chú ý gắn phát triển bền vững kinh tế với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm tốt về quyền và lợi ích chính đáng của mọi công dân trong xã hội gắn với khắc phục bất bình đẳng và phân hóa giàu – nghèo. Thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo đối với những vùng khó khăn và các đối tượng chính sách. Phát triển văn hóa xã hội, nâng cao trình độ dân trí, thực hiện công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhân đạo trên các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là lĩnh vực y tế và giáo dục.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng ở các vùng chiến lược trọng điểm như: Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ nhằm giải quyết các vấn đề phức tạp về tôn giáo và dân tộc. Cụ thể cần chú ý các nội dung sau:
Tập trung củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, từng bước xây dựng được bộ máy chính quyền ở các địa phương bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa.
Tiếp tục thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo bền vững đối với vùng dân tộc thiểu số, nhất là vùng sâu, vùng xa.
Làm tốt công tác vận động quần chúng đối với đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo theo Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Chú ý bằng nhiều hình thức, phương pháp và huy động nhiều lực lượng tham gia vận động nhằm tranh thủ người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo. Gắn kết chặt chẽ công tác vận động quần chúng với công tác củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Từ đó, hướng tới mục tiêu cơ bản chiến lược là ổn định tình hình, hóa giải, ngăn chặn, vô hiệu hóa các tư tưởng ly khai, tự trị dân tộc. Bằng mọi biện pháp không để các thế lực thù địch kích động quần chúng đòi thành lập “Nhà nước Đề ga độc lập” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khmer Krôm” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc, “Vương quốc Cham pa” ở Nam Trung Bộ. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân với Đảng và chính quyền, củng cố cơ sở ở các vùng tôn giáo, dân tộc thiểu số.
Thứ ba, làm tốt công tác giải quyết đơn, thư, khiếu nại, tố cáo của công dân, phát hiện sớm và giải quyết triệt để các mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, không để hình thành các “điểm nóng” về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, cần tập trung giải quyết, xử lý thỏa đáng các vụ việc tiêu cực, tham nhũng lớn theo đúng tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ. Chú ý giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện lớn, phức tạp, kéo dài cũng như vấn đề đình công, bãi công và những vấn đề phức tạp trong đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội bằng các biện pháp kiên quyết ở các cấp, các ngành, nhất là phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và giám sát của các tầng lớp nhân dân, giám sát của báo chí, truyền thông.
Thứ tư, thực hiện tốt việc thuyết phục dư luận xã hội để khắc phục tâm trạng bất bình, bất an, bất mãn, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin của các tầng lớp xã hội trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, cần tập trung vào các chủ trương, chính sách có liên quan đến tôn giáo, dân tộc, quan hệ đối ngoại; các chủ trương, chính sách lớn, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống các tầng lớp dân cư và có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình phát triển của đất nước, đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; những chủ trương, chính sách, pháp luật có tác động trực tiếp đến các tầng lớp xã hội nhạy cảm như: trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có liên quan đến các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thông, dân chủ, nhân quyền…
Có thể khẳng định rằng trong thời gian qua, mặc dù phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức nhưng với những quyết sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và sự đoàn kết, nỗ lực quyết tâm của toàn xã hội, nên Việt Nam vẫn đạt được những thành quả được quốc tế đánh giá cao về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ, trong tái cấu trúc nền kinh tế, vận hành kinh tế vĩ mô và các chính sách phát triển bền vững. Chính các hạn chế, bất cập này đã được các thế lực thù địch lợi dụng để tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu, giải quyết có hiệu quả một số vấn đề đặt ra ở trên, có ý nghĩa quan trọng làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...