1 . Tình hình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của các học giả nước ngoài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
trong số ít lãnh tụ của quốc gia được đông đảo học giả trên thế giới để tâm
nghiên cứu. Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh được các học giả nước ngoài tiến
hành chủ yếu từ tháng 9 năm 1945, tức là khi Hồ Chí Minh giữ cương vị Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ở đây đề cập các công trình nghiên cứu của các
học giả nước ngoài không bao hàm các hồ sơ, tài liệu của mật thám Anh, Pháp…).
Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết của Liên hiệp quốc (tổ chức UNESCO) tôn vinh Hồ
Chí Minh là “Anh hùng giải phóng ân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất” (1987),
đã làm cho số lượng học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí
Minh ngày càng nhiều.
Chủ đề các công trình nghiên cứu
của các học giả nước ngoài về Hồ Chí Minh rất phong phú về nội dung, đa dạng về
thể loại. Theo con số thống kê, cho đến nay, đã có trên 300 tác phẩm, công
trình nghiên cứu, hàng trăm bài tạp chí, hàng ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu
Lịch sử, Văn học, Triết học, Tâm lý học, Nhân chủng học, Văn hóa học, các nhà
thơ, các phóng viên của các tờ báo lớn trên thế giới…viết về Hồ Chí Minh. Những
công trình, tác phẩm nghiên cứu của các học giả nước ngoài góp phần khẳng định
những cống hiến to lớn của Người đối với dân tộc và nhân loại. Với việc UNESCO
ra quyết định tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
kiệt xuất là lời phản bác chính thức đối với những ý kiến xuyên tạc, bôi nhọ cuộc
đời, sự nghiệp cách mạng cao cả, vĩ đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
2. Khái quát về nội dung, chủ đề các
công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của các học giả nước ngoài
2.1. Nghiên cứu về tiểu sử, cuộc
đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Là một danh nhân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh được đông đảo học giả trên thế giới đặc biệt quan tâm nghiên cứu về tiểu
sử, về cuộc đời, về thân thế. Tuy nhiên, việc nghiên cứu Tiểu sử của Chủ tịch Hồ
Chí Minh không mấy dễ dàng (ngay cả đối với những nhà nghiên cứu trong nước). Bởi
không gian hoạt động của Hồ Chí Minh quá lớn, thời gian hoạt động bí mật kéo
dài, đã làm cho nhiều khoảng trống về tư liệu không dễ tìm thấy. Ngoài ra, còn
phải kể đến những trường hợp cố tình đưa thông tin sai lệch về Hồ Chí Minh, nhằm
động cơ hạ thấp uy tín chính trị, xuyên tạc, thậm chí bôi nhọ tiểu sử Hồ Chí
Minh. Giáo sự Bécna Fôn - học giả người Pháp, tác giả cuốn: “Hồ Chí Minh” xuất
bản ở Pari thừa nhận: “Về những chi tiết đời tư của Cụ, đúng là chúng ta chưa nắm
bắt được nhiều lắm. Trước hết là vì Cụ Hồ Chí Minh đã hoạt động lâu trong bí mật.
Hai là, ngay sau khi nắm được chính quyền năm 1945, Quốc dân đảng tìm cách
xuyên tạc chính phủ mà cụ Hồ làm Chủ tịch, các cuộc đàm phán với Pháp cũng đang
tiến hành, cho nên phải thận trọng không thể tiết lộ nguồn gốc của mình”
(C.P.Ragiô: Hồ Chí Minh, NXB Đại học, Pari, 1970. Bản dịch của Thế Phong,
tr.191-192).
Cho dù nghiên cứu, viết tiểu sử
sự nghiệp của Hồ Chí Minh là một việc làm rất khó, nhưng cũng đã có rất nhiều
tác phẩm của các học giả nước ngoài viết về tiểu sử Hồ Chí Minh. Không ít tác
phẩm được xây dựng một cách công phu theo lối lồng ghép với quá trình phát triển
của lịch sử Việt Nam,
lịch sử Đông Dương, hoặc thể hiện thuần túy theo lối viết sử danh nhân, nhân vật
lịch sử. Tiêu biểu các tác phẩm theo dạng này có thể kể đến như: C.P. Ragiô: Hồ Chí Minh, NXB. Đại học, Pari, 1970;
David Halberstam: Hồ, Răngđôm Haosơ,
New Yoók, 1971; Deniel Hemery: Du patriotisme au Mexisme (Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác), P.Les éd, uovriercs,
1975; Jean Lacouture: Ho Chi Minh (Hồ
Chí Minh), Paris, Seuil, 1970; Paul Mus:
Ho Chi Minh, Le Vietnam, L’Asie (Hồ Chí Minh, Việt Nam và châu Á), Paris,
Seuil, 1971; Patti A.L: Why Vietnam
(Tại sao Việt Nam?), The University of California,
Pres, 2002; Wiliam J.Duiker: Ho Chi Minh
(Hồ Chí Minh), Hyperion, New York, 2002, v.v..
Có thể kể đến rất nhiều cuốn
sách và những công trình nghiên cứu khác viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới dạng
tiểu sử danh nhân, hay tiểu sử nhân vật lịch sử tương tự những cuốn sách kể
trên, với nhiều góc tiếp cận khác nhau, với nhiều nội dung phong phú viết về cuộc
đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh.
Tất nhiên, trong những tác phẩm
đó, khi viết về tiểu sử hay cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
nhiều sự kiện sai lệch, không đúng sự thật (nhất là về đời tư). Nguyên nhân: có
lẽ ngoài việc thiếu tư liệu, hoặc sử dụng tài liệu sai sự thật như nói ở trên,
còn một lý do khác là hầu hết các tác giả không có điều kiện nghiên cứu, tiếp cận
trực tiếp, tiếp cận thực tế để xây dựng tiểu sử một danh nhân. Một số học giả
còn mang nặng tính chủ quan tư sản, không tin vào những điều mà đôi khi họ cho
là sùng bái cá nhân, “thần thánh hóa” về con người và sự nghiệp vĩ đại, sự hy
sinh, cống hiến trọn đời cho Tổ quốc, cho nhân loại như Hồ Chí Minh.
Trong số không ít học giả nước
ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh, có nhiều người vừa là “người quen”, vừa là đối
thủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cuộc chiến tranh trước đây. Như: Tổng đại
diện của Chính phủ Pháp J. Xanhtơni; Tướng Pôn Êly; Tướng Raun Salăng; Trưởng
đoàn đàm phán của Chính phủ Pháp GS.Pôn Muýt; Trung tá tình báo Mỹ A. Pátti,
v.v..). Hầu hết những người này đều có một thái độ kính trọng khi viết về Chủ tịch
Hồ Chí Minh, đúng như nhà báo Ôlivơ Thôndơ đã nói: “Đối với một số người, Cụ Hồ
Chí Minh là một kẻ thù quen biết lâu năm nhưng đáng kính phục, là địch thủ được
kính trọng nhất trong cuộc chiến tranh thuộc địa Pháp” (Tuần báo Người quan sát
mới, số ra ngày 8-9-1969, Hồ sơ NC/15, lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng).
Ông J.Xanhtơni, Tổng đại diện
chính phủ Pháp ở Đông Dương, người đã có nhiều cuộc gặp gỡ tiếp xúc, đàm phán
trực tiếp với Hồ Chí Minh (thay mặt Chính phủ Pháp ký Hiệp định sơ bộ
6-3-1946). Ông cũng là người tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt thời gian 4
tháng Người làm thượng khách trên đất Pháp (từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1946),
sau này J.Xanhtơni còn đóng vai trò người thăm dò thương lượng trung gian của Mỹ
(1966-1967), trong tác phẩm: Face à Ho Chi Minh (Đối diện Hồ Chí Minh) đã khẳng
định: “Chắc chắn, ông Hồ Chí Minh là con người rất mực tế nhị, đến mức không cảm
thấy tính giản dị của mình, lòng tha thiết với những phong tục, tập quán của địa
phương đã làm ông trở lên rất quần chúng. Ngay kẻ thù của ông cũng không bao giờ
hồ nghi cái điều giản dị ấy”. (Jean Sainteny: Face à Ho Chi Minh (Đối diện Hồ
Chí Minh), Paris, Seuil, 1970, tr.152).
Đọc các tác phẩm của các học
giả nước ngoài, một điều dễ nghi nhận là đã có nhiều công trình nghiên cứu thể
hiện tính nghiêm túc, công phu, có nhiều tư liệu mới về quá trình hoạt động của
Hồ Chí Minh thời kỳ ở nước ngoài. Các tác giả đã khai thác từ kho tư liệu Quốc
gia Pháp, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và rất nhiều tư liệu từ
sách, báo và các văn kiện từ các kho lưu trữ Quốc gia Việt Nam…Căn cứ vào các
tư liệu, các tác giả tái hiện lại phần nào sự thật lịch sử cận hiện đại Việt
Nam, lịch sử Đông Dương, châu Á…Qua đó đánh giá, nhận định về vị trí, vai trò của
lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, cũng như những đóng góp của Người
cho sự phát triển của cách mạng thế giới, nhất là đối với phong trào giải phóng
dân tộc.
Lần theo những sự kiện lịch sử,
nhiều học giả khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã đi đến
kết luận: Hồ Chí Minh một người yêu nước, một người đi tiên phong trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh là người Việt Nam tiêu biểu
cho ý chí quyết thắng trong cuộc đấu tranh đòi tự do và độc lập dân tộc. Sự thể
hiện khát vọng tự do đấu tranh đòi độc lập của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam, đã khích lệ
các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh giành độc lập.
Có thể thấy các nội dung đó
qua nhiều công trình nghiên cứu. Ví dụ trong tác phẩm Hồ, tác giả David
Halberstam viết: “Lúc sinh thời, ông Hồ Chí Minh không những đã giải phóng đất
nước của ông mà thay đổi chiều hướng của chế độ thuộc địa ở cả châu Phi lẫn
châu Á, mà ông còn làm điều đáng chú ý hơn: ông đã dùng tới nền văn hóa và tâm
hồn của kẻ địch của ông. Đối với Hồ Chí Minh…đó là một cuộc đời đầy đủ” (David
Halberstam: Hồ, NXB. Răngđôm Haoơ,
Niu York 1971, tr.76).
Trung tá A. Pátti - một sĩ
quan tình báo Mỹ, trong thời gian làm việc cho lực lượng Đồng Minh ở Đông Dương
(1944-1945), từng nhận được sự giúp đỡ rất hiệu quả của Việt Minh, ông rất cảm
phục nhà ái quốc cộng sản Hồ Chí Minh. Trong cuốn: Why Vietnam?
(tại sao Việt Nam) đã viết: “Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như là một
nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những
lời nói dập khuôn, hét to đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có
những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn
đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế”. (Patti A.L: Why Vietnam?(Tại
sao Việt Nam?),
NXB Đà Nẵng, 1995, tr.92.
Nghiên cứu từng chặng đường hoạt
động của Hồ Chí Minh, hầu hết các tác giả đều đánh giá cao, cảm phục ý chí
ngoan cường, mãnh liệt của một con người đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập, tự
do. Tác giả J. Lacouture viết: “Một nhân vật mỏng manh đến mức hình như chỉ sống
nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng, trong ngọn lửa đấu tranh của dân tộc cũng
mảnh dẻ, cũng thanh đạm và kiên cường như ông…”.
Tất nhiên, không phải tác giả
nào viết về nhân vật lịch sử - danh nhân Hồ Chí Minh cũng có thái độ thiện cảm,
khách quan. Ông Wiliam J. Duiker - người đã viết cuốn sách có nhan đề: Hồ Chí
Minh, nhưng sự thể hiện còn có khá nhiều sai sót, cả về tính xác thực của tư liệu
được sử dụng lẫn nhận định, đánh giá của tác giả.
Sau khi đã có những “nghiên cứu”
tưởng như rất “công phu, chi tiết” về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh,
tác giả lại có những lời nhận định không đúng sự thật, ông ta viết: “Ngày nay,
ba thập kỷ sau khi ông qua đời, tệ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở
Hà Nội”. Đối với tác giả Daniel Hémery, nhận định sai lầm ở chỗ ông ta cho rằng
động cơ ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành chỉ là huyền thoại: “Hình
ảnh chàng trai yêu nước của Nghệ An bỏ quê ra đi tìm đường giải phóng Tổ quốc
chỉ thuộc về điều tưởng tượng huyền thoại sau năm 1945 hoặc sau 1920…” (Daniel
Hémery: Tuổi trẻ của một công dân thuộc địa.
Hình thành một sự lưu vong - Hồ Chí Minh cho đến năm 1911, Tạp chí:
Approcher số 11-1992). Phải chăng Daniel Hémery dùng lối suy đoán toán học để
khẳng định một nhân chứng lịch sử? Nếu đúng như vậy thì nhận định của ông trong
trường hợp này đã phạm phải sai lầm về phương pháp tiếp cận, do đó dẫn đến kết
quả sai.
2.2. Các học giả nước ngoài nghiên cứu về những cống hiến to lớn của Hồ
Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và phong
trào cách mạng thế giới, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng của Người trong
thời đại ngày nay
Trong cuốn Hồ Chí Minh - một chân dung (Minh họa và
trình bày: C. David Thomas, nghiên cứu và biên soạn: Lady Boton, NXb Thanh
niên, Hà Nội, 2003), Cherles Fenn đã viết trong Lời giới thiệu: “…Nếu chúng ta
so sánh Hồ Chí Minh với các lãnh tụ nổi tiếng khác của thế kỷ XX, chúng ta
không thể không có ấn tượng khi biết rằng trong một thời gian, Hồ Chí Minh đã
đi đến nhiều nơi trên thế giới và đã bắt đầu in dấu ấn của mình lên các biến cố
quốc tế trước cả Mao Trạch Đông, Găngđi, Nêru, Rudơven, Sơcsin hay Đơ Gôn được
biết đến trên thế giới. Cuộc sống cá nhân mẫu mực, tính kiên định vì nền độc lậpvà
tự do của Việt Nam, những thành quả phi thường của ông bất chấp sự khó khăn chồng
chất, đã có thể đưa Hồ Chí Minh, trong sự phán xét cuối cùng của nhân loại, lên
hàng đầu danh sách những lãnh tụ của thế kỷ XX”. Dấu ấn của Hồ Chí Minh đã góp
phần tạo nên một khuôn mặt mới của thế giới, đối thoại hòa bình thay cho chiến
tranh, phản ánh khát vọng của các dân tộc trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhiều tác giả nước ngoài
nghiên cứu về lịch sử chiến tranh Đông Dương và Việt Nam, đã cố gắng tìm lời lý
giải cho sự thất bại của cả hai cường quốc thực dân hùng mạnh trước một dân tộc
nhỏ bé và lạc hậu Việt Nam. Các sử gia (chủ yếu là phương Tây), dường như đã
tìm thấy câu trả lời: Hồ Chí Minh chính là người khơi dậy sức mạnh dân tộc Việt
Nam,
khôn khéo kết hợp với sức mạnh của chính nghĩa và thời đại, tạo nên niềm tin và
chiến thắng. Nội dung đó thể hiện ở tất cả các tác phẩm.
Ngoài ra các tác giả còn đi
sâu phân tích một số sự kiện lịch sử quan trọng mang tính bước ngoặt của đàm
phán hòa bình, hoặc đỉnh điểm của sự đổ vỡ dẫn đến chiến tranh (cuộc đàm phán ở
Hội nghị Phôngtennơblô, sự kiện Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ…), qua đó để
tìm nguyên nhân thất bại của cuộc chiến, đồng thời thừa nhận phần nào tư tưởng
hòa bình, chính nghĩa của Việt Nam - Hồ Chí Minh. Trong tất cả những công
trình, bài viết mà nội dung trọng tâm nghiên cứu về các khía cạnh của lịch sử,
nhưng hầu như tất cả đều dành một phần, một chương, hoặc chí ít là một mục viết
về Hồ Chí Minh như là một đối tác ảnh hưởng. Mặc dù trong một số tác phẩm, phần
nhận định của không ít tác giả có thiên kiến, chủ quan, thậm chí quy kết Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người theo “chủ nghĩa dân tộc”, “con người cứng nhắc”…nhưng đã
phần các tác giả đều kính phục một con người mà chính họ gọi là huyền thoại.
Các tác phẩm chứa đựng những nội dung đã nói ở trên có thể kể đến là: Henri
Azeau: Ho Chi Minh derniere chane (Hồ
Chí Minh - Vận may cuối cùng), Paris, Senli, 1968; Harry S. Ashmore and
W.C.Baggs: Mission to Hanoi (Chuyến
công cán ở Hà Nội), N.Y. International Putnamson. 1968; C. King Chen: Vietnam and China
1938-1954 (Việt Nam và Trung quốc 1938-1954), Princeton,
University Press, 1969; Danielgérin: Cigit
le colonialisme (Nơi an nghỉ của chủ nghĩa thực dân). Moutonet Co, 1973;
Jean Sainteny: Lịch sử một nền hòa bình bị
bở lỡ. Paris, Seuil 1970; v.v..
Trong cuốn sách: Ho Chi Minh derniere chance (Hồ Chí Minh
dịp may cuối cùng), tác giả Hăngzi Azô tỏ ý rất tiếc cho một cơ hội hòa bình mà
cả hai bên Pháp -Việt đã bỏ lỡ. Bỏ lỡ một “dịp may” để dẫn đến hòa bình, ắt
dẫn đến một cuộc chiến tranh tương tàn. Mặc dù còn có nhiều biện minh cho trách
nhiệm thuộc về phía Pháp, nhưng tác giá đánh giá cao vai trò và thiện chí của Hồ
Chí Minh trong các cuộc thương thuyết, Hăngzi Azô gọi đó là “sự khôn ngoan
của Bác Hồ ”.
Tướng P.Valuy trong hồi ký
cũng ghi lại những ký ức trân trọng về đối thủ: “Đó là một nhân vật trung tâm
điều hành công việc…hoàn toàn xả thân vì công việc, không một chút riêng tư.
Trong ánh mắt những người xung quang và người đối thoại, Hồ Chí Minh là người
vô cùng đức độ ”. (P. Valuy: Về Hồ
Chí Minh, in trong tạp chí hành động, số 3/1970, tr.136).
Ngoài ra, có một số cuốn hồi
ký của những người tham chiến, cũng viết về Hồ Chí Minh ở từng góc độ, những đa
phần ho đưa ra những lý lẽ bào chữa cho những thất bại của họ, một số sự kiện
không đúng với thực tế lịch sử.
2.3. Các công trình nghiên cứu khẳng định Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kiệt
xuất, chiến sĩ cộng sản quốc tế, sứ giả của hòa bình hữu nghị
Thế giới đã nói tới Hồ Chí
Minh - chiến sĩ quốc tế - sứ giả của hòa bình hữu nghị. Nhà ngoại giao Giăng
Xanhtơny (Jean Sainteny) là một trong những người đối thoại chính với Hồ Chí
Minh trong những cuộc đàm phán với Pháp đã có một ý niệm khá chính xác về những
nét trong tính cách Hồ Chí Minh và nhân phẩm của Người. Trong tác phẩm mang tựa
đề: “Một nền hòa bình bị bỏ lỡ ”, nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm đó đã viết
một cách khách quan : “Sự hiểu biết văn hóa rộng lớn, trí thông minh, những
hoạt động phi thường và lòng vô tư tuyệt đối đã làm cho uy tín của Người và
lòng tin của nhân dân đối với Người không gì so sánh nổi. Những lời nói, những
hành động, thái độ của Người, đều thuyết phục là Người không muốn dùng giải
pháp bạo lực ” (Chủ tịch Hồ Chí Minh -Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn
hóa lớn, NXB Khoa học xã hội, H. 1995, tr.94).
Còn giáo sư sử học Hunggari
laigơlôxangô (László Salgó) cũng chủ yếu thông qua các sự kiện từ giai đoạn
Cách mạng Tháng Tám thành công đến khi nổ ra cuộc chiến tranh Việt - Pháp lại
có nhận xét : “Không một chút nghi ngờ, hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người
đã sử dụng đến mức tối đa sự mềm dẻo xung quang, tấm thảm xanh để thăm dò những
khả năng cho một giải pháp hòa bình có thể thực hiện được bằng thỏa hiệp”.
Thực ra, cách nhìn bao quát về
Hồ Chí Minh - Danh nhân văn hóa kiệt xuất đã được thế giới nói đến từ những năm
hai mươi. Và hôm nay, khi nhân loại đang sống trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI,
nghĩa là gần một trăm năm trôi qua kể từ những đánh giá ghi nhận đầu tiên về
danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh, thì những nhận xét của nhân loại vẫn còn nguyên
giá trị. Trong bào báo Thăm một chiến sĩ
cộng sản Nguyễn Ái Quốc đăng trên tờ Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ) số 39, ngày
23-12-1923, nhà báo Liên Xô Ôxíp Manđensơtam viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa
ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa
tương lai”. Ông còn nhận xét : “Dân An Nam là một dân tộc lịch thiệp. Qua
phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của NguyễnÁi Quốc, chúng ta như
nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái thế giới ” (Hồ
Chí Minh: Toàn tập, t1, Nxb CTQG, H.
2011, tr. 463).
Như vậy, khi đề cập tới nhà
văn hóa lớn Hồ Chí Minh, M. Átmét đã chỉ ra sự thống nhất giữa “anh hùng giải
phóng dân tộc” và “danh nhân văn hóa”.
Trong Hội thảo Quốc tế tổ chức
tại Việt Nam nhân kỷ niệm 100 năm nhân ngày sainh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến
sĩ M.Amét (Modagát Ahmed), Giám đốc UNESCO kho vực châu Á - Thái Bình Dương, đại
diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO, khi trình bày đến một phương diện khác
về con người Hồ Chủ tịch, đó là một nhà văn hóa lớn, ông cho rằng trước hết “Hồ
Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hóa (ở Việt Nam)
vào một nền văn hóa việt Nam duy nhất”. Trên cơ sở đó Người có những đóng góp
vào nền văn hóa Việt Nam
đương đại. Và điều quan trọng nhất, Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành
một bộ phận huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số
đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và
nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại đã mang lại
viễn cảnh và hi vọng mới cho những người đang đấu tranh và không khoan nhượng để
loại bỏ bất công, bất bình đẳng trên trái đất này ”.
Như vậy, khi đề cập đến nhà
văn hóa lớn Hồ Chí Minh, M.Átmét đã chỉ ra sự thống nhất giữa “anh hùng giải
phóng dân tộc” và danh nhân văn hóa. Việc Hồ Chí Minh đấu tranh để loại bỏ áp bức, bóc lột, bất công, bình đẳng, mở ra
một chân trời mới sáng lạng cho các dân tộc và mọi người bị áp bức là một giá
trị văn hóa đích thực.
Nói về những cống hiến của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong việc xây đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc, với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, nội dung này được phản ánh không chỉ qua
các tác phẩm của các nhà nghiên cứu thuộc các nước xã hội chủ nghĩa trước đây,
mà rất nhiều học giả, bạn bè trên thé giới, những người yêu chuộng hòa bình,
công lý đều đánh giá cao về Hồ Chí Minh với những đóng góp của Người xây đắp
lên tình hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Một số tác phẩm tiêu biểu như : E. Cabêlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên, H.
1985 ; Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với
Trung Quốc, NXB Sao Mới, Bắc Kinh, 1990; Singô Sibata: Hồ Chí Minh một nhà tư tưởng, Heiwa Torodokaikan, Tokyo, 1969,…
Nguyên Bí thư
thứ nhất ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô - N.Khơrútsốp đã dành hẳn
một chương trong cuốn Hồi ký của mình để viết về Hồ Chí Minh: “Trong cuộc đời
hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất nhiều người nhưng không có người
nào gây được cho tôi ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh. Người có đầu óc tín ngưỡng
thường hay nói đến các vị thánh. Đúng vậy, với cách sống và uy tín của ông đối
với đồng bào trong nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so sánh với “các vị thánh đỏ,
một vị thánh cách mạng”.... Mỗi lời nói của ông hình như dựa vào niềm tin là về
nguyên tắc tất cả mọi người cộng sản đều là anh em cùng giai cấp, học chỉ có thể
tỏ ra trung thực và chân thành với nhau mà thôi. Hồ Chí Minh quả thật là một
trong “các vị Thánh ” của chủ nghĩa cộng sản ” ( N. Khơrútsốp: Hồi ký, Nxb Robert Lafont Pari, 1971, Bản
dịch tiếng Việt tr.52-54).
Đọc những lời N. Khơrút sốp nói về Hồ Chí Minh, thấy rõ ông đánh giá rất
cao về Hồ Chí Minh. Một người như N. Khơrútsốp - nhân vật được giới sử gia
phương Tây nhận xét là: “con người hùng biện và cao ngạo ”, lại có những
nhận xét cảm động về Hồ Chí Minh như vậy, chắc hẳn đó không phải là chuyện bình
thường.
Một tác giả Xô viết khác:
E.Cabêlép, trong cuốn “Đồng chí Hồ Chí Minh” đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng như các chiến sĩ xuất sắc khác đấu tranh cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản, đã chứng minh chân lý bất di, bất dịch sau đây: người nào yêu Tổ quốc mình
tha thiết thì cũng không khi nào phản bội lại các lý tưởng của tình đoàn kết quốc
tế và ngược lại, chỉ có những người theo chủ nghĩa quốc tế một cách kiên định
thì mới là người yêu nước chân chính, mới đem lại lợi ích to lớn cho Tổ quốc
mình, nhân dân mình.
Tóm lại, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, những công trình
nghiên cứu, viết tiểu sử, sự nghiệp, vai trò lãnh đạo, sự hy sinh cống hiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc, nhân loại do các học giả nước ngoài biên
soạn, cơ bản có khía cạnh tích cực.
Mặc dầu còn nhiều vấn đề không
thống nhất, một số sự kiện lịch sử sai lệch, một số nhận định đánh giá của các
tác giả khác nhau về quan điểm, thậm chí một số tác phẩm còn viết không đúng về
đời tư của lãnh tụ, song tất cả đều phải thừa nhận tinh thần dân tộc, sự hy
sinh lớn lao của Hồ Chí Minh với Tổ quốc và có những phong trào giải phóng dân
tộc, phong trào hòa bình trên thế giới. Chính những thừa nhận khách quan đó khẳng
định tính đúng đắn, tính thời sự, ý nghĩa và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thời đại ngày nay.
* Nguồn thông tin:
1. C. King Chen: Vietnam and China
1938-1954 (Việt Nam và Trung quốc 1938-1954), Princeton,
University Press, 1969.
2. C.P. Ragiô: Hồ
Chí Minh, NXB Đại học, Pari, 1970.
3. David Halberstam: Hồ, Răngđôm Haosơ, New Yook,
1971.
4. Deniel Hemery: Du patriotisme au Mexisme (Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác),
P.Les éd, uovriercs, 1975.
4. E. Cabêlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên, H. 1985.
5. Hoàng Tranh: Hồ
Chí Minh với Trung Quốc, NXB Sao Mới, Bắc Kinh, 1990.
6. Henri Azeau: Ho
Chi Minh derniere chane (Hồ Chí Minh - Vận may cuối cùng), Paris, Senli,
1968.
7. Harry S. Ashmore and W.C.Baggs: Mission to Hanoi (Chuyến công cán ở Hà Nội),
N.Y. International Putnamson, 1968.
8. Paul Mus: Ho
Chi Minh, Le Vietnam, L’Asie (Hồ Chí Minh, Việt Nam và châu Á), Paris,
Seuil, 1971.
9. Patti A.L: Why Vietnam (Tại sao Việt Nam?), The University of Caliphócnia,
Pres, 2002.
10. Jean Sainteny: Lịch sử một nền hòa bình bị bở lỡ, Paris,
Seuil, 1970.
11. Jean Lacouture: Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh), Paris, Seuil,
1970.
Linh Quang