Có thể nói, cụm từ “chủ nghĩa cá nhân” xuất hiện trong đời sống và ngôn ngữ hàng ngày, nghĩa của nó khá rõ và đơn giản: đó là thói ích kỷ, trong mọi hoàn cảnh đều đặt lợi ích của mình lên trên hết và chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể. Nó là kẻ thù từ bên trong, dường như tự sinh, tự dưỡng, có sức sống mãnh liệt, dù chúng ta luôn luôn cảnh báo và đã huy động mọi khả năng để tẩy trừ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không đưa ra một quan niệm lý luận hoàn chỉnh về “Chủ nghĩa cá nhân”. Song
trong rất nhiều bài nói, bài viết của Người lại chỉ rõ những biểu hiện này
trong Đảng, Quân đội và đời sống xã hội.
Trong khẩu hiệu “Quét sạch chủ
nghĩa cá nhân” mà sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập chính là nói đến thứ chủ
nghĩa cá nhân này.
Theo Người, đó là một chủ nghĩa xấu
chưa từng có
Người
viết: “Tư tưởng không đúng cũng còn có nhiều. Nhưng có một tư tưởng mẹ: Đó là
chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể. Do chủ
nghĩa cá nhân mà đẻ ra các tư tưởng sai lệch khác…”[1].
“Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất
độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm như: Bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh; thiếu
kỷ luật; óc hẹp hòi; óc lãnh tụ…”[2]
Tóm lại,
theo Người: “Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu... Nó là
kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”[3].
Vậy Chủ nghĩa xấu xa này xuất hiện trong
đời sống xã hội ta từ khi nào?
Trong giai
đoạn chống Pháp, giành độc lập trước (1945) hầu như sách báo và văn bản của ta
chưa có nhóm từ “chủ nghĩa cá nhân”. Có lẽ, đó là nhờ tinh thần, tác phong
gương mẫu và phẩm chất liêm chính của lớp cán bộ đảng viên và nhân dân đồng
lòng xả thân vì lý tưởng ĐLTD, xây dựng một XH mới tốt đẹp.
Nhưng khi tạm
thời có độc lập sau cách mạng tháng 8/1945, những mầm mống của các căn bệnh của
một đảng cầm quyền bắt đầu xuất hiện, hay nói một cách khác, những biểu hiện đó
chính là những căn bệnh từ chủ nghĩa cá nhân sinh ra.
Những biểu hiện của các căn bệnh
này được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong “Thư gửi các đồng chí Bắc bộ, tháng
3/1947” và trong cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” (10/1947).
Cuốn sách được hoàn thiện vào cuối
năm 1947, nghĩa là Đảng ta mới thực sự nắm quyền được 2 năm… Cũng chỉ 2 năm đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra một số căn bệnh của Đảng cầm quyền mà nếu
không ngăn chặn kịp thời sẽ gây tổn hại lớn cho Đảng. Chính vì vậy, Người chỉ
đạo việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao uy
tín và đạo đức của Đảng trước nhân dân; đề cao và khẳng định sự gắn bó máu thịt
giữa Đảng, chính quyền với nhân dân.
Người chỉ rõ: “Trong lúc dân tộc
đang ở ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi đồng chí và toàn cả đoàn
thể phải đem tất cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một
hướng… Trong lúc này tư tưởng và hành động của mỗi một đồng chí rất có quan hệ
đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to...
Vì vậy chúng ta phải kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm sau đây:… Địa phương chủ nghĩa; Óc bè phái; Óc quân
phiệt quan liêu; Óc hẹp hòi; Ham chuộng hình thức; Vô kỷ luật, kỷ luật không
nghiêm; Ích kỷ, hủ hoá… ”[4].
Tiếp theo, để phê phán, lên án và
loại trừ mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Người đã có nhiều bài viết, bài
nói trong nhiều hội nghị học tập chính trị, cũng như trong chỉnh huấn, chỉnh
đảng, chỉnh quân. Trong đó, luôn có mục đề cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
lên án chủ nghĩa cá nhân, để mỗi người tự liên hệ mà kiểm điểm bản thân. Đồng
thời giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân phải kiên quyết đấu tranh loại trừ
nó trong đời sống xã hội.
• Tác phẩm: “CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN”. (Báo Sự thật, số 101, ngày 15-10-1948).
• Tác
phẩm: “PHẢI CHỮA CÁI BỆNH CẤP BẬC” (Báo Sự
thật, số 136, ngày 15-7-1950).
• BÀI
NÓI TẠI BUỔI BẾ MẠC LỚP CHỈNH HUẤN CÁN BỘ ĐẢNG, DÂN, CHÍNH CÁC CƠ QUAN TRUNG
ƯƠNG (9-6-1953).
• THƯ GỬI CÁC LỚP CHỈNH HUẤN CƠ
QUAN (Báo Nhân dân, số 120, từ ngày 26 đến ngày 30-6-1953).
• BÀI
NÓI TẠI HỘI NGHỊ CÁN BỘ (ngày 7-10-1954).
• NÓI
CHUYỆN TẠI LỚP CHỈNH HUẤN TRUNG, CAO CẤP CỦA BỘ QUỐC PHÒNG VÀ CÁC LỚP TRUNG CẤP
CỦA CÁC TỔNG CỤC (tháng 5-1957).
Bài viết cuối cùng về vấn đề này
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Nhân Dân trong dịp 3-2-1969 đó là: “Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”…
Như vậy, ở đây
chúng ta thấy, đến những giây phút cuối đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trăn trở
dặn lại cho hậu thế phải kiên quyết tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân… Song, thực tế
cũng cho thấy sau hơn 50 năm những di huấn của Người, thì chủ nghĩa cá nhân vẫn
chưa bị “quét sạch” như Người hằng mong muốn. Thậm chí nó còn nảy nở, len lỏi đầy
thách thức vào mọi ngõ ngách, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (Biểu hiện rõ
nhất là nạn tham nhũng), đã tới mức đe doạ sự tồn vong của chế độ.
Vấn đề “ai thắng ai” lại được xem
xét nhìn nhận ở đây, nhưng không phải giữa hai phe (XHCN và TBCN) như trước
đây, mà là giữa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa và tư tưởng XHCN ngay trong nội bộ ở
nước ta. Do đó, điều quan trọng là: “cần tiếp tục uốn nắn tư tưởng sai lệch,
nhất là tư tưởng cá nhân chủ nghĩa… Phải làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hoàn
toàn thắng, tư tưởng cá nhân hoàn toàn thất bại”[5].
Bởi, sinh
thời, Người đã căn dặn: “Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được.
Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”[6].
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa”[7].
Muốn làm được điều đó, trước hết
phải nhận diện rõ mọi biểu hiện và mầm mống của chủ nghĩa cá nhân trong đời
sống xã hội. Trong đó có cả những biểu hiện trong QĐ, mà như NQ 847 của QUTW đã
chỉ rõ các đó là:
Một là, không quan tâm đến lợi ích chung,
làm việc gì cũng chỉ mưu cầu cho lợi ích cá nhân; sống ích kỷ, thực dụng, cơ
hội, vụ lợi; ganh ghét, đố kị, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
Hai là, háo danh, tự cao, tự đại, thích
được ca ngợi, sùng bái bản thân, tham vọng quyền lực, địa vị; chạy chức, chạy
quyền, chạy thành tích, chạy tội, mua và sử dụng bằng cấp giả, giấy tờ giả; tìm
mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho mình.
Ba là, thiếu ý thức và trách nhiệm với tập
thể, không chấp hành sự phân công, điều động của tổ chức, kén chọn chức danh,
vị trí công tác; đùn đẩy trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, không tận tâm, tận
lực với công việc, không sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
Bốn là, thổi phồng
thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; sợ trách nhiệm, tranh công, đổ lỗi; giấu
giếm, bao che và không trung thực về những khuyết điểm, sai phạm.
Năm là, ngại va chạm,
dĩ hòa vi quý, “thấy đúng không bảo vệ”, “thấy sai không đấu tranh”; tinh thần
tự phê bình và phê bình thấp, lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc
vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ và mục đích không
trong sáng; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức.
Sáu là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí
công tác để tham ô, nhận hối lộ hoặc để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
vị trí công tác của mình trục lợi; cố ý làm trái các quy chế, quy định, dung
túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kê khai tài sản,
thu nhập không trung thực.
Bảy là, cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm để
chiếm đoạt tài sản của tập thể; tham gia, xúi giục, cưỡng ép, mua chuộc người
khác làm những việc trái chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng,
của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và đơn vị.
Tám là, độc đoán, gia trưởng, quân phiệt,
coi thường tập thể; buông lỏng lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, quan liêu, thiếu sâu
sát; xử lý các sai phạm của cấp dưới không cương quyết, thiếu khách quan; thờ
ơ, vô cảm, bàng quan trước những khó khăn, nguyện vọng chính đáng của đồng chí,
đồng đội và nhân dân.
Chín là, coi thường lý luận, xa rời thực
tiễn, lười học tập, rèn luyện, thích tự do, vô kỷ luật; hoang mang, dao động,
hoài nghi về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phụ họa theo những nhận
thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
Mười là, phai nhạt, phản bội mục tiêu, lý
tưởng cách mạng; nói, viết và làm không đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định,
nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
[1] Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn
trung, cao cấp của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các Tổng cục (1957),
tập 10, tr.588.
[2] Sửa đổi lối làm việc - III. Tư
cách và đạo đức cách mạng (1947), Tập 5, tr.195.
[3] Tập 13, tr.90.
[4] Thư gửi các đồng chí Bắc bộ - 1947, tập 5, tr.87.
[5] Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn
trung, cao cấp của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các Tổng cục (1957),
tập 10, tr.589-590.
[6] Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn khoá
II của Bộ công an (16-5-1959), tập 12, tr.222.
[7] Nói chuyện tại Nông trường quân đội
an khánh, (10-1-1959), tập 12, tr.11.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét