Vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với đại thắng mùa Xuân 1975 được thể hiện trên mấy
nội dung cơ bản sau:
Đảng
đã nắm chắc tình hình đề ra đường lối đúng đắn giải phóng hoàn toàn miền Nam
trong thời gian xác định chính xác. Sau Hiệp định Paris
năm 1973, Mỹ rút quân đội về nước, cục diện chính trị, quân sự ở miền Nam Việt
Nam tồn tại hai vùng, với hai chính quyền quản lý: vùng thuộc chính quyền và
quân đội Sài Gòn quản lý; vùng giải phóng do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam và quân Giải phóng quản lý. Thế nhưng, khi thực hiện Hiệp
định, chính quyền và quân đội Sài Gòn liên tiếp vi phạm, lấn chiếm, có nơi
chúng thực hiện chiến dịch lớn, buộc quân Giải phóng phải đánh trả để bảo vệ
vùng giải phóng, giữ vững hiện trạng. Mỹ tuy rút hết quân về nước, nhưng vẫn
tiếp tục ủng hộ, viện trợ cho chính quyền Sài Gòn hòng duy trì chủ nghĩa thực
dân mới ở miền Nam Việt Nam.
Trước
âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cần có sự thống nhất nhận thức
và xác định rõ hơn con đường phát triển và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam
trong giai đoạn mới. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
III) đã họp và đề ra quyết sách chiến lược cho cách mạng miền Nam để đi tới
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hội nghị chỉ rõ: “Trong mỗi
khả năng phát triển của tình hình, sẽ còn có nhiều tình huống phức tạp. Song,
dù tình hình phát triển theo khả năng nào, con đường tiến lên giành
thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là con đường bạo lực diễn ra dưới
hình thức này hay hình thức khác. Ta phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó chắc thắng
với khả năng xấu nhất là địch gây lại chiến tranh”1. “Con
đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong
tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến
lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến
lên”2; với phương hướng là, luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa
bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải
thi hành Hiệp định để thắng địch. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát
triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai
đoạn mới. “Chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến
tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”3.
Nghị quyết 21 (khóa III) của Trung ương Đảng nhanh chóng được quán triệt trong
toàn Đảng, đặc biệt với Trung ương Cục và các đảng bộ ở miền Nam.
Khi
thời cơ đến, Đảng kịp thời lãnh đạo chớp lấy thời cơ giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước. Năm 1974, quân Giải phóng
đẩy mạnh các cuộc tiến công chiến lược đánh nhiều trận tiêu diệt quân chủ lực
Sài Gòn, đập tan hầu hết các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, mở rộng vùng
giải phóng. Với sự phát triển mạnh mẽ trên chiến trường miền Nam, ngày
07/01/1975, Bộ Chính trị họp và có quyết sách quan trọng. “Nhiệm vụ sắp tới của
chúng ta là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp,
đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì tất yếu sẽ đưa cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội”4. Thực hiện tiến công và nổi dậy trên quy mô lớn.
Mở những chiến dịch hợp đồng binh chủng; kết hợp tiến công vào quân chủ lực của
ngụy với phá “bình định” nông thôn của chúng; phát triển đấu tranh chính trị;
đẩy mạnh công tác binh vận; phá hủy cơ sở hậu cần và phương tiện chiến tranh
của địch. Bộ Chính trị cũng đề ra kế hoạch tác chiến trên từng chiến trường:
Nam Bộ, Khu V - Tây Nguyên, Trị - Thiên. Miền Bắc phải chi viện tối đa cho
chiến trường miền Nam; đồng thời, chủ động đối phó nếu Mỹ dùng không quân, hải
quân đánh phá trở lại. Đó là kế hoạch tác chiến năm 1975, kế hoạch tiếp theo
cho năm 1976 sẽ do kết quả năm 1975 để quyết định. Đó cũng là quyết sách của Bộ
Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.
Chiến
thắng Phước Long ngày 06/01/1975 của quân Giải phóng cho thấy, khả năng giải
phóng miền Nam đã phát triển lớn hơn, nhanh hơn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là:
Mỹ có khả năng quay lại hay can thiệp bằng không quân, hải quân để cứu vãn
chính quyền và quân đội Sài Gòn hay không? Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Matin, ngày
09/01/1975, đã báo cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu biết: “Việc yểm trợ bằng
máy bay của Mỹ lúc này chưa được phép”.
Đảng
lãnh đạo chọn đúng hướng và mục tiêu tiến công chiến lược làm thay đổi hoàn
toàn cục diện cuộc chiến tranh, theo hướng có lợi cho ta. Thực
hiện những kết luận của Bộ Chính trị, ngày 09/01/1975, Thường vụ Quân ủy Trung
ương đã bàn và cụ thể hóa kế hoạch tác chiến chiến lược trong hai năm 1975 và
1976. Theo đó, mở đầu năm 1975, sẽ mở chiến dịch tiến công địch ở Tây Nguyên,
hướng chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chính là đánh chiếm thị xã Buôn Ma
Thuột. Trong chỉ đạo chiến tranh, việc chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều đó được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương
thảo luận kỹ và đi đến quyết định: Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên được thành
lập và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng
Quân đội nhân dân Việt Nam vào chiến trường Tây Nguyên trực tiếp chỉ đạo. Ngày
17/02/1975, Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Tây Nguyên thảo luận để
thực hiện thắng lợi quyết định của Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung
ương. Với sự chuẩn bị tốt nhất, sáng 10/3/1975, quân Giải phóng tiến công Buôn
Ma Thuột, 11 giờ ngày 11/3/1975, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma
Thuột.
Trong
ngày 11/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nghe Bộ Tổng Tham mưu báo
cáo diễn biến ở chiến trường Tây Nguyên và chiến thắng Buôn Ma Thuột. Phân tích
tình hình địch và lực lượng cách mạng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho
rằng, ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Ngày
16/3/1975, địch còn lại ở Plâyku và Kon Tum rút về đồng bằng ven biển theo
đường Số 7. Ta truy kích địch rút chạy diễn ra trong tám ngày đêm, từ ngày
17/3/1975 đến ngày 24/3/1975 giành thắng lợi. Ngày 25/3/1975, Tây Nguyên hoàn
toàn giải phóng. Ngay từ khi mở màn Chiến dịch Tây Nguyên, các chiến trường Nam
Bộ và các tỉnh Trung và Nam Trung Bộ đã đẩy mạnh tiến công địch. Trước đó, ngày
08/02/1975, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận Trị -Thiên.
Quân khu Trị - Thiên và Quân khu V phối hợp với mặt trận Tây Nguyên. Kế hoạch
Chiến dịch tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ được quyết
định và thực hiện. Ngày 21/3/1975 ta mở màn Chiến dịch giải phóng Huế và đến
ngày 25/3/1975, thành phố Huế được giải phóng. Cuộc tiến công giải phóng Đà
Nẵng bắt đầu ngày 28/3/1975 và đến ngày 29/3/1975, Đà Nẵng được giải phóng. Từ
chiến thắng đó, ta đẩy mạnh tiến công giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung.
Cùng
với đó, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo huy động nhân lực, vật lực tạo nên sức
mạnh vượt trội giành chiến thắng. Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị đã
quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm
Chủ tịch. Ngày 01/4/1975, Bộ Chính trị gửi điện cho lãnh đạo Trung ương Cục
miền Nam về xúc tiến gấp kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia
Định, lập Ban Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Sài Gòn. Bức điện nêu rõ: “Chúng ta
đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 35% sinh lực địch, tiêu diệt và loại khỏi vòng
chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt khoảng 40% các binh chủng kỹ thuật hiện
đại, thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất hậu cần, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số
dân vùng giải phóng lên gần 8 triệu”5. Ta đã có sức mạnh áp đảo,
địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. “Từ giờ phút này, trận quyết
chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu”. “Cách mạng nước ta
đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị
quyết định: chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng
tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian
ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để
chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”6. Như vậy, Bộ
Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định giải phóng Sài Gòn và toàn miền
Nam trước mùa mưa năm 1975.
Với
quyết sách chiến lược của Bộ Chính trị, ngày 06/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh
Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, đã ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc
hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt
trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Ngày 09/4/1975, Bộ Chính
trị có điện gửi các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục và các đồng chí lãnh đạo
đang ở chiến trường về kế hoạch tiến công Sài Gòn với tinh thần chuẩn bị tốt
nhất trên tất cả các hướng bảo đảm toàn thắng. Từ chiến thắng trên các chiến
trường, Bộ Chính trị đã họp ngày 14/4/1975 để nghe Quân ủy Trung ương báo cáo
về tình hình Mặt trận Sài Gòn và các phương hướng, chủ trương đề ra. Bộ Chính
trị nhất trí với phương hướng, chủ trương ấy và “đồng ý Chiến dịch giải phóng
Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”7.
Từ
vai trò lãnh đạo của Đảng, đã làm cho thế và lực của ta ngày càng mạnh, càng
đánh càng thắng, làm cho quân đội và chính quyền Sài Gòn ngày càng thất bại,
lục đục. Ngày 21/4/1975, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu phải
từ chức. Ngày 22/4/1975, điện của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc nắm vững thời cơ,
kịp thời phát động tổng tiến công và nổi dậy của quần chúng Sài Gòn - Gia Định:
“Thời cơ để mở cuộc Tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín
muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động
trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để
chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị… Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta
nhất định giành toàn thắng”8. Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt
đầu ngày 26/4/1975 và thắng lợi hoàn toàn lúc 11 giờ 30 ngày 30/4/1975, thành
phố Sài Gòn được giải phóng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã
toàn thắng.
Những
quyết sách của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975 thể hiện tầm cao trí tuệ và trách nhiệm của Đảng đối với đất nước
và dân tộc. Đó cũng là sự phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh, vừa kế thừa những di sản truyền thống của dân tộc,
vừa phát triển độc đáo, sáng tạo với tinh thần tiến công liên tục, quyết thắng
và chắc thắng. Sự thống nhất cao độ giữa quyết sách của Bộ Chính trị, Quân ủy
Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh với hành động trên các chiến trường, từng mặt
trận và chiến dịch đã tạo nên sức mạnh to lớn quyết định thắng lợi. Sự sáng tạo
trong lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường thể hiện tài thao lược của các đồng
chí lãnh đạo, tướng lĩnh, chỉ huy bảo đảm hiện thực hóa những quyết định chiến
lược của Đảng. Tập trung, thống nhất, trách nhiệm, kỷ luật, thần tốc, táo bạo
là nét nổi bật trong lãnh đạo của Đảng bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng.
http://tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-45-nam-ngay-giai-phong-mien-nam/vai-tro-lanh-dao-cua-dang-trong-dai-thang-mua-xuan-nam-1975/15408.html____________________
1 -
ĐCSVN – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 34, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 160.
2
- Sđd, Tập 34, tr. 232.
3
- Sđd, Tập 34, tr. 239.
4 -
ĐCSVN – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 35, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 192.
5 -
ĐCSVN – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 94 -
95.
6
- Sđd, Tập 36, tr. 95 - 96.
7
- Sđd, Tập 36, tr. 109.
8
- Sđd, Tập 36, tr. 167.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét