Nhằm
hạ thấp ý nghĩa và giá trị của Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc bản chất cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhưng sự thật lịch sử luôn rõ ràng và chỉ có một,
không thế lực nào có thể xuyên tạc.
Như đã thành thông lệ, từ
sau năm 1975, vào dịp kỷ niệm Ngày chiến thắng 30 tháng 4 hằng năm, khi toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa chào mừng sự
kiện lịch sử trọng đại này của đất nước, thì một số đài, báo và các trang mạng
nước ngoài, vốn không có thiện cảm với chế độ chính trị hiện nay ở Việt Nam lại
tổ chức các bài viết, bài phỏng vấn những kẻ chống cộng cực đoan ở hải ngoại,
hoặc một vài kẻ “trở cờ” ở trong nước, để phủ nhận giá trị ngày 30/4/1975 –
Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như xuyên tạc bản chất cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Lợi dụng ở trong nước xuất
bản và phát hành bộ sách Lịch sử mới (vào tháng 8/2017) gồm 15 tập, trong đó
không còn gọi quân đội Sài Gòn là “ngụy quân” và chính quyền Sài Gòn là “ngụy
quyền”, những đối tượng nói trên ra sức xuyên tạc bản chất cuộc chiến tranh ở
Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Họ cho rằng “đây chỉ là cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn”, mà ở đó “miền Bắc xâm lược miền Nam”(!).
Cần khẳng định ngay rằng,
cái lý sự cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn”, mà “bên thắng cuộc” là miền Bắc, còn “bên thua cuộc” là miền Nam,
chỉ là thứ “lý sự cùn” của vài nhóm chống cộng nào đó, do ôm hận vì không còn
được tận hưởng danh phận của kẻ làm tay sai cho ngoại bang, vẫn lập luận nhằm
hạ thấp giá trị Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc Việt Nam và ngụy biện cho
quãng đời làm tay sai cho ông chủ Mỹ. Điều đó không lòe bịp được những người có
lương tri, tôn trọng sự thật.
Sự thật là, những dính líu
của đế quốc Mỹ vào Việt Nam đã sớm xuất hiện từ những năm 50 của thế kỷ XX. Đến
năm 1954, họ đã viện trợ tới 78% chi phí chiến tranh của người Pháp ở Đông
Dương1; thậm chí Mỹ còn phác họa một kế hoạch ném bom nguyên tử
xuống lòng chảo Điện Biên Phủ, nhằm cứu vãn sự thất bại khó tránh khỏi của thực
dân Pháp. Khi không thành công trong việc dính líu gián tiếp, thì đế quốc Mỹ đã
hất cẳng Pháp, lựa chọn giải pháp trực tiếp can thiệp xâm lược Việt Nam. Để
thực hiện âm mưu đó, đại diện Chính phủ Mỹ đã không ký Tuyên bố cuối cùng của
Hội nghị Genève về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương (tháng 7/1954),
dựa vào đó để họ không chấp nhận các điều khoản của Hiệp định Genève, xúc tiến
kế hoạch “hất cẳng” Pháp, xâm chiếm miền Nam Việt Nam bằng chính sách thực dân
mới. Tuy nhiên, trước thế và lực của chính quyền Sài Gòn (do Mỹ dựng lên) suy
yếu đến mức không thể cứu vãn được nữa, thì từ những năm 60 của thế kỷ XX, Mỹ
đã chính thức nhảy vào cuộc, với các chiến lược chiến tranh lần lượt được Nhà
trắng áp dụng, là: Chiến tranh đặc biệt (1961 - 1965), Chiến tranh cục bộ (1965
- 1966) và Việt Nam hóa chiến tranh (1969 - 1973). Cùng với các chiến lược
chiến tranh đó, đế quốc Mỹ còn phiêu lưu thực hiện chiến dịch vô nhân tính ném
bom hủy diệt Thủ đô Hà Nội và miền Bắc Việt Nam bằng siêu pháo đài bay
B.52, hòng đưa Hà Nội và miền Bắc Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá”. Để
thực hiện các chiến lược chiến tranh đó, đế quốc Mỹ đã sử dụng trên 8 triệu tấn
bom đạn, gần 80 triệu lít chất độc hóa học cùng những loại vũ khí tối tân, hiện
đại nhất lúc bấy giờ (trừ bom hạt nhân) và một lực lượng đông đảo quân viễn
chinh (gồm quân Mỹ và quân của một số nước đồng minh). Riêng nước Mỹ, đã phải
huy động tới 70% biên chế lục quân, 60% số lính thủy đánh bộ, 40% biên chế hải
quân và 60% biên chế không quân, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ. Số quân
Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam có lúc cao nhất đã lên đến hơn nửa triệu người;
còn số thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã lên tới
6,5 triệu lượt người2.
Những con số trên cho thấy
đây không phải là cuộc chiến của những người Việt Nam với nhau. Nhiều học giả
phương Tây và chính khách Hoa Kỳ cũng thừa nhận đây là cuộc chiến của người Mỹ
xâm lược Việt Nam và người Việt Nam chống lại sự xâm lược của người Mỹ. Trong
cuốn sách Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ (xuất bản năm
1991 tại Mỹ), tác giả John Carlos Rowe và Rick Berg thẳng thắn chỉ ra: “Nói
ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm
lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương”3.
Năm 2009, học giả John Prados (thuộc cục Lưu trữ an ninh quốc gia và Đại học
G.Oasinhtơn) cho ra mắt độc giả Mỹ cuốn Lịch sử một cuộc chiến không
thể thắng 1945 - 1975, cũng thừa nhận: cuộc chiến này, đối với người
Mỹ là một sai lầm và không thể chiến thắng. Trong một cuộc họp báo ngay sau khi
chế độ Sài Gòn sụp đổ, Heinz Alfred Kissinger, cựu Ngoại trưởng Mỹ thừa nhận:
“Chúng ta đã sai lầm khi biến Việt Nam thành một nơi thí nghiệm chính sách của
chúng ta chứ không phải đối với chính sách của người Việt Nam. Tôi nghĩ rằng,
có lẽ việc đưa các lực lượng quân sự Mỹ vào Việt Nam là biện pháp giải quyết
tồi nhất, vì điều đó có nghĩa là đưa một yếu tố ngoại lai vào”. Còn tướng
Maxwell D.Taylor, trước sự tiến công như vũ bão của quân Giải phóng miền Nam
dọc ven biển miền Trung vào thượng tuần tháng 4 năm 1975, đã phải thốt lên
rằng: “Tôi không thể giải thích nổi cuộc thảm bại của chúng ta. Đây là một
trận Oa-téc-lô của Mỹ”. Sau ngày 30 tháng 4, ông này còn nói
thêm: “Tất cả chúng ta đều góp phần của mình vào thất bại của Mỹ ở Việt Nam.
Thật chẳng có gì là tốt đẹp cả”. Cố giáo sư Trần Chung Ngọc - cựu sĩ quan Việt
Nam Cộng hòa (người định cư ở Mỹ sau sự kiện 30/4/1975) đã thẳng thắn chỉ ra:
“Ngày nay, lịch sử đã rõ ràng. Nhiều hồ sơ mật về cuộc chiến đã được giải mật.
Với những hiểu biết mới về cuộc chiến thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954
là cuộc chiến chống xâm lăng của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên
đầu dân Việt Nam, với sự hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của Mỹ… Còn cuộc
chiến hậu Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ, Mỹ xâm lăng vì cái thuyết
Domino sai lầm… Đây là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự
kiện lịch sử chứ không xét theo cảm tính phe phái”4. Trong một bài
viết khác, vị giáo sư này đã vạch trần bộ mặt tay sai của chính quyền Sài Gòn,
khi nhấn mạnh: “Ai cũng biết là chế độ Ngô Đình Diệm cũng như miền Nam là do Mỹ
dựng lên, không phải do người dân miền Nam bầu chọn hay muốn như vậy… Còn về
những chế độ quân phiệt của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa thì chúng ta hãy đọc vài
lời thú nhận của các vị lãnh đạo cao cấp nhất ở miền Nam, như Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu: Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống Cộng. Nếu Hoa Kỳ mà
không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một
năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập; hay Nguyễn Văn
Ngân, phụ tá đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Miền Nam Việt
Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta
không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến,
muốn đi là đi; hay Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ: “Ông”Mỹ
luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng thực
chất đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”;
còn Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Cao Văn
Viên: Chúng ta không có trách nhiệm chiến tranh(!). Trách nhiệm chiến
đấu là của người Mỹ. Chính sách đó do Mỹ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi”5.
Những bằng chứng trên cho
thấy: là những người trong cuộc, các quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn
còn nhận thức được thân phận làm tay sai cho Mỹ và nhận ra cuộc chiến này là
cuộc chiến của người Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam, thế mà một số người chống
cộng cực đoan lại cố biện hộ cho Mỹ không phải là kẻ xâm lược và xuyên tạc cuộc
chiến tranh này là nội chiến thì thật là lố bịch. Cần khẳng định rằng, cuộc
chiến từ năm 1954 đến năm 1975 ở Việt Nam là cuộc kháng chiến của dân tộc Việt
Nam chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Do đó, nếu có “bên thắng cuộc” và
“bên thua cuộc” ở đây, thì cần phải nói rằng: toàn thể dân tộc Việt Nam là “bên
thắng cuộc” và đế quốc Mỹ là “bên thua cuộc”, đúng như tuyên bố đầy ý nghĩa của
cố Thượng tướng Trần Văn Trà trong cuộc gặp giữa ông (khi đó là Chủ tịch Ủy ban
Quân quản Sài Gòn – Gia Định) với cựu Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn
Minh cùng nội các trước khi trả tự do cho họ, ngày 02-5-1975, rằng: “Giữa chúng
tôi và các anh, không có ai được, ai thua, chỉ có nhân dân Việt Nam là người
chiến thắng”.
Lịch sử cuộc chiến đã lùi
xa 45 năm, nhận thức đúng bản chất của cuộc chiến này sẽ cho phép mỗi người dân
Việt Nam, dù trước đây đứng ở phía bên nào của cuộc chiến cũng có quyền tự hào
về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc; đó cũng chính là một cách để
đi tới sự hòa hợp dân tộc được thanh thản nhất. Nhân đây, xin nhắc lại cảm nghĩ
của cố giáo sư Trần Chung Ngọc để thay cho lời kết bài viết này: “Có đi du lịch
nhiều nơi trên thế giới mới thấy chiến thắng của Việt Nam đã được ngưỡng mộ như
thế nào” và “Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ
quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những
kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính
kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối
thoại, bất kể họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào”6.
1 - Ban Chỉ đạo Tổng kết
chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị -- Tổng kết cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 310.
2 - Ban Chỉ đạo Tổng kết
chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Tổng kết cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước Thắng lợi và bài học - Nxb CTQG, H. 1995, tr.
312.
3 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040. php - Trần
Chung Ngọc - 30 tháng tư và tôi - Từ kiến thức đến lập trường.
4 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040. php - Trần
Chung Ngọc - 30 tháng Tư và tôi - Từ kiến thức đến lập trường.
5 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNs/TCNts065.
php - Trần Chung Ngọc - Vài suy tư về ngày
30 tháng Tư.
6 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNs/TCNts065.
php - Trần Chung Ngọc - Vài suy tư về ngày
30 tháng Tư.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét