Thứ Ba, 28 tháng 4, 2020

NGHỆ THUẬT TẠO THẾ VÀ LỰC TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN NĂM 1975



Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 diễn ra từ ngày 04/3 đến ngày 30/4/1975, được thực hiện bằng ba đòn tiến công chiến lược chủ yếu vào Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia Định, kết hợp với các chiến dịch, các đợt hoạt động tác chiến và nổi dậy. Để kết thúc thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, quân và dân ta đã vận dụng linh hoạt, sắc sảo nghệ thuật chiến tranh nhân dân, tạo thế, lực mạnh hơn địch nhiều lần - yếu tố quyết định giành thắng lợi - nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, để lại một số vấn đề học thuật mang tầm chiến lược.
1. Trong đòn tiến công chiến lược mở đầu trên chiến trường Tây Nguyên, ý định ban đầu của ta là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng Buôn Ma Thuột và Nam Tây Nguyên, mở rộng hành lang, nối liền Tây Nguyên với Đông Nam Bộ; thực hiện chia cắt, tạo cục diện mới về chiến lược. Thực hiện ý định đó, việc tạo ưu thế về lực lượng và phương tiện là một nhân tố quan trọng được Bộ Tổng Tư lệnh, người chỉ huy và cơ quan chiến trường hoạch định tỉ mỉ, có tính nghệ thuật cao. Theo đó, ta chủ động kết hợp giữa lực lượng tại chỗ (28 tiểu đoàn bộ binh và dân quân du kích) với lực lượng của Bộ tăng cường (14 tiểu đoàn bộ binh) và chủ lực của Quân khu 5, miền Đông Nam Bộ đến phối hợp (10 tiểu đoàn) hình thành tập đoàn chiến lược mạnh, tạo được ưu thế về binh lực và phương tiện so với địch, nhất là trên hướng chủ yếu của Chiến dịch và ở trọng điểm đột phá khẩu Buôn Ma Thuột1. Đặc biệt, trong Chiến dịch này, nghệ thuật nghi binh, tạo thế, giữ quyền chủ động tác chiến cũng là nét nổi bật và thành công lớn của ta ở cả cấp chiến dịch và chiến lược. Bằng một loạt các biện pháp nghi binh công phu ta đã thu hút và giam chân khối chủ lực cơ động của địch ở Bắc Tây Nguyên, dẫn đến sơ hở ở Nam Tây Nguyên, điều kiện thuận lợi để ta tập trung lực lượng chủ yếu tiến công mạnh quân địch làm cho chúng hoàn toàn bị bất ngờ và nhanh chóng thất bại. Đó chính là nghệ thuật nghi binh, lừa địch, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường chính Tây Nguyên có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Mặc dù, ta chỉ tăng cường đến chiến trường này 04 sư đoàn bộ binh (316, 968, 10, 320), song đã tạo thế áp đảo, nhất là trên hướng chủ yếu của Chiến dịch. Cùng với đó, ta đã kết hợp khéo léo giữa thế bao vây, chia cắt với cách đánh linh hoạt, sắc nhọn, hiểm chắc, nên trận then chốt mở đầu Buôn Ma Thuột nhanh chóng giành thắng lợi.
Thắng lợi của trận đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột đã tạo đà cho ta tiêu diệt Sư đoàn 23 ngụy tại Phước An, mở ra thế phát triển về chiến dịch và chiến lược, để lực lượng vũ trang Tây Nguyên phá vỡ thế trận phòng thủ của địch, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng của chúng ở Tây Nguyên, giải phóng toàn bộ địa bàn Tây Nguyên và nhanh chóng phát triển tiến công xuống đồng bằng duyên hải miền Trung, cắt đôi thế bố trí chiến lược của địch, tạo thời cơ phát triển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Theo Tài liệu tổng kết về Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của Bộ Tổng Tham mưu (năm 1976): nếu như ở thời điểm tháng 02/1975, so sánh tổng quân số địch, ta ở miền Nam là 1,7/1; trong đó, quân chủ lực là 1/1,03, quân địa phương là 4,9/1, đến khi ta chuyển lên Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam (ngày 18/3/1975), so sánh tổng quân số địch, ta là 1,38/1, trong đó quân chủ lực là 1/1,26, quân địa phương là 4,5/1. Thực tế cho thấy, thắng lợi của đòn tiến công chiến lược mở đầu trên chiến trường Tây Nguyên không chỉ tạo bước phát triển mới về thế trận chiến lược, chiến dịch, mà còn góp phần quan trọng làm cho cán cân lực lượng chiến lược có sự thay đổi đáng kể, có lợi cho ta.
2. Trong lúc đòn tiến công chiến lược mở đầu trên chiến trường Tây Nguyên tập trung đánh địch phản kích ở Buôn Ma Thuột và tổ chức chặn đánh, tiêu diệt các lực lượng còn lại của Quân đoàn 2 ngụy rút chạy trên Đường 7, thì Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 của ta đồng loạt mở hai chiến dịch quy mô vừa, đánh địch ở đầu phía Bắc thuộc Quân đoàn 1, Quân khu 1 ngụy. Khi đòn tiến công Tây Nguyên của ta giành được thắng lợi, làm cho thế trận chiến lược của địch đứng trước nguy cơ bị cắt đôi, Quân khu 3 ngụy bị uy hiếp trực tiếp, buộc địch phải rút bỏ Quảng Trị về co cụm chiến lược. Trước sự phát triển nhanh về mọi mặt của ta trên chiến trường, ngày 24/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, lực lượng vũ trang Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 chủ lực của Bộ đã nhanh chóng phát triển hai chiến dịch quy mô vừa, thành chiến dịch tiến công quy mô lớn, khẩn trương tiêu diệt cụm quân lớn của địch, giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Trong đòn tiến công chiến lược này, mặc dù kém chúng về quân số và vũ khí trang bị, nhưng so sánh về ưu thế ta vẫn hơn địch, bởi nhiều yếu tố, điển hình là, thế thắng lớn ở Tây Nguyên, thế bao vây, chia cắt hiểm và hơn nữa là bí mật, bất ngờ chớp thời cơ tạo thế và lực áp đảo - thời cơ là lực lượng - tiến công giải quyết nhanh các mục tiêu Huế, Tam Kỳ, Đà Nẵng. Nhờ đó, chỉ hơn 01 tháng liên tục tổng tiến công và nổi dậy, với 02 đòn tiến công chiến lược ở chiến trường Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn: tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân sự và hệ thống chính quyền ngụy ở 02 địa bàn có lực lượng quân sự rất mạnh2, giải phóng 16 tỉnh, 05 thành phố cùng nhiều quận lỵ, chi khu, yếu khu quân sự. Vùng giải phóng được mở rộng chiếm 3/4 đất đai và gần 1/2 dân số miền Nam. Sau thắng lợi của đòn Huế -  Đà Nẵng (29/3/1975), so sánh tổng quân số địch, ta là 1/1,14 (địch: 464.000, ta: 530.000); trong đó, quân chủ lực là 1/1,95 (địch: 235.000, ta: 457.873); quân địa phương là 3,2/1 (địch: 229.800, ta 71.727)3. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn đấu trí, đấu lực, cán cân lực lượng chiến lược giữa ta và địch trên chiến trường càng có sự thay đổi lớn hơn. Trong khi lực lượng của địch giảm mạnh, thì lực lượng của ta lại tăng với tốc độ rất nhanh.
Rõ ràng, cùng với thắng lợi có ý nghĩa quyết định của đòn tiến công chiến lược Tây Nguyên và thắng lợi nhanh chóng, vang dội của đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng, ta đã đập tan ý định co cụm chiến lược của địch, góp phần làm thay đổi lớn về so sánh thế, lực giữa ta và địch ở cả quy mô chiến lược, chiến trường. Từ đó, tạo sự nhảy vọt về chất của cục diện chiến tranh, hoàn toàn có lợi cho ta, mở ra cục diện chiến lược mới chưa từng có, cơ sở, tiền đề quan trọng để ta giành được những mục tiêu chiến lược lớn hơn và sớm hơn dự kiến.
3. Đòn quyết chiến chiến lược đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch ở Sài Gòn - Gia Định. Trên cơ sở dự báo sớm “Kế hoạch thời cơ”, khi thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam xuất hiện, Bộ Chính trị chủ trương: tập trung nhanh nhất lực lượng (từ 12 sư đoàn trở lên), binh khí, kỹ thuật và vật chất giải quyết xong Sài Gòn - Gia Định trước mùa mưa. Tiếp đó (ngày 30/3/1975 và ngày 14/4/1975), Bộ Chính trị chính thức hạ quyết tâm mở Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch quyết chiến chiến lược với hình thức tiến công hiệp đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn kết thúc chiến tranh.
Nghệ thuật tạo thế và lực trong đòn quyết chiến chiến lược này, đó chính là sự kịp thời phát hiện, nắm bắt và tận dụng triệt để thời cơ chiến dịch, chiến lược; sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo mưu kế, thế, thời; nghệ thuật tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy đúng đắn, tài tình,… của Bộ thống soái. Đó là những cơ sở khoa học để các lực lượng cơ động thần tốc, tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, tiến công và nổi dậy,… tạo ưu thế hơn hẳn cả về thế và lực, áp đảo hoàn toàn quân địch trên từng hướng tiến công vào Sài Gòn.
Về thế, ta chủ động, tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao; thế của hai lực lượng, ba thứ quân; thế bao vây chia cắt; thế tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng; thế đứng chân ở các vị trí xung yếu,... còn thế của địch đang ở thế tan rã, thế hoang mang và tất yếu là thế thua trận. Về lực, ta đã làm suy giảm lực lượng địch bằng những trận tiêu diệt lớn4. Hơn nữa, ta chủ động xây dựng được các binh đoàn chủ lực mạnh làm chuyển biến căn bản so sánh lực lượng có lợi cho ta, bất lợi cho địch: ta 1,7, địch 1 (riêng quân chủ lực là 3/1); về binh khí, kỹ thuật ta đã tập trung được 516 khẩu pháo mặt đất, 550 tên lửa và pháo phòng không, 01 đại đội máy bay A37, 320 xe tăng, xe thiết giáp,... còn lực của địch đang lâm vào trạng thái, “lực bất tòng tâm”. Đó là những thuận lợi căn bản, tạo sức mạnh tổng hợp hơn hẳn địch, đập tan mọi cố gắng cuối cùng của quân đội và chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, chỉ với 55 ngày đêm diễn ra cuộc đấu trí, đấu lực giữa ta và địch trên chiến trường, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành, tổ chức, chỉ huy mưu lược, trí tuệ, sáng tạo và linh hoạt của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, của người chỉ huy và cơ quan chiến trường, chiến dịch, quân và dân ta đã làm nên kỳ tích lịch sử ở thế kỷ XX, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thắng lợi đó để lại nhiều bài học quý, trong đó bài học về nghệ thuật tạo thế và lực trong tác chiến chiến dịch mãi mãi là tinh hoa quân sự để các thế hệ người Việt Nam tiếp tục kế thừa, nghiên cứu, vận dụng trong công cuộc xây dựng thế và lực của nền quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc.
1 - Trong trận Buôn Ma Thuột, ta đã tập trung một lực lượng lớn đủ sức áp đảo địch (so sánh lực lượng ta và địch: Bộ binh: 4,5/1, pháo binh 5/1, xe tăng 5,5/1), hình thành 05 mũi tiến công từ 03 hướng vây chặt quân địch, thực hiện chia cắt triệt để về chiến thuật.
2 - Quân khu 2 - Quân đoàn 2; Quân khu 1 - Quân đoàn 1.
3 - BTTM – Tài liệu tổng kết về Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 (Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã giành được thắng lợi trọn vẹn), Tập 1, H. 1976.
4 - Tính đến thời điểm Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu diễn ra, quân địch trên toàn chiến trường miền Nam đã bị đánh thiệt hại tới 35% quân số, 40% cơ sở hậu cần, 40% binh khí kỹ thuật.


PHÁT HUY TINH THẦN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ VỮNG MẠNH, RỘNG KHẮP



Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng dân quân, tự vệ và du kích. Phát huy tinh thần đó, lực lượng Dân quân tự vệ hiện nay cần được xây dựng vững mạnh, rộng khắp; có tổ chức biên chế chặt chẽ, chất lượng chính trị cao, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu tốt, hoạt động chiến đấu phòng thủ có hiệu quả, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc ngay từ cơ sở.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng Dân quân tự vệ và du kích miền Nam đã anh dũng chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng phong phú, sáng tạo nhiều hình thức đánh địch trên khắp 03 vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang bằng 03 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), phát triển các căn cứ chiến đấu, bám trụ kiên cường, giữ thế xen kẽ, cài răng lược, hình thành thế trận, vành đai du kích tiêu diệt địch. Bên cạnh đó, lực lượng Dân quân tự vệ, du kích còn phối hợp với nhân dân đấu tranh chống địch dồn dân lập “Khu trù mật”, “Ấp chiến lược”; phối hợp với bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực đánh bại chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận”,… góp phần quan trọng để đánh thắng các chiến lược “Bình định”, “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”,… của Mỹ. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, lực lượng Dân quân tự vệ, du kích1 đã phối hợp với quân, dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy, phá hủy nhiều trận địa pháo của địch, làm chủ các tuyến đường, treo cờ giải phóng, tiếp tế, vận chuyển, bảo vệ cơ sở vật chất của các cơ quan, nhà máy,… trong thành phố. Đồng thời, dẫn đường cho các đơn vị chủ lực đánh chiếm các căn cứ, truy quét, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng các vùng bị chiếm đóng với phương châm: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ của Quân giải phóng đã tung bay trên nóc Dinh Độc lập, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng Dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, rộng khắp; có chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao; chủ động, tích cực tham gia cùng với các lực lượng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống dịch bệnh; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tham gia thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, phong trào thi đua do Trung ương và địa phương phát động, trở thành lực lư­ợng chính trị tin cậy của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương.
Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn định khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chi phối các quan hệ quốc tế; xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng, căng thẳng thương mại, can thiệp lật đổ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên,… diễn ra dưới nhiều hình thức gay gắt hơn. Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, đe dọa an ninh và ổn định ở khu vực cũng như quyền lợi chính đáng của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng quyết liệt, thông qua chiêu bài kích động, tụ tập đông người, đòi hỏi yêu sách phi lý, gây mất an ninh chính trị trên địa bàn. Trước tình hình đó, phát huy tinh thần Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và chủ trương xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, cần tập trung thực hiện một số nội dung chủ yếu sau.
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức triển khai có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật về Dân quân tự vệ. Cấp ủy, chính quyền địa phương, các cấp, các ngành thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, quán triệt; tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tập trung vào các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật về Dân quân tự vệ. Trọng tâm là Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng Dân quân tự vệ và lực lượng Dự bị động viên trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ư­­ơng 8 (khoá XI) về Chiến lư­ợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia, Luật Dân quân tự vệ năm 2019,… cho các đối tượng và toàn dân, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ trì các cấp, ban chỉ huy quân sự cấp xã, cơ quan, tổ chức, đơn vị Dân quân tự vệ nhằm nhận thức rõ vai trò quan trọng của Dân quân tự vệ, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng lực lượng này. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý nhà nước, xây dựng, ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, bảo đảm 100% các tỉnh, thành phố có đề án, kế hoạch, xây dựng, huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho lực lượng Dân quân tự vệ. Chú trọng công tác kiểm tra, tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ.
Hai là, xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ có số lượng phù hợp, cơ cấu thành phần hợp lý, chất lượng tổng hợp ngày càng cao, trước hết là chất lượng chính trị. Cơ quan quân sự các cấp thực hiện nghiêm việc đăng ký, quản lý Dân quân tự vệ, tiến hành tuyển chọn, xét duyệt, sắp xếp đúng, đủ thành phần bảo đảm dân chủ, công khai theo phư­ơng châm “Dân biết, dân bàn, dân cử”; khắc phục tình trạng mất cân đối lực l­ượng giữa các vùng, miền, biên giới, hải đảo. Trong đó, chú trọng xây dựng Dân quân tự vệ tại chỗ, cơ động, Dân quân tự vệ biển, Dân quân tự vệ binh chủng, Dân quân thường trực ở địa bàn trọng điểm về quốc phòng và lực lượng tự vệ trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng tiếp tục phối hợp với các địa phương đẩy mạnh triển khai thực hiện, nhân rộngcác mô hình mới về xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, như: hải đội dân quân thường trực, chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới, đất liền gắn với các điểm dân cư, v.v. Đồng thời, nâng cao chất lư­ợng tổ chức, hoạt động của chi bộ quân sự cấp xã; chú trọng công tác phát triển đảng viên, đoàn viên nhằm nâng cao chất lượng chính trị của Dân quân tự vệ.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện Dân quân tự vệ và đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn. Các địa phương tập trung nâng cao chất lượng bồi dưỡng, tập huấn, thống nhất chương trình, nội dung, thời gian, phương pháp, trình độ, năng lực tổ chức, chỉ huy trước khi bước vào huấn luyện cho đội ngũ cán bộ làm công tác quốc phòng địa phương, cán bộ chỉ huy đơn vị Dân quân tự vệ, nhất là cán bộ trực tiếp huấn luyện. Qua đó, huấn luyện cho Dân quân tự vệ hiểu rõ âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; từng bước sử dụng thành thạo các loại vũ khí, phương tiện được trang bị, vũ khí tự tạo, công cụ hỗ trợ; nắm vững nguyên tắc chiến thuật gắn với địa bàn hoạt động, vận dụng sáng tạo trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn. Đồng thời, coi trọng huấn luyện các tình huống, phương án tại chỗ; tập trung đào tạo các chức vụ chỉ huy chuyên môn kỹ thuật, huấn luyện hải đội dân quân thường trực, bảo đảm hoạt động có hiệu quả. Tăng cường hội thi, hội thao, diễn tập, kiểm tra của các cấp để đánh giá thực chất, kịp thời rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện. Cùng với đó, Cục Dân quân tự vệ tiếp tục tham mưu ban hành, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo theo quy định của Luật Dân quân tự vệ năm 2019. Các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhà trường tiếp tục quán triệt nhiệm vụ đào tạo, lấy chất lượng làm chính, góp phần nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cấp xã. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tuyển chọn, cử đi đào tạo và bố trí, sử dụng sau đào tạo đúng quy trình, nguyên tắc, chuyên ngành; thường xuyên rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh chương trình, nội dung đáp ứng yêu cầu thực tiễn; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên. Tăng cường đào tạo liên thông vừa làm vừa học từ trung cấp lên cao đẳng và từ cao đẳng lên đại học ngành quân sự cơ sở tại trường quân sự các quân khu, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp hoạt động giữa Dân quân tự vệ với các lực lượng. Phát huy vai trò tham mưu của cơ quan quân sự các cấp, ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức trong tuyên truyền, vận động và triển khai thực hiện hiệu quả hoạt động phối hợp của Dân quân tự vệ. Việc sử dụng lực lượng Dân quân tự vệ bảo đảm đúng quy định của pháp luật và Chỉ thị số 20/CT-TM, ngày 22/8/2012 của Tổng Tham mưu trưởng về tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Dân quân tự vệ. Các địa phương chỉ đạo, hướng dẫn Dân quân tự vệ phối hợp với Công an và các lực lượng liên quan trong bảo vệ an ninh biên giới quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật; kịp thời xử lý các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Xây dựng Dân quân tự vệ thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích trong phối hợp với các lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn; tham gia diễn tập phòng thủ dân sự, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Năm là, quan tâm bảo đảm đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ. Những năm qua, các địa phương, cơ quan, tổ chức đã thực hiện nghiêm việc bảo đảm chế độ, chính sách cho lực lượng Dân quân tự vệ theo quy định của Luật Dân quân tự vệ, nhiều địa phương có cách làm sáng tạo, đem lại hiệu quả cao. Phát huy kết quả đó, các địa phương chủ động bố trí ngân sách, kết hợp tăng cường huy động các nguồn lực xã hội hóa bảo đảm đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ, đặc biệt là những địa phương còn khó khăn. Đồng thời, làm tốt công tác chính sách hậu phương, gia đình đối với những cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ gặp khó khăn, ốm đau, bị thương, từ trần hoặc hy sinh. Các địa phương chủ động bảo đảm phương tiện, vũ khí, trang bị, công cụ hỗ trợ, cơ sở, vật chất cho thực hiện nhiệm vụ và quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng trụ sở làm việc riêng cho ban chỉ huy quân sự cấp xã, nhà ở cho dân quân thường trực, bảo đảm điều kiện làm việc, sinh hoạt của lực lượng Dân quân tự vệ.
Việc xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Nhiệm vụ quan trọng này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có chất lượng, hiệu quả để thực hiện tốt phương châm “giữ nước từ khi nước chưa nguy”.
http://tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-45-nam-ngay-giai-phong-mien-nam/phat-huy-tinh-than-tong-tien-cong-va-noi-day-xuan-1975-xay-dung-luc-luong-dan-quan-tu-ve-v/15409.html1 - Riêng ở Sài Gòn - Gia Định có khoảng 3.000 dân quân, du kích và trên 200 tự vệ mật.



VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975



Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đại thắng mùa Xuân 1975 được thể hiện trên mấy nội dung cơ bản sau:
Đảng đã nắm chắc tình hình đề ra đường lối đúng đắn giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian xác định chính xác. Sau Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ rút quân đội về nước, cục diện chính trị, quân sự ở miền Nam Việt Nam tồn tại hai vùng, với hai chính quyền quản lý: vùng thuộc chính quyền và quân đội Sài Gòn quản lý; vùng giải phóng do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và quân Giải phóng quản lý. Thế nhưng, khi thực hiện Hiệp định, chính quyền và quân đội Sài Gòn liên tiếp vi phạm, lấn chiếm, có nơi chúng thực hiện chiến dịch lớn, buộc quân Giải phóng phải đánh trả để bảo vệ vùng giải phóng, giữ vững hiện trạng. Mỹ tuy rút hết quân về nước, nhưng vẫn tiếp tục ủng hộ, viện trợ cho chính quyền Sài Gòn hòng duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
Trước âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cần có sự thống nhất nhận thức và xác định rõ hơn con đường phát triển và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã họp và đề ra quyết sách chiến lược cho cách mạng miền Nam để đi tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hội nghị chỉ rõ: “Trong mỗi khả năng phát triển của tình hình, sẽ còn có nhiều tình huống phức tạp. Song, dù tình hình phát triển theo khả năng nào, con đường tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là con đường bạo lực diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác. Ta phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó chắc thắng với khả năng xấu nhất là địch gây lại chiến tranh1. “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”2; với phương hướng là, luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành Hiệp định để thắng địch. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới. “Chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”3. Nghị quyết 21 (khóa III) của Trung ương Đảng nhanh chóng được quán triệt trong toàn Đảng, đặc biệt với Trung ương Cục và các đảng bộ ở miền Nam.
Khi thời cơ đến, Đảng kịp thời lãnh đạo chớp lấy thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1974, quân Giải phóng đẩy mạnh các cuộc tiến công chiến lược đánh nhiều trận tiêu diệt quân chủ lực Sài Gòn, đập tan hầu hết các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng. Với sự phát triển mạnh mẽ trên chiến trường miền Nam, ngày 07/01/1975, Bộ Chính trị họp và có quyết sách quan trọng. “Nhiệm vụ sắp tới của chúng ta là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì tất yếu sẽ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”4. Thực hiện tiến công và nổi dậy trên quy mô lớn. Mở những chiến dịch hợp đồng binh chủng; kết hợp tiến công vào quân chủ lực của ngụy với phá “bình định” nông thôn của chúng; phát triển đấu tranh chính trị; đẩy mạnh công tác binh vận; phá hủy cơ sở hậu cần và phương tiện chiến tranh của địch. Bộ Chính trị cũng đề ra kế hoạch tác chiến trên từng chiến trường: Nam Bộ, Khu V - Tây Nguyên, Trị - Thiên. Miền Bắc phải chi viện tối đa cho chiến trường miền Nam; đồng thời, chủ động đối phó nếu Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại. Đó là kế hoạch tác chiến năm 1975, kế hoạch tiếp theo cho năm 1976 sẽ do kết quả năm 1975 để quyết định. Đó cũng là quyết sách của Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.
Chiến thắng Phước Long ngày 06/01/1975 của quân Giải phóng cho thấy, khả năng giải phóng miền Nam đã phát triển lớn hơn, nhanh hơn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Mỹ có khả năng quay lại hay can thiệp bằng không quân, hải quân để cứu vãn chính quyền và quân đội Sài Gòn hay không? Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Matin, ngày 09/01/1975, đã báo cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu biết: “Việc yểm trợ bằng máy bay của Mỹ lúc này chưa được phép”.
Đảng lãnh đạo chọn đúng hướng và mục tiêu tiến công chiến lược làm thay đổi hoàn toàn cục diện cuộc chiến tranh, theo hướng có lợi cho ta. Thực hiện những kết luận của Bộ Chính trị, ngày 09/01/1975, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã bàn và cụ thể hóa kế hoạch tác chiến chiến lược trong hai năm 1975 và 1976. Theo đó, mở đầu năm 1975, sẽ mở chiến dịch tiến công địch ở Tây Nguyên, hướng chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chính là đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Trong chỉ đạo chiến tranh, việc chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều đó được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thảo luận kỹ và đi đến quyết định: Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên được thành lập và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam vào chiến trường Tây Nguyên trực tiếp chỉ đạo. Ngày 17/02/1975, Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Tây Nguyên thảo luận để thực hiện thắng lợi quyết định của Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương. Với sự chuẩn bị tốt nhất, sáng 10/3/1975, quân Giải phóng tiến công Buôn Ma Thuột, 11 giờ ngày 11/3/1975, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột.
Trong ngày 11/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nghe Bộ Tổng Tham mưu báo cáo diễn biến ở chiến trường Tây Nguyên và chiến thắng Buôn Ma Thuột. Phân tích tình hình địch và lực lượng cách mạng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho rằng, ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Ngày 16/3/1975, địch còn lại ở Plâyku và Kon Tum rút về đồng bằng ven biển theo đường Số 7. Ta truy kích địch rút chạy diễn ra trong tám ngày đêm, từ ngày 17/3/1975 đến ngày 24/3/1975 giành thắng lợi. Ngày 25/3/1975, Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng. Ngay từ khi mở màn Chiến dịch Tây Nguyên, các chiến trường Nam Bộ và các tỉnh Trung và Nam Trung Bộ đã đẩy mạnh tiến công địch. Trước đó, ngày 08/02/1975, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận Trị -Thiên. Quân khu Trị - Thiên và Quân khu V phối hợp với mặt trận Tây Nguyên. Kế hoạch Chiến dịch tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ được quyết định và thực hiện. Ngày 21/3/1975 ta mở màn Chiến dịch giải phóng Huế và đến ngày 25/3/1975, thành phố Huế được giải phóng. Cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng bắt đầu ngày 28/3/1975 và đến ngày 29/3/1975, Đà Nẵng được giải phóng. Từ chiến thắng đó, ta đẩy mạnh tiến công giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung.
Cùng với đó, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo huy động nhân lực, vật lực tạo nên sức mạnh vượt trội giành chiến thắng. Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Ngày 01/4/1975, Bộ Chính trị gửi điện cho lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam về xúc tiến gấp kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định, lập Ban Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Sài Gòn. Bức điện nêu rõ: “Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 35% sinh lực địch, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt khoảng 40% các binh chủng kỹ thuật hiện đại, thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất hậu cần, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số dân vùng giải phóng lên gần 8 triệu”5. Ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. “Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu”. “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”6. Như vậy, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975.
Với quyết sách chiến lược của Bộ Chính trị, ngày 06/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, đã ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Ngày 09/4/1975, Bộ Chính trị có điện gửi các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục và các đồng chí lãnh đạo đang ở chiến trường về kế hoạch tiến công Sài Gòn với tinh thần chuẩn bị tốt nhất trên tất cả các hướng bảo đảm toàn thắng. Từ chiến thắng trên các chiến trường, Bộ Chính trị đã họp ngày 14/4/1975 để nghe Quân ủy Trung ương báo cáo về tình hình Mặt trận Sài Gòn và các phương hướng, chủ trương đề ra. Bộ Chính trị nhất trí với phương hướng, chủ trương ấy và “đồng ý Chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”7.
Từ vai trò lãnh đạo của Đảng, đã làm cho thế và lực của ta ngày càng mạnh, càng đánh càng thắng, làm cho quân đội và chính quyền Sài Gòn ngày càng thất bại, lục đục. Ngày 21/4/1975, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Ngày 22/4/1975, điện của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc nắm vững thời cơ, kịp thời phát động tổng tiến công và nổi dậy của quần chúng Sài Gòn - Gia Định: “Thời cơ để mở cuộc Tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị… Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng”8. Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu ngày 26/4/1975 và thắng lợi hoàn toàn lúc 11 giờ 30 ngày 30/4/1975, thành phố Sài Gòn được giải phóng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toàn thắng.
Những quyết sách của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thể hiện tầm cao trí tuệ và trách nhiệm của Đảng đối với đất nước và dân tộc. Đó cũng là sự phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, vừa kế thừa những di sản truyền thống của dân tộc, vừa phát triển độc đáo, sáng tạo với tinh thần tiến công liên tục, quyết thắng và chắc thắng. Sự thống nhất cao độ giữa quyết sách của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh với hành động trên các chiến trường, từng mặt trận và chiến dịch đã tạo nên sức mạnh to lớn quyết định thắng lợi. Sự sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường thể hiện tài thao lược của các đồng chí lãnh đạo, tướng lĩnh, chỉ huy bảo đảm hiện thực hóa những quyết định chiến lược của Đảng. Tập trung, thống nhất, trách nhiệm, kỷ luật, thần tốc, táo bạo là nét nổi bật trong lãnh đạo của Đảng bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng.
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 34, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 160.
2 - Sđd, Tập 34, tr. 232.
3 - Sđd, Tập 34, tr. 239.
4 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 35, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 192.
5 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 94 - 95.
6 - Sđd, Tập 36, tr. 95 - 96.
7 - Sđd, Tập 36, tr. 109.
8 - Sđd, Tập 36, tr. 167.


PHÁT HUY GIÁ TRỊ CHIẾN THẮNG 30/4/1975 TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY



Ngày 30/4/1975 đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gian khổ, ác liệt nhưng vô cùng vẻ vang của nhân dân ta. Đây là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; viết tiếp trang sử hào hùng trong chặng đường dựng nước và giữ nước qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng 30/4/1975 cách đây đã 45 năm nhưng chiến công lẫy lừng đó vẫn in đậm trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, bạn bè quốc tế và nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới; trở thành sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ (07/5/1954), Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: Miền Bắc được hòa bình, độc lập và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam, đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp, thực hiện dã tâm xâm lược, thiết lập chính quyền tay sai, ra sức đàn áp, tàn sát nhân dân và lực lượng kháng chiến, áp đặt chế độ thống trị bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Nam - Bắc là một nhà”, “miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, cả dân tộc ta tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh, gian khổ kéo dài suốt 21 năm ròng rã chống đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam đã xây dựng được đội quân chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: “Chiến tranh đơn phương” (1954 - 1960), “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965); “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ra miền Bắc (1965 - 1968). Phát huy tinh thần đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương (Việt Nam - Lào - Campuchia), quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu, làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ra miền Bắc của đế quốc Mỹ (1969 - 1973), tạo thế mạnh trên bàn đàm phán Pari. Đặc biệt, từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã chớp thời cơ chiến lược, tạo thế và lực hơn hẳn đối phương, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, làm tan rã hoàn toàn quân đội và chính quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc, khẳng định tầm vóc vĩ đại, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của cả dân tộc, đánh dấu bước ngoặt quyết định đưa nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, đó là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho dân tộc ta nhiều bài học vô giá, có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta hôm nay và các thế hệ mai sau. Thắng lợi đó là thành quả của nhiều nhân tố, trong đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố cơ bản, quan trọng. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Chính nhờ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã đưa ra được những quyết định sáng suốt và chính xác, trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước, tương quan lực lượng giữa ta và địch để xác định đúng thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đánh bại hoàn toàn đội quân của chính quyền Sài Gòn, giành thắng lợi triệt để trong thời gian ngắn nhất. Việc đưa ra những quyết định mang tính lịch sử thể hiện tài thao lược, thông minh, sáng tạo tuyệt vời của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Đường lối, chủ trương của Đảng phản ánh ý chí, khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử để nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng dân tộc, thống nhất non sông.
Chiến thắng 30/4/1975 xuất phát từ tinh thần khát khao độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất của toàn thể dân tộc, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang tầm thời đại; thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, ý chí “dòng máu Lạc Hồng”, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Đồng thời, khẳng định một chân lý: Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một dân tộc đất không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác - Lênin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng còn không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động: Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định; các nước lớn tiếp tục gia tăng can dự, cạnh tranh ảnh hưởng, với mức độ, quy mô khác nhau ở khu vực; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra, gây mất ổn định ở khu vực và trên thế giới. Các thách thức an ninh phi truyền thống, như: An ninh mạng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, ô nhiễm và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, buôn lậu ma túy, di cư bất hợp pháp, tội phạm xuyên quốc gia,… đang là những thách thức của các quốc gia trên thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, thực hiện “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, v.v.
Tình hình trên, đòi hỏi phải tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là vận dụng hiệu quả bài học kinh nghiệm của Chiến thắng 30/4/1975; tận dụng, tranh thủ thời cơ, xây dựng, phát triển đất nước. Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong đó, tập trung làm tốt một số nhiệm vụ giải pháp sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng.
Đây là điều kiện tiên quyết, động lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng…, coi đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo qua các giai đoạn cách mạng nhằm đưa đất nước ta vững bước trên con đường đã chọn. Cần nhận thức đầy đủ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ Nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Cùng với đó, cần tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong Nhân dân trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng; tập trung tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trước mắt, chúng ta cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tạo đợt sinh hoạt chính trị, phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình thực hiện, phải kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, lấy bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, suy thoái, tiêu cực, tệ nạn xã hội,... bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Qua đó, tập hợp lực lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh, tạo tiềm lực, cơ sở vật chất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa những thành quả vĩ đại của cách mạng, của Chiến thắng 30/4/1975, ngày nay, nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là tích cực chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là ở địa bàn biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đó là khát vọng chính đáng của toàn dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc của những năm tháng chiến tranh. Năm 2019, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, giành được những thành tựu nổi bật, đánh dấu sự phát triển toàn diện của đất nước trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, năm 2020, chúng ta sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như: Hạn hán, xâm nhập mặn, dịch tả lợn châu Phi chưa được xử lý dứt điểm; đặc biệt, dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona (COVID-19) diễn biến hết sức phức tạp, lan rộng ra toàn cầu.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong năm 2019, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục tận dụng tối đa cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo để đạt được kết quả tổng thể cao hơn. Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, trong đó chú trọng quy hoạch, thiết kế, xây dựng các công trình có tính “lưỡng dụng”, “ngầm hóa” các công trình giao thông, thủy lợi và công trình đô thị, nhất là ở địa bàn trọng điểm; thực hiện tốt chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; có chính sách hỗ trợ, bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt quy hoạch xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, bảo đảm phù hợp với các chiến lược, đề án về quốc phòng, an ninh và quy hoạch sử dụng đất quốc phòng; đồng thời, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, góp phần tạo thế đứng chân vững chắc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ba là, phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhân tố quan trọng làm nên Chiến thắng 30/4/1975 là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của toàn dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm, phát huy sức mạnh dân tộc và xác định đây là chủ trương xuyên suốt, nhất quán, sức mạnh nội sinh để làm nên chiến thắng. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy nội lực, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại ngày nay là tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc, như Bác Hồ từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”. Trên tinh thần đó, chúng ta phải thực sự mở rộng dân chủ, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, làm cho nhân dân luôn gắn bó với Đảng, với chính quyền, với Quân đội nhân dân. Việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết hiện nay phải gắn với bảo đảm các lợi ích, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của người dân; phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân, bảo đảm để nhân dân thật sự là chủ, làm chủ như Hiến pháp đã quy định.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Do đó, phải tập trung quán triệt, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, tận dụng tối đa các nguồn lực, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong đó, đối ngoại quốc phòng được xác định là một kênh quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhất là trong điều kiện Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và năm Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2020.
Bốn là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền tảng chính trị - tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân được phát huy lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị (khóa XII) về quốc phòng, an ninh; không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng vững mạnh toàn diện, ổn định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở; tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ cơ hội từ hội nhập để xử lý hiệu quả những vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh an toàn không gian mạng…, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Năm là, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng.
Tiếp nối truyền thống, kinh nghiệm của Chiến thắng 30/4/1975 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; tiếp tục phát huy bản chất cách mạng, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Toàn quân tập trung xây dựng vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, chấp hành nghiêm mệnh lệnh và chế độ sẵn sàng chiến đấu; làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, pháp luật về quân sự, quốc phòng; chủ động xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, ngăn chặn, xử lý chính xác, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, không để bị động, bất ngờ. Chú trọng kiện toàn biên chế tổ chức, theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, môi trường văn hóa, chấp hành pháp luật Nhà nước; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tham gia tích cực, có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới, nhất là trên địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; là lực lượng xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh, v.v. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn có mặt ở những nơi xung yếu, khó khăn, nguy hiểm, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và làm công tác dân vận,… góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó mật thiết quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, thiết bị quân sự hiện đại, nhằm tạo sức mạnh sẵn sàng đối phó với mọi cuộc chiến tranh xâm lược dưới bất kỳ hình thức nào. Thực hiện tốt công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế của dân tộc Việt Nam yêu hòa bình và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để chúng ta ôn lại và tự hào về trang sử vẻ vang, truyền thống hào hùng của dân tộc anh hùng, của Quân đội anh hùng; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn nữa về ý nghĩa, giá trị lịch sử của thắng lợi vĩ đại này, về công lao của Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Nhân dân anh hùng, sự hy sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ. Phát huy tinh thần và hào khí của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn.
Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA



Nhằm hạ thấp ý nghĩa và giá trị của Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhưng sự thật lịch sử luôn rõ ràng và chỉ có một, không thế lực nào có thể xuyên tạc.
Như đã thành thông lệ, từ sau năm 1975, vào dịp kỷ niệm Ngày chiến thắng 30 tháng 4 hằng năm, khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa chào mừng sự kiện lịch sử trọng đại này của đất nước, thì một số đài, báo và các trang mạng nước ngoài, vốn không có thiện cảm với chế độ chính trị hiện nay ở Việt Nam lại tổ chức các bài viết, bài phỏng vấn những kẻ chống cộng cực đoan ở hải ngoại, hoặc một vài kẻ “trở cờ” ở trong nước, để phủ nhận giá trị ngày 30/4/1975 – Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như xuyên tạc bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Lợi dụng ở trong nước xuất bản và phát hành bộ sách Lịch sử mới (vào tháng 8/2017) gồm 15 tập, trong đó không còn gọi quân đội Sài Gòn là “ngụy quân” và chính quyền Sài Gòn là “ngụy quyền”, những đối tượng nói trên ra sức xuyên tạc bản chất cuộc chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Họ cho rằng “đây chỉ là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn”, mà ở đó “miền Bắc xâm lược miền Nam”(!).
Cần khẳng định ngay rằng, cái lý sự cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn”, mà “bên thắng cuộc” là miền Bắc, còn “bên thua cuộc” là miền Nam, chỉ là thứ “lý sự cùn” của vài nhóm chống cộng nào đó, do ôm hận vì không còn được tận hưởng danh phận của kẻ làm tay sai cho ngoại bang, vẫn lập luận nhằm hạ thấp giá trị Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc Việt Nam và ngụy biện cho quãng đời làm tay sai cho ông chủ Mỹ. Điều đó không lòe bịp được những người có lương tri, tôn trọng sự thật.
Sự thật là, những dính líu của đế quốc Mỹ vào Việt Nam đã sớm xuất hiện từ những năm 50 của thế kỷ XX. Đến năm 1954, họ đã viện trợ tới 78% chi phí chiến tranh của người Pháp ở Đông Dương1; thậm chí Mỹ còn phác họa một kế hoạch ném bom nguyên tử xuống lòng chảo Điện Biên Phủ, nhằm cứu vãn sự thất bại khó tránh khỏi của thực dân Pháp. Khi không thành công trong việc dính líu gián tiếp, thì đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, lựa chọn giải pháp trực tiếp can thiệp xâm lược Việt Nam. Để thực hiện âm mưu đó, đại diện Chính phủ Mỹ đã không ký Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương (tháng 7/1954), dựa vào đó để họ không chấp nhận các điều khoản của Hiệp định Genève, xúc tiến kế hoạch “hất cẳng” Pháp, xâm chiếm miền Nam Việt Nam bằng chính sách thực dân mới. Tuy nhiên, trước thế và lực của chính quyền Sài Gòn (do Mỹ dựng lên) suy yếu đến mức không thể cứu vãn được nữa, thì từ những năm 60 của thế kỷ XX, Mỹ đã chính thức nhảy vào cuộc, với các chiến lược chiến tranh lần lượt được Nhà trắng áp dụng, là: Chiến tranh đặc biệt (1961 - 1965), Chiến tranh cục bộ (1965 - 1966) và Việt Nam hóa chiến tranh (1969 - 1973). Cùng với các chiến lược chiến tranh đó, đế quốc Mỹ còn phiêu lưu thực hiện chiến dịch vô nhân tính ném bom hủy diệt Thủ đô Hà Nội và miền Bắc Việt Nam bằng siêu pháo đài bay B.52, hòng đưa Hà Nội và miền Bắc Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá”. Để thực hiện các chiến lược chiến tranh đó, đế quốc Mỹ đã sử dụng trên 8 triệu tấn bom đạn, gần 80 triệu lít chất độc hóa học cùng những loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất lúc bấy giờ (trừ bom hạt nhân) và một lực lượng đông đảo quân viễn chinh (gồm quân Mỹ và quân của một số nước đồng minh). Riêng nước Mỹ, đã phải huy động tới 70% biên chế lục quân, 60% số lính thủy đánh bộ, 40% biên chế hải quân và 60% biên chế không quân, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ. Số quân Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam có lúc cao nhất đã lên đến hơn nửa triệu người; còn số thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã lên tới 6,5 triệu lượt người2.
Những con số trên cho thấy đây không phải là cuộc chiến của những người Việt Nam với nhau. Nhiều học giả phương Tây và chính khách Hoa Kỳ cũng thừa nhận đây là cuộc chiến của người Mỹ xâm lược Việt Nam và người Việt Nam chống lại sự xâm lược của người Mỹ. Trong cuốn sách Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ (xuất bản năm 1991 tại Mỹ), tác giả John Carlos Rowe và Rick Berg thẳng thắn chỉ ra: “Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương”3. Năm 2009, học giả John Prados (thuộc cục Lưu trữ an ninh quốc gia và Đại học G.Oasinhtơn) cho ra mắt độc giả Mỹ cuốn Lịch sử một cuộc chiến không thể thắng 1945 - 1975, cũng thừa nhận: cuộc chiến này, đối với người Mỹ là một sai lầm và không thể chiến thắng. Trong một cuộc họp báo ngay sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, Heinz Alfred Kissinger, cựu Ngoại trưởng Mỹ thừa nhận: “Chúng ta đã sai lầm khi biến Việt Nam thành một nơi thí nghiệm chính sách của chúng ta chứ không phải đối với chính sách của người Việt Nam. Tôi nghĩ rằng, có lẽ việc đưa các lực lượng quân sự Mỹ vào Việt Nam là biện pháp giải quyết tồi nhất, vì điều đó có nghĩa là đưa một yếu tố ngoại lai vào”. Còn tướng Maxwell D.Taylor, trước sự tiến công như vũ bão của quân Giải phóng miền Nam dọc ven biển miền Trung vào thượng tuần tháng 4 năm 1975, đã phải thốt lên rằng: “Tôi không thể giải thích nổi cuộc thảm bại của chúng ta. Đây là một trận Oa-téc-lô của Mỹ”. Sau ngày 30 tháng 4, ông này còn nói thêm: “Tất cả chúng ta đều góp phần của mình vào thất bại của Mỹ ở Việt Nam. Thật chẳng có gì là tốt đẹp cả”. Cố giáo sư Trần Chung Ngọc - cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa (người định cư ở Mỹ sau sự kiện 30/4/1975) đã thẳng thắn chỉ ra: “Ngày nay, lịch sử đã rõ ràng. Nhiều hồ sơ mật về cuộc chiến đã được giải mật. Với những hiểu biết mới về cuộc chiến thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954 là cuộc chiến chống xâm lăng của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên đầu dân Việt Nam, với sự hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của Mỹ… Còn cuộc chiến hậu Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ, Mỹ xâm lăng vì cái thuyết Domino sai lầm… Đây là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự kiện lịch sử chứ không xét theo cảm tính phe phái”4. Trong một bài viết khác, vị giáo sư này đã vạch trần bộ mặt tay sai của chính quyền Sài Gòn, khi nhấn mạnh: “Ai cũng biết là chế độ Ngô Đình Diệm cũng như miền Nam là do Mỹ dựng lên, không phải do người dân miền Nam bầu chọn hay muốn như vậy… Còn về những chế độ quân phiệt của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa thì chúng ta hãy đọc vài lời thú nhận của các vị lãnh đạo cao cấp nhất ở miền Nam, như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống Cộng. Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập; hay Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi; hay Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ: “Ông”Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng thực chất đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; còn Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Cao Văn Viên: Chúng ta không có trách nhiệm chiến tranh(!). Trách nhiệm chiến đấu là của người Mỹ. Chính sách đó do Mỹ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi5.
Những bằng chứng trên cho thấy: là những người trong cuộc, các quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn còn nhận thức được thân phận làm tay sai cho Mỹ và nhận ra cuộc chiến này là cuộc chiến của người Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam, thế mà một số người chống cộng cực đoan lại cố biện hộ cho Mỹ không phải là kẻ xâm lược và xuyên tạc cuộc chiến tranh này là nội chiến thì thật là lố bịch. Cần khẳng định rằng, cuộc chiến từ năm 1954 đến năm 1975 ở Việt Nam là cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Do đó, nếu có “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc” ở đây, thì cần phải nói rằng: toàn thể dân tộc Việt Nam là “bên thắng cuộc” và đế quốc Mỹ là “bên thua cuộc”, đúng như tuyên bố đầy ý nghĩa của cố Thượng tướng Trần Văn Trà trong cuộc gặp giữa ông (khi đó là Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định) với cựu Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh cùng nội các trước khi trả tự do cho họ, ngày 02-5-1975, rằng: “Giữa chúng tôi và các anh, không có ai được, ai thua, chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng”.
Lịch sử cuộc chiến đã lùi xa 45 năm, nhận thức đúng bản chất của cuộc chiến này sẽ cho phép mỗi người dân Việt Nam, dù trước đây đứng ở phía bên nào của cuộc chiến cũng có quyền tự hào về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc; đó cũng chính là một cách để đi tới sự hòa hợp dân tộc được thanh thản nhất. Nhân đây, xin nhắc lại cảm nghĩ của cố giáo sư Trần Chung Ngọc để thay cho lời kết bài viết này: “Có đi du lịch nhiều nơi trên thế giới mới thấy chiến thắng của Việt Nam đã được ngưỡng mộ như thế nào” và “Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào”6.
1 - Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị -- Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước -  Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 310.
2 - Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Thắng lợi và bài học - Nxb CTQG, H. 1995, tr. 312.
3 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040. php - Trần Chung Ngọc - 30 tháng tư và tôi - Từ kiến thức đến lập trường.
4 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040. php - Trần Chung Ngọc - 30 tháng Tư và tôi - Từ kiến thức đến lập trường.
5 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNs/TCNts065. php - Trần Chung Ngọc - Vài suy tư về ngày 30 tháng Tư.
6 - http://www.sachhiem.net/TCN/TCNs/TCNts065. php - Trần Chung Ngọc - Vài suy tư về ngày 30 tháng Tư.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...