Ngày
30/4/1975 đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài,
gian khổ, ác liệt nhưng vô cùng vẻ vang của nhân dân ta. Đây là thắng lợi vĩ
đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX do Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; viết tiếp trang sử hào hùng trong chặng đường
dựng nước và giữ nước qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam. Chiến
thắng 30/4/1975 cách đây đã 45 năm nhưng chiến công lẫy lừng đó vẫn in đậm
trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, bạn bè quốc tế và nhân dân tiến bộ yêu
chuộng hòa bình trên thế giới; trở thành sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ, động
viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Sau
thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ (07/5/1954), Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký
kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: Miền Bắc được hòa bình, độc
lập và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam, đế quốc Mỹ thay chân thực
dân Pháp, thực hiện dã tâm xâm lược, thiết lập chính quyền tay sai, ra sức đàn
áp, tàn sát nhân dân và lực lượng kháng chiến, áp đặt chế độ thống trị bằng chủ
nghĩa thực dân kiểu mới. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”,
“Nam - Bắc là một nhà”, “miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt
Việt Nam”, cả dân tộc ta tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy
sinh, gian khổ kéo dài suốt 21 năm ròng rã chống đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam
đã xây dựng được đội quân chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân
dân, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa
quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, đánh địch trên cả
ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng
ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; lần lượt đánh bại các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: “Chiến tranh đơn phương” (1954 - 1960), “Chiến
tranh đặc biệt” (1961 - 1965); “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh
phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ra miền Bắc (1965 - 1968). Phát
huy tinh thần đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương
(Việt Nam - Lào - Campuchia), quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu, làm thất
bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân lần thứ hai ra miền Bắc của đế quốc Mỹ (1969 - 1973), tạo
thế mạnh trên bàn đàm phán Pari. Đặc biệt, từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975,
quân và dân ta đã chớp thời cơ chiến lược, tạo thế và lực hơn hẳn đối phương,
tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, làm tan rã hoàn toàn
quân đội và chính quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến
thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc, khẳng định tầm vóc vĩ đại, thể
hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của cả dân
tộc, đánh dấu bước ngoặt quyết định đưa nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự
do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, đó là thắng lợi tiêu biểu của
lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên
các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa
đế quốc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho dân tộc ta
nhiều bài học vô giá, có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta hôm nay và các thế
hệ mai sau. Thắng lợi đó là thành quả của nhiều nhân tố, trong đó sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố cơ bản, quan trọng. Nguồn gốc của mọi nhân
tố ấy chính là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với
đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Chính nhờ sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã đưa ra được những quyết định
sáng suốt và chính xác, trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới,
trong nước, tương quan lực lượng giữa ta và địch để xác định đúng thời cơ lịch
sử, hạ quyết tâm chiến lược mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975, đánh bại hoàn toàn đội quân của chính quyền Sài Gòn, giành thắng lợi
triệt để trong thời gian ngắn nhất. Việc đưa ra những quyết định mang tính lịch
sử thể hiện tài thao lược, thông minh, sáng tạo tuyệt vời của Bộ Chính trị,
Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Đường lối, chủ trương
của Đảng phản ánh ý chí, khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc, là ngọn cờ
tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử để
nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng dân tộc, thống nhất non
sông.
Chiến
thắng 30/4/1975 xuất phát từ tinh thần khát khao độc lập, tự do, hòa bình,
thống nhất của toàn thể dân tộc, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang tầm thời
đại; thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, ý chí “dòng máu Lạc Hồng”, không bao giờ
khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Đồng thời, khẳng định một chân lý: Trong thời
đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một
dân tộc đất không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh
kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác - Lênin có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các
lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể
đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ.
Hiện
nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng còn không ít
khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động: Biển Đông
luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định; các nước lớn tiếp
tục gia tăng can dự, cạnh tranh ảnh hưởng, với mức độ, quy mô khác nhau ở khu
vực; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt
động khủng bố vẫn diễn ra, gây mất ổn định ở khu vực và trên thế giới. Các
thách thức an ninh phi truyền thống, như: An ninh mạng, an ninh nguồn nước, an
ninh lương thực, ô nhiễm và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai,
dịch bệnh, buôn lậu ma túy, di cư bất hợp pháp, tội phạm xuyên quốc gia,… đang
là những thách thức của các quốc gia trên thế giới. Các thế lực thù địch tiếp
tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, thực hiện “Diễn biến hòa bình”, thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” Quân
đội, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, v.v.
Tình
hình trên, đòi hỏi phải tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất
là vận dụng hiệu quả bài học kinh nghiệm của Chiến thắng 30/4/1975; tận dụng,
tranh thủ thời cơ, xây dựng, phát triển đất nước. Tiếp tục quán triệt và thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng: Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong đó, tập trung làm tốt một số
nhiệm vụ giải pháp sau:
Một là, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả
chủ trương, đường lối của Đảng.
Đây
là điều kiện tiên quyết, động lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta cần tiếp
tục quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ
Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; Chỉ thị số 35/CT-TW ngày
30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng…, coi đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta hoạch
định chủ trương, đường lối lãnh đạo qua các giai đoạn cách mạng nhằm đưa đất
nước ta vững bước trên con đường đã chọn. Cần nhận thức đầy đủ, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh
đạo của Ðảng; bảo vệ Nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế;
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để xây
dựng và phát triển đất nước. Cùng với đó, cần tăng cường đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, trong Nhân dân trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng; tập
trung tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị
quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đẩy mạnh
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn
với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trước
mắt, chúng ta cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công đại hội đảng
các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tạo đợt sinh hoạt chính trị, phong trào
hành động cách mạng sâu rộng trong cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Trong quá trình thực hiện, phải kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến
lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên quyết,
kiên trì đấu tranh, lấy bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng; giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh với các
biểu hiện quan liêu, tham nhũng, suy thoái, tiêu cực, tệ nạn xã hội,... bảo đảm
sự ổn định và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của các tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Qua đó, tập hợp lực
lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn
dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh, tạo tiềm lực, cơ sở
vật chất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế
thừa những thành quả vĩ đại của cách mạng, của Chiến thắng 30/4/1975, ngày nay,
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là tích
cực chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất
là ở địa bàn biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đó là khát vọng chính đáng của toàn
dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ
quốc của những năm tháng chiến tranh. Năm 2019, mặc dù phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức, nhưng Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu,
giành được những thành tựu nổi bật, đánh dấu sự phát triển toàn diện của đất
nước trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, năm 2020, chúng ta sẽ đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức, như: Hạn hán, xâm nhập mặn, dịch tả lợn châu Phi
chưa được xử lý dứt điểm; đặc biệt, dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của
virus corona (COVID-19) diễn biến hết sức phức tạp, lan rộng ra toàn cầu.
Trên
cơ sở những thành tựu đã đạt được trong năm 2019, toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân tiếp tục tận dụng tối đa cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động,
tích cực, năng động, sáng tạo để đạt được kết quả tổng thể cao hơn. Tiếp tục
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Triển khai đồng
bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân vững chắc, trong đó chú trọng quy hoạch, thiết kế, xây dựng các
công trình có tính “lưỡng dụng”, “ngầm hóa” các công trình giao thông, thủy lợi
và công trình đô thị, nhất là ở địa bàn trọng điểm; thực hiện tốt chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc phòng,
an ninh; có chính sách hỗ trợ, bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ gắn với
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt quy
hoạch xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030, bảo đảm phù hợp với các chiến lược, đề án về quốc phòng, an
ninh và quy hoạch sử dụng đất quốc phòng; đồng thời, tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội thực
hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế trên các địa bàn chiến
lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, góp phần tạo thế đứng chân
vững chắc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ba là, phát huy sức mạnh dân
tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Nhân
tố quan trọng làm nên Chiến thắng 30/4/1975 là sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết dân tộc, sức mạnh của toàn dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm, phát huy sức mạnh
dân tộc và xác định đây là chủ trương xuyên suốt, nhất quán, sức mạnh nội sinh
để làm nên chiến thắng. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư
tưởng, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân
tộc, phát huy nội lực, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước;
giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại ngày nay là tiếp nối truyền thống
quý báu của dân tộc, như Bác Hồ từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; thành công, thành công, đại thành công”. Trên tinh thần đó, chúng ta phải
thực sự mở rộng dân chủ, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tạo sự
đoàn kết, thống nhất cao giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, làm cho nhân dân luôn
gắn bó với Đảng, với chính quyền, với Quân đội nhân dân. Việc củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết hiện nay phải gắn với bảo đảm các lợi ích, quan tâm đến
nguyện vọng chính đáng của người dân; phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân
dân, bảo đảm để nhân dân thật sự là chủ, làm chủ như Hiến pháp đã quy định.
Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết
chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Do đó, phải tập trung quán triệt, thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm đa phương hóa, đa dạng
hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối
ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, tận dụng tối đa các nguồn lực, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều
kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Trong đó, đối ngoại quốc phòng được xác định là một kênh quan trọng trong công
tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhất là trong điều kiện Việt Nam là Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và năm Việt Nam đảm nhiệm vai
trò Chủ tịch ASEAN 2020.
Bốn là, tập trung xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân vững chắc, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nền tảng chính trị - tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh
của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân được phát huy lên tầm
cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt chủ
trương, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các nghị quyết, kết
luận của Bộ Chính trị (khóa XII) về quốc phòng, an ninh; không ngừng củng cố,
tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng vững mạnh toàn diện, ổn
định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân”
vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển,
đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các
cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương
chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng
“thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở; tạo nền tảng để xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý hiệu quả các
tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng,
an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mở rộng,
tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ cơ hội từ hội nhập để xử lý hiệu quả
những vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh an toàn không
gian mạng…, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Năm là, xây dựng Quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực
lượng chính trị tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của
Đảng.
Tiếp
nối truyền thống, kinh nghiệm của Chiến thắng 30/4/1975 trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Quân đội, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng,
binh chủng, lực lượng; tiếp tục phát huy bản chất cách mạng, truyền thống “Bộ
đội Cụ Hồ”, nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến
đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; thể hiện rõ vai trò nòng
cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Toàn quân tập trung xây dựng vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính
trị làm cơ sở, chấp hành nghiêm mệnh lệnh và chế độ sẵn sàng chiến đấu; làm tốt
công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định
đường lối, pháp luật về quân sự, quốc phòng; chủ động xây dựng, triển khai các
phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, ngăn chặn, xử lý chính
xác, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, không để bị động, bất ngờ. Chú trọng kiện
toàn biên chế tổ chức, theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; đẩy mạnh xây dựng chính
quy, rèn luyện kỷ luật, môi trường văn hóa, chấp hành pháp luật Nhà nước; gương
mẫu, đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tham gia tích cực, có hiệu quả
vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, xóa đói
giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới,
nhất là trên địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; là
lực lượng xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
cứu hộ cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh, v.v. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn có
mặt ở những nơi xung yếu, khó khăn, nguy hiểm, bảo vệ tính mạng, tài sản của
nhân dân và làm công tác dân vận,… góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó mật
thiết quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, củng cố niềm tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, cần đẩy mạnh
phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, thiết bị quân sự hiện đại,
nhằm tạo sức mạnh sẵn sàng đối phó với mọi cuộc chiến tranh xâm lược dưới bất
kỳ hình thức nào. Thực hiện tốt công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc
phòng, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao
vị thế của dân tộc Việt Nam yêu hòa bình và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng
trên trường quốc tế.
Kỷ
niệm 45 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để
chúng ta ôn lại và tự hào về trang sử vẻ vang, truyền thống hào hùng của dân
tộc anh hùng, của Quân đội anh hùng; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn nữa về ý
nghĩa, giá trị lịch sử của thắng lợi vĩ đại này, về công lao của Đảng quang
vinh, Bác Hồ vĩ đại, Nhân dân anh hùng, sự hy sinh to lớn của các anh hùng liệt
sĩ. Phát huy tinh thần và hào khí của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, ngày càng “đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn.
Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó
Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng