Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2020

PHÂN CHIA CHỦ NGHĨA MÁC THÀNH “CHỦ NGHĨA MÁC CÁCH MẠNG” VÀ “CHỦ NGHĨA MÁC XÂY DỰNG” - MỘT MƯU ĐỒ CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA MÁC




                                                                                        Tất Thắng
Chủ nghĩa Mác về bản chất là hệ thống tư tưởng khoa học, lôgic và hoàn chỉnh. Do đó, phân chia chủ nghĩa Mác thành “chủ nghĩa Mác cách mạng” và “chủ nghĩa Mác xây dựng” là một trong những hình thức chặt cụt chủ nghĩa Mác, một hình thức chống lại chủ nghĩa Mác hết sức tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch phản động.
          Trong đó, những người theo quan điểm này cho rằng, chủ nghĩa Mác truyền thống chỉ lấy cách mạng là chủ đề của mình, hiện nay trên thế giới đã từng xuất hiện các nước xã hội chủ nghĩa, cho nên chủ đề này của chủ nghĩa Mác đã không đủ nữa, cần tăng thêm chủ đề xây dựng, vì thế không chỉ cần có “chủ nghĩa Mác cách mạng” mà cần có cả “chủ nghĩa Mác xây dựng”.
Trên thực tế, việc phân chia chủ nghĩa Mác thành “chủ nghĩa Mác cách mạng” và “chủ nghĩa Mác xây dựng”, nói từ bất cứ một ý nghĩa nào sau đây cũng đều không khoa học, cũng không thể thành lập được. Từ bản chất của chủ nghĩa Mác mà nói, nó là cách mạng và phê phán. Bản chất hoặc thuộc tính này của chủ nghĩa Mác, không chỉ nói nó chỉ là học thuyết cách mạng chỉ đạo giai cấp vô sản xây dựng thế giới mới. V.I.Lênin có lúc cũng gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa cách mạng, điều đó vừa là nhấn mạnh bản chất của nó, vừa là để phản đối chủ nghĩa xét lại cắt xén tính tiên phong cách mạng của nó, chứ không phải nói chủ nghĩa Mác chỉ là chủ nghĩa Mác của thời kỳ cách mạng. Ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bản chất của chủ nghĩa Mác vẫn là cách mạng, phê phán. Cho nên không tồn tại hình thái “chủ nghĩa Mác xây dựng” độc lập đứng ngoài “chủ nghĩa Mác cách mạng”.
Mặt khác, xét về bản chất của chủ nghĩa Mác mà nói, cách mạng và xây dựng đều là đối tượng nghiên cứu và chủ đề nó phải giải quyết, vì thế không nghi ngờ gì trong nội dung lý luận của chủ nghĩa Mác đã bao hàm lý luận về cách mạng và lý luận về xây dựng. Chúng đều là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận quý báu của chủ nghĩa Mác, chứ không phải hình thái mới của lý luận, đứng độc lập ở ngoài chủ nghĩa Mác thống nhất.
Chính vì vậy, âm mưu và hành động phân chia chủ nghĩa Mác thành “chủ nghĩa Mác cách mạng” và “chủ nghĩa Mác xây dựng” là một trong những thủ đoạn hết sức thâm hiểm của các thế lực thù địch mà chúng ta cần cảnh giác và đập tan.


CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI LẬP V.I.LÊNIN VỚI C.MÁC



         Tất Thắng
 V.I.Lênin là người đã bảo vệ một cách cương quyết và triệt để nhất những quan điểm, tư tưởng, lý luận cơ bản có ý nghĩa thời đại của C.Mác, Ph.Ăngghen nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Đồng thời, không ngừng bổ sung, phát triển, làm sinh động, sâu sắc và từng bước hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Chính V.I.Lênin đã thực hiện một cách xuất sắc yêu cầu chủ yếu của phương pháp tư duy biện chứng: cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể. V.I.Lênin đã thực sự làm phong phú thêm ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác bằng những phát hiện mới - những phát hiện đó không chỉ mang tính chất rời rạc, cục bộ mà làm nằm trong một hệ thống hoàn chỉnh, chặt chẽ.
Thế nhưng các nhà mác học tư sản lại luôn lớn tiếng cho rằng, chủ nghĩa Lênin là một thứ lý luận hoàn toàn trái ngược, mâu thuẫn, đối lập với chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã làm mờ đi bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác, làm mất đi tư tưởng chân chính, thuần khiết ban đầu của C.Mác. Họ phê phán V.I.Lênin là đã không biết đến con người, mà chỉ say mê, tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, với sự tàn khốc và bạo lực, nội chiến, chiến tranh cách mạng. Họ cũng lên án V.I.Lênin là kẻ hơn ai hết đã đề xướng một cuộc đấu tranh không điều hòa về mặt ý thức hệ. Và vì thế họ cho rằng, sự phát triển chủ nghĩa Mác của V.I.Lênin đã đi theo giống như cái cách mà Ph.Ăngghen đã từng làm. Trong cuốn sách “Trong thực tế Mác đã nói gì?” (xuất bản năm 1968) để “kỷ niệm” 150 năm ngày sinh của Mác, phần tử xét lại nổi tiếng ở Áo khi đó là E.Phise sau khi nhai lại những luận điệu của bọn tư sản về chủ nghĩa Mác “nhân đạo”, hắn đã viết rằng: Cho đến nay đã từng có bốn loại hình của chủ nghĩa Mác. Đối với chúng ta, thì đã quá rõ ràng là trong dòng nước ngược của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, thỏa hiệp giai cấp, đầu hàng giai cấp đang tràn ngập các Đảng dân chủ - xã hội hồi đó.
Bên cạnh đó, thực tiễn cũng đã ghi nhận, sự xuyên tạc của R.Garôdi đối với V.I.Lênin có lẽ là một điển hình ít thấy về thái độ vô liên sỉ của một phần tử biến chất, phản bội. Nếu như vào năm 1964 trong cuốn “Các Mác” và năm 1966 trong cuốn “Chủ nghĩa Mác của thế kỷ XX”, y còn cho rằng V.I.Lênin là người đã hiểu đúng chủ nghĩa Mác với tư cách là “một phương pháp luận của sự sáng tạo lịch sử” (thực chất là nhằm che đậy quan điểm duy tâm chủ quan của y về tính chủ thể ), thì đến năm 1968 trong cuốn sách nhỏ “Lênin”, y lại cho rằng luận điểm của V.I.Lênin về một đảng vô sản kiểu mới được trình bày trong tác phẩm “Làm gì” là bắt nguồn từ Cauxky và là nguyên nhân sâu xa đã dẫn đến sự tha hóa năng lực sáng tạo lịch sử và quyền lực của quần chúng vào bộ máy quan liêu của Đảng, chăn dắt và điều khiển hoạt động của họ từ trên xuống.
Ngoài ra, còn xuất hiện một dạng khác của mưu toan tư sản và xét lại đem đối lập V.I.Lênin với C.Mác. Trong đó, bọn mác học tư sản và bọn xét lại nói rằng, dù cho có lấy sự phát triển về sau của C.Mác (tức là sau 1844) để hiểu chủ nghĩa Mác đi nữa thì cũng vẫn không thể nào tìm ra đường dây thống nhất của sự phát triển từ C.Mác đến V.I.Lênin. Bởi theo họ, ở C.Mác là “quyết định luật kinh tế”, là “sự bất lực của con người trước quy luật kinh tế có tính chất định mệnh”, còn ở V.I.Lênin lại là “ý chí luận”, là “ý muốn, nghị lực của con người có thể đạt tới mọi cái”.
Thật ra C.Mác và V.I.Lênin là những nhà tư tưởng vĩ đại đã sáng tạo ra và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Qua đó, lần đầu tiên đã giải quyết được một cách khoa học mối quan hệ giữa tất yếu và tự do, giữa khách thể và chủ thể, giữa quy luật khách quan và hoạt động có mục đích, có ý thức của con người, nhờ đó mà làm cho con người nhìn rõ phương hướng đạt tới sự tự do chân chính. Cái mới ở V.I.Lênin so với C.Mác là trên cơ sở các tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về tất yếu - tự do, ông đã vận dụng các tư tưởng đó vào thời đại cách mạng vô sản trực tiếp và nhất là sau khi giai cấp vô sản đã trở thành người chủ tập thể của xã hội. V.I.Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nhân tố chủ quan, của chủ thể. Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, chủ thể - tức là quần chúng nhân dân lại có điều kiện và khả năng to lớn để sáng tạo lịch sử để đẩy nhanh tốc độ phát triển của lịch sử như trong thời đại cách mạng vô sản và trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Toàn bộ hoạt động cách mạng sôi nổi, chiến đấu và xây dựng đang diễn ra khắp nơi trong thời dại chúng ta chứng minh rằng V.I.Lênin là bậc thầy trong việc vận dụng phép biện chứng để phát hiện ra cái mới xuất hiện trong cuộc sống.
Đưa ra sự đối lập tưởng tượng giữa một C.Mác của “quyết định luận kinh tế” với một V.I.Lênin “ý chí luận”, phải chăng các học giả tư sản và bọn cơ hội xét lại chỉ muốn chứng minh “sự đối lập” giữa C.Mác và V.I.Lênin? Ở đây, C.Mác đã được biến thành một đại biểu của chủ nghĩa duy vật kinh tế tầm thường, còn V.I.Lênin cũng đã được biến thành đại biểu của chủ nghĩa duy vật chủ quan.











Thứ Năm, 26 tháng 3, 2020

DẬP TẮT NGAY NHỮNG TIN ĐỒN ÁC Ý!



Những người “đứng mũi chịu sào” của TP Hà Nội luôn thấu hiểu rằng, phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả dịch Covid-19 trên địa bàn Thủ đô là góp phần bảo vệ “đầu não” Trung ương, bảo vệ “trái tim” của cả nước. Vì vậy, Hà Nội phải luôn chủ động thực hiện mọi biện pháp quyết liệt, hữu hiệu để giảm tới mức thấp nhất thiệt hại từ đại dịch nguy hiểm này.
Tối 19-3, cư dân mạng xôn xao bàn tán, thậm chí có người tỏ ra hoang mang lo lắng khi trên mạng xã hội (MXH) xuất hiện tin đồn TP Hà Nội sẽ thực hiện phong tỏa từ 24 giờ 19-3. Một trong những lý do xuất phát từ tin đồn này là có đối tượng lợi dụng ý kiến của lãnh đạo TP Hà Nội đưa ra khuyến nghị người dân trong thời điểm dịch Covid-19 đang bùng phát nên hạn chế ra đường khi không cần thiết, không tụ tập đông người ở nhà hàng, vũ trường, quán cà phê… nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe, gia đình và cộng đồng.
Trước tin đồn thất thiệt đó, sáng qua (20-3), trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Việt Nam, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung, Trưởng ban chỉ đạo công tác phòng, chống dịch Covid-19 TP Hà Nội chính thức bác bỏ thông tin trên; đồng thời khẳng định Hà Nội đang kiểm soát tốt các diễn biến của dịch Covid-19. Những thông tin có liên quan đến dịch bệnh đều được Ban chỉ đạo của thành phố cập nhật và thông tin thường xuyên, liên tục, công khai, minh bạch để mọi người dân được biết và chung tay góp sức cùng với các cấp chính quyền chủ động phòng, chống dịch. Thành phố tiếp tục thực hiện quyết liệt các biện pháp tối ưu để bảo đảm an toàn sức khỏe và tính mạng của người dân; giảm đến mức tối đa sự lan truyền của dịch trên địa bàn; bảo đảm đủ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, hàng hóa cho người dân Thủ đô trong mọi tình huống.
Việc người đứng đầu chính quyền Thủ đô kịp thời lên tiếng bác bỏ tin đồn phong tỏa Hà Nội là rất kịp thời, đúng lúc, được dư luận hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Động thái này thêm một lần khẳng định, Đảng bộ, chính quyền và các cơ quan, lực lượng chức năng của Hà Nội đã, đang và sẽ làm hết sức mình vì sự an toàn, sức khỏe, tính mạng của nhân dân. Hơn ai hết, những người “đứng mũi chịu sào” của thành phố luôn thấu hiểu rằng, phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả dịch Covid-19 trên địa bàn Thủ đô là góp phần bảo vệ “đầu não” Trung ương, bảo vệ “trái tim” của cả nước. Vì vậy, Hà Nội phải luôn chủ động thực hiện mọi biện pháp quyết liệt, hữu hiệu để giảm tới mức thấp nhất thiệt hại từ đại dịch nguy hiểm này.
Những ngày qua, công luận đã nhiều lần lên tiếng, bóc mẽ những đối tượng đưa tin giả, tin sai sự thật, tung tin thất thiệt về dịch Covid-19 trên MXH khiến nhiều người dân hoang mang, gây bất ổn tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tính đến ngày 14-3, cơ quan chức năng trong cả nước đã xác minh, làm việc với 654 trường hợp đưa tin sai sự thật, xử phạt hành chính hơn 146 đối tượng. Trong số đó, Công an TP Hà Nội đã lập hồ sơ xử lý 44 đối tượng có hành vi đăng tin, bài sai sự thật về dịch Covid-19 trên MXH, xử phạt hành chính gần 200 triệu đồng. Như vậy, tỷ lệ đối tượng trên địa bàn Hà Nội tung tin thất thiệt bị xử phạt chiếm gần 30% số đối tượng vi phạm trong cả nước. Con số này phần nào cho thấy Hà Nội là “mảnh đất màu mỡ” cho nhiều đối tượng bất chấp lương tâm, đạo lý, pháp luật để phao tin đồn nhảm về dịch bệnh, làm vẩn đục môi trường thông tin, gây bất an lòng người và phân tâm dư luận xã hội.
Có thể nhiều đối tượng tung tin giả, tin sai sự thật trên MXH chỉ nhằm câu like, câu view, thích được nhiều người biết đến để được nổi tiếng theo kiểu “đốt đền”; cũng có kẻ cố ý phao tin thất thiệt nhằm lôi kéo, kích động “tâm lý đám đông” khiến nhiều người phải đổ xô đi mua sắm, tích trữ hàng hóa rồi tranh thủ trục lợi. Nhiều chuyên gia tâm lý cho rằng, việc hàng nghìn người dân sáng 7-3 kéo nhau ùn ùn đến các chợ, cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại để mua sắm, tích trữ lương thực, thực phẩm, gây ra cảnh náo loạn chưa từng thấy ở nhiều địa điểm kinh doanh là có “bàn tay vô hình” của những kẻ đầu cơ, trục lợi. Thậm chí có cả đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn lợi dụng thời điểm dịch Covid-19 đang hoành hành để tung tin thất thiệt nhằm chống phá sự lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ, chính quyền và các cơ quan chức năng TP Hà Nội.
Dù có động cơ, mục đích, lý do gì, việc tung tin giả, sai sự thật trong thời điểm dịch bệnh hiện nay đều phải phê phán kịch liệt và xử lý kiên quyết, triệt để những đối tượng vi phạm. Như nhiều người từng nhận định, virus gây ra dịch Covid-19 rất nguy hại, nhưng cũng không nguy hại bằng những virus tin giả trên MXH do tốc độ lây lan của nó khủng khiếp gấp bội lần virus SARS-CoV-2.
Trong hoàn cảnh đất nước gặp thiên tai, dịch bệnh, trách nhiệm của mỗi chúng ta không dừng lại ở việc đồng lòng đấu tranh, lên án, tẩy chay những virus tin giả đang hằng giờ, hằng ngày xuất hiện tràn lan trên MXH mà cần phải đề cao ý thức, bổn phận, nghĩa vụ công dân trong việc tiếp nhận, sàng lọc, thu nạp những thông tin trung thực, tích cực, lành mạnh, nhân văn trên không gian mạng. Mặt khác, để góp phần thắng lợi trong “cuộc chiến” đẩy lùi dịch Covid-19, mọi người, trước hết là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải trở thành những “chiến sĩ thông tin” làm tốt vai trò chia sẻ, nhân rộng, lan truyền những tin tức chính thống, tin cậy, chính xác từ Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế, các cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm, góp phần làm cho những thông tin tốt, thông tin tích cực có khả năng chi phối, lấn át những thông tin xấu, thông tin tiêu cực.   
 “Cuộc chiến” phòng, chống đại dịch Covid-19 ở nước ta nói chung, ở Hà Nội nói riêng đang vào thời điểm cam go, quyết liệt. Từ những kết quả bước đầu đã đạt được, cùng với những giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ, sáng tạo, sát tình hình thực tế, chúng ta đã, đang kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh và có đủ khả năng, nguồn lực, kinh nghiệm để chiến đấu với “giặc Covid-19”. Do vậy, bên cạnh sự nỗ lực vào cuộc khẩn trương, quyết liệt của các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở, sự đồng lòng, chung tay góp sức của mỗi người dân chính là tạo nên sức mạnh tổng hợp để biến thành “vũ khí” sắc bén nhằm sớm loại trừ dịch bệnh này ra khỏi đời sống xã hội.

SỰ LỖI THỜI VÀ GIÀ NUA CỦA MỘT “CON CHÍP NHÂN QUYỀN”



Những ai am hiểu tình hình Việt Nam khi nhìn vào “Báo cáo nhân quyền quốc gia năm 2019” mà Bộ Ngoại giao Mỹ mới công bố, chắc hẳn đều có cảm giác chung: Phi lý và kỳ cục. Phi lý là bởi nội dung của bản báo cáo này rõ ràng đi ngược với thực tế. Kỳ cục vì cuối cùng đây vẫn chỉ là tập hợp của những nhận xét thiếu thiện cảm mang tính cố hữu, để rồi kết luận với điệp khúc cũ: Việt Nam vi phạm nhân quyền.
“Báo cáo nhân quyền quốc gia năm 2019” mà Bộ Ngoại giao Mỹ công bố ngày 11-3 vừa qua gồm 7 phần, đề cập tới tình hình Việt Nam, trong đó đưa ra những chỉ trích vô căn cứ về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Đáng chú ý, báo cáo này cho rằng vấn đề nghiêm trọng nhất ở Việt Nam là hạn chế các quyền tự do, bao gồm tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do internet và tự do tôn giáo. Đây là những luận điệu không mới, trước hết bởi nó vẫn sa lầy trong cách nhìn nhận “không trúng và không đúng” sự thật. Dù đã “xuống tông” so với những báo cáo trước đây và thừa nhận những thành tựu bảo vệ quyền con người của Việt Nam, song báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam 2019 của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn chứa đựng những nhận định thiếu khách quan, được chắp vá bằng những thông tin không chính xác, phản ánh sai lệch về tình hình thực tế.
Trước hết, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là những vấn đề trọng tâm trong triển khai Hiến pháp năm 2013, trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội cũng như trong thực tiễn đời sống ở Việt Nam. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng đã bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều chính sách, văn bản luật với mục tiêu mọi người dân được thụ hưởng đầy đủ quyền con người, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp.
Chẳng hạn về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng, với 16 tôn giáo và 13,2 triệu tín đồ tôn giáo. Quyền tự do tôn giáo chính đáng được nhà nước bảo hộ, các tín đồ tôn giáo được tự do thực hiện các nghi lễ tôn giáo, tự do thực hành các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật. Mỗi năm, tại Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo được tổ chức. Tính từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã 3 lần tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc. Mỗi lần như vậy đều có sự tham gia của hàng nghìn chức sắc, lãnh đạo các giáo hội, nhà nghiên cứu, học giả, hạng vạn tín đồ Phật tử đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Chính phủ Việt Nam cũng tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách, xuất bản các tạp chí liên quan tới tôn giáo, từ đó có thể bày tỏ đức tin tôn giáo của mình. Việc thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc hơn để người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.
Ấy vậy mà, một lần nữa sự thật lại bị xuyên tạc, bóp méo!
Hay như trong lĩnh vực thông tin truyền thông, Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi, ban hành nhiều văn bản luật, như: Luật Báo chí sửa đổi (2016); Luật Tiếp cận thông tin (2013); Luật An ninh mạng (2018)… Ngoài ra còn có nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (2018). Những nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy quyền sử dụng internet cũng được thế giới ghi nhận khi luôn đứng trong nhóm các quốc gia có lượng người sử dụng internet cao trên thế giới. Theo thống kê gần nhất thì hiện nay số người Việt Nam sử dụng mạng xã hội (MXH) facebook lên tới hơn 60 triệu người. Cùng với đó, hệ thống báo chí phát triển mạnh mẽ, với sự ra đời của nhiều tờ báo, tạp chí cả bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Người dân thậm chí có thể dễ dàng tiếp cận với đủ loại thông tin từ các hãng thống tấn, báo chí lớn trên thế giới, như: Reuters, Kyodo, AFP, NHK… ngay trong chính ngôi nhà của mình. Chỉ riêng những ví dụ đó đủ cho thấy, cáo buộc mà Bộ Ngoại giao Mỹ nêu trong Báo cáo nhân quyền 2019 rằng Việt Nam hạn chế quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet là hoàn toàn vô căn cứ và phi lý, không phản ảnh đúng hiện thực sinh động tại Việt Nam.
Ngày nay, báo chí là công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân, là diễn đàn ngôn luận của các tổ chức chính trị-xã hội, nhân dân Việt Nam. Internet nói chung, MXH nói riêng cũng dần trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu-thứ vũ khí sắc bén của những người dùng thông minh, là nơi để họ đóng góp tiếng nói xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, chung tay bảo vệ những người yếu thế. Không ít những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược đạo đức và lối sống của người Việt Nam, như: Tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền, kinh doanh bất hợp pháp, cướp của, bảo kê... cho đến lối sống vô cảm, lai căng, sùng ngoại... đã bị các “tín đồ thường trực” trên mạng phanh phui, lên án. Có thể nói, đó thực sự là tự do ngôn luận của những người thông thái và trách nhiệm.
Tuy nhiên, “thế giới ảo” đang vươn mình với con dao hai lưỡi. Internet và MXH nhiều khi lại tiếp thêm công cụ cho những kẻ đã và đang có âm mưu chống lại Nhà nước Việt Nam, làm tổn thương các quyền và lợi ích của nhân dân Việt Nam. Thực tế cho thấy, ngay cả những quốc gia lâu nay luôn ra rả về tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng không ít lần trở thành nạn nhân của sự tự do internet quá trớn, của những thông tin sai sự thật trên MXH. Nói vậy để thấy rằng, dù là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận hay quyền gì đi nữa cũng cần đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm, luôn phải nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật, trước hết là nhằm ngặn chặn kẻ xấu xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội cũng như quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người khác. Ở Việt Nam, sự ra đời của Luật An ninh mạng cũng không nằm ngoài mục đích ấy.
Còn những kẻ đòi hỏi “nhân quyền hoàn hảo” trên internet, thực chất chỉ có thể là những kẻ sẵn sàng phá rào luật pháp, sự ổn định của đất nước cũng như những chuẩn mực đạo đức và văn hóa.
Bàn về nhân quyền, cũng chẳng cần lớn tiếng rao giảng bằng những câu từ “đao to búa lớn” mà hãy nhìn vào hành động của Chính phủ và người dân Việt Nam khi đang dồn mọi nỗ lực phòng, chống dịch Covid-19 trong suốt những ngày qua. Trong cuộc chiến ấy, cùng với sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, với tinh thần sẵn sàng hy sinh một số lợi ích kinh tế, nhưng “không để ai bị bỏ rơi, không ai bị bỏ lại phía sau”, còn có sự tham gia của toàn quân, toàn dân và các lực lượng chức năng. Không khó để có thể tìm thấy trên MXH hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam dãi gió dầm mưa trong rừng để nhường doanh trại, nhường chăn ấm cho các công dân thực hiện cách ly; cũng khó ai có thể quên, khi Chính phủ quyết định đưa máy bay đến vùng tâm dịch Vũ Hán (Trung Quốc) để đón công dân về nước, rồi lại quyết định cấp kinh phí bảo đảm ăn uống cho người cách ly (trong đó có cả những người nước ngoài); khám, chữa bệnh miễn phí cho các trường hợp không may nhiễm bệnh; rồi hình ảnh các văn nghệ sĩ, doanh nhân... tích cực quyên tiền, vật chất cùng góp sức với Chính phủ chống dịch; các chủ khách sạn, khu nghỉ dưỡng tự nguyện biến nơi kinh doanh của mình thành các điểm cách ly miễn phí. Với người dân, họ thể hiện trách nhiệm của mình bằng cách tuân thủ các quy định về phòng, chống dịch, phê phán những hành động trục lợi, “thừa nước đục thả câu” trong giai đoạn cả nước đang “chống dịch như chống giặc”. Tất cả những việc làm trên đang diễn ra tại Việt Nam-điều mà nhiều quốc gia trên thế giới chưa làm được. Những hình ảnh sinh động và thực tế đó là sự hiện thân về nỗ lực cao độ của cả đất nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền sống-quyền cao nhất của con người?
Cũng cần phải nói thêm rằng, người dân Việt Nam và cả du khách nước ngoài đồng lòng, chung sức chống dịch bởi họ đều cảm nhận rõ trong thời điểm nước sôi lửa bỏng này, họ được chăm sóc với những điều kiện tốt nhất có thể. Tính mạng và sức khỏe của họ và những người xung quanh được Chính phủ và toàn xã hội ưu tiên hàng đầu. Sự thật như vậy, vì cớ gì mà không thừa nhận?
Một điều cần nói rõ nữa là: Báo cáo nhân quyền Việt Nam 2019 không chỉ vi phạm quy định về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác đã được đề cập trong Hiến chương Liên hợp quốc mà nguy hại hơn nó có thể tiếp tục trở thành cái cớ để các thế lực cơ hội chính trị, thù địch với Việt Nam, các tổ chức phản động tìm cách cản trở bước phát triển chung của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Để cho ra đời một chiếc điện thoại ưu việt và theo kịp thời đại, các hãng công nghệ của Mỹ luôn phải tìm tòi phát triển những con chíp có tốc độ xử lý nhanh nhất, mạnh nhất. Báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng vậy, rất cần cách nhìn nhận sát với những bước phát triển ở Việt Nam thay vì tiếp tục dựa vào đánh giá chậm chạp từ một “con chíp nhân quyền” đã quá già nua và lỗi thời.

Thứ Năm, 19 tháng 3, 2020

“VI-RÚT PHẢN ĐỘNG” MỘT LOẠI VI-RÚT CÒN NGUY HIỂM HƠN CHÚNG MỚI CỦA VI-RÚT CORONA (nCoV)



Đại Thắng
Dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi-rút Corona (nCoV) gây ra đã, đang hoành hành diện rộng, diễn biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống xã hội trong nước cũng như toàn cầu. Hầu hết những người có lương tri chân chính không chỉ riêng ở Việt Nam mà các nước khác trên thế giới đều không mong muốn thiên tai, dịch bệnh xảy ra, vì đây là những thảm họa kéo theo những hệ lụy, hậu quả khôn lường. Nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh Đảng, Nhà nước, chính phủ, các bộ ban ngành đang thể hiện sự quyết tâm, đồng lòng đồng sức chống dịch bệnh, bước đầu kiểm soát tốt dịch, không để lây lan trên diện rộng, 16 bệnh nhân nhiễm bệnh đã được điều trị khỏi, đạt được kết quả đáng ghi nhận, Việt Nam được thế giới đánh giá cao.
Trong khi Việt Nam đã, đang thể hiện sự nỗ lực vượt bậc để cùng cộng đồng thế giới kiên quyết ngăn chặn, kiểm soát, đẩy lùi và giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại do dịch COVID-19 gây ra, thì vẫn có những tiếng nói lạc lõng, những luận điệu xảo trá, nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng của Việt Nam; một số cơ quan truyền thông nước ngoài vốn thiếu thiện chí với Việt Nam lại có những cái nhìn phiến diện, lệch lạc về công tác phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam. Hơn nữa, bên cạnh những thông tin chính thống trên mạng xã hội lại xuất hiện rất nhiều thông tin phản ánh sai sự thật một cách rùng rợn gây nhiễu loạn, xáo trộn dư luận xã hội, tạo tâm lý hoang mang về dịch bệnh.Những trang tin này “tiền hô hậu ủng” cho một số đối tượng bất đồng chính kiến, cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc tình hình chống dịch ở Việt Nam. Chúng đang được xem là một loại vi-rút gây dịch bệnh không hề mới nhưng còn nguy hiểm hơn chủng mới vi-rút Corona (nCoV) nếu như chúng ta không biết nhận diện, đấu tranh, bài trừu nó.
Do đó, mọi người dân phải biết sàng lọc thông tin, lựa chon các nguồn tin tin chính thống, không chỉ nâng cao ý thức trong phòng chống dịch bệnh do chủng mới của vi-rút Corona (nCoV) gây ra mà còn đấu tranh với  loại “vi-rút phản động” đang ra sức chống phá, xuyên tạc những nỗ lực, kết quả của chúng ta.

CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU LỢI DỤNG DỊCH BỆNH ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM



Dịch viêm đường hô hấp cấp do Covid-19 gây ra được xác định là một dịch bệnh nguy hiểm. Chính vì vậy, ngay khi dịch bệnh được phát hiện, toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta đã vào cuộc để phòng, chống. Thực tế chứng minh, việc xử lý dịch bệnh của Việt Nam đến nay đã đạt được những kết quả rất tích cực.
Tuy nhiên, nhiều đối tượng đã lợi dụng dịch bệnh để lan truyền các thông tin sai lệch, gây ra tâm lý hoang mang trong dư luận. Đặc biệt, trên trang mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức chống đối như Việt Tân, Chân trời mới media, Hội Anh em dân chủ, Điếu Cày… đang lan truyền nhiều bài viết có nội dung sai lệch về tình hình dịch Covid-19  cũng như công tác phòng, chống dịch bệnh Nhà nước ta. 
Những thông tin được đưa ra mang tính quy chụp, một chiều, phi khoa học nhưng đã có những tác động tiêu cực đối với xã hội; thể hiện sự vô lương tâm, coi thường pháp luật của những kẻ núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”. Một số dạng thông tin xuyên tạc sai sự thật được các đối tượng đưa ra gồm:
Thứ nhất, lợi dụng vấn đề liên quan đến đóng cửa biên giới với Trung Quốc để xuyên tạc vấn đề chủ quyền của Việt Nam.
Trung Quốc được xác định là nơi phát sinh dịch Covid-19. Trên mạng xã hội, nhiều đối tượng đang kêu gào đóng cửa biên giới với Trung Quốc ngăn chặn tình hình dịch bệnh. Các đối tượng đưa ra luận điệu nếu không đóng cửa biên giới sẽ khiến chúng ta luôn rơi vào thế bị động đối phó và không tạo ra được một phòng tuyến ngăn chặn dịch bệnh lây lan một cách hiệu quả.
Liên quan đến vấn đề này, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho rằng: Chúng ta có lẽ chưa nên đặt vấn đề đóng cửa biên giới vì tình hình chưa đến mức đó. Việc không đóng cửa biên giới với Trung Quốc không đồng nghĩa với việc chúng ta để mặc, không kiểm soát tình hình dịch bệnh. Thực tế, chúng ta đang áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp để phòng ngừa dịch bệnh như: hạn chế đi lại giữa hai bên, hủy toàn bộ các chuyến bay đã cấp phép và dừng cấp phép chuyến bay mới cho các hãng hàng không khai thác giữa Việt Nam và Trung Quốc, ngưng cấp visa cho hành khách Trung Quốc, tăng cường quản lý hoạt động tại khu vực cửa khẩu, tiến hành cách ly, theo dõi chặt chẽ những người từ Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam… 
Và cũng cần nói thêm, hiện nay hàng hoá nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc là rất lớn. Nếu đóng cửa biên giới cũng đồng nghĩa với việc thương mại hai bên bị gián đoạn. Dù chúng ta vẫn xác định sẽ chấp nhận hy sinh về kinh tế để phòng, chống dịch bệnh, tuy nhiên, trong điều kiện hiện tại, việc đóng cửa biên giới là chưa thực sự cần thiết.
Vậy nhưng, các đối tượng tiến hành xuyên tạc bản chất vụ việc, cho rằng Việt Nam “không thể” và “không dám” đóng cửa biên giới với Trung Quốc. Thâm độc hơn, các đối tượng này còn vẽ ra thông tin cho rằng chính quyền Việt Nam “xem thường sức khoẻ người dân”. Và cuối cùng, các “nhà dân chủ mạng” này cũng không ngần ngại đưa ra tuyên bố Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc, đánh mất chủ quyền quốc gia vào Trung Quốc nên không thể đóng cửa biên giới. Đây là những thông tin suy diễn, quy chụp độc hại.
Thứ hai, xuyên tạc tình hình thực tiễn dịch bệnh.
Trước tình hình của dịch bệnh, chúng ta đã có những giải pháp đồng bộ để phòng, chống dịch bệnh, không để xảy ra tình trạng lây lan trên diện rộng. Theo thông báo của Bộ Y tế, chúng ta đã phân lập thành công chủng virus Corona mới. Đây là một tiền đề có ý nghĩa quan trọng phục vụ các giai đoạn tiếp theo.
Đại diện của WHO cũng đánh giá cao nỗ lực cũng như các kết quả tích cực mà Việt Nam đạt được. Vậy nhưng, với ý định tạo ra “bóng ma” khiến dư luận hoảng sợ, các đối tượng tô vẽ, đưa ra nhiều thông tin lệch lạc về tình hình dịch bệnh. Các đối tượng cho rằng Việt Nam đang cố tình che giấu số trường hợp bị mắc bệnh trên thực tế, việc Việt Nam tuyên bố chữa trị thành công cho một số trường hợp bị mắc Covid-19 chỉ là hành động trấn an dư luận, “đánh lừa” người dân.
Qua ngòi bút của mình, các đối tượng thổi phồng, xuyên tạc tình hình dịch bệnh ở Việt Nam “đã vô cùng nghiêm trọng”, số trường hợp bị mắc bệnh đã lên đến hàng ngàn ca, số người tử vong do dịch bệnh lớn. Đồng thời, các đối tượng cũng cho rằng Việt Nam sẽ lãnh đủ thiệt hại do dịch bệnh gây ra. Các “nhà dân chủ” tích cực sử dụng chiêu bài “nước mắt thằng hề” để chống phá đất nước, tạo ra sự bất ổn trong xã hội. Đằng sau những luận điệu gian trá “vì nhân dân” chính là sự chống đối chính quyền vô cùng quyết liệt.
Thứ ba, xuyên tạc chức năng, vai trò của các cơ quan nhà nước.
Như đã đề cập ở trên, hiện nay nhiều người đang đưa ra các tin đồn thất thiệt, thiếu kiểm chứng về dịch bệnh, gây ra sự hoang mang trong quần chúng nhân dân. Liên quan đến vấn đề này, cơ quan Công an, Sở Thông tin và Truyền thông của nhiều địa phương đã tiến hành làm việc, xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp đưa tin sai sự thật. 
Đây là biện pháp quyết liệt của các đơn vị chức năng liên quan đến việc giải quyết nạn đưa thông tin giả. Hành động này của cơ quan chức năng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng. Vậy nhưng, với kiểu “bới bèo ra bọ”, bất chấp sự thật, các “nhà dân chủ”, “nhân quyền” đổi trắng thay đen, xuyên tạc, hướng lái bản chất vụ việc. Các đối tượng trắng trợn vu khống việc chính quyền xử lý những người đưa tin giả như trên là hành động mang tính “bịt miệng” người dân.
Mục đích của các đối tượng chống đối khi đưa ra các thông tin lệch lạc, thiếu kiểm chứng, xuyên tạc như trên là nhằm gây ra tâm lý hoang mang, bất ổn trong xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Việc các đối tượng xuyên tạc thông tin như trên là hành động vô lương tâm, coi thường pháp luật, người dân cần cảnh giác, tỉnh táo nhận diện phòng tránh.


NNHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG “XÃ HỘI DÂN SỰ” ĐỂ CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA




Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nước ta có gần 18 tổ chức công đoàn ngành, 400 hội, hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực xã hội[1]. Về bản chất, xã hội dân sự (XHDS) là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý vì mục tiêu khẳng định quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước.
Nhằm chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thời gian qua, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng XHDS để thực hiện “diễn biến hòa bình”; trong đó, lợi dụng các quyền cơ bản của con người như: Quyền lập hội, quyền công dân, quyền tự do báo chí..., các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với phần tử thoái hóa, biến chất ở trong nước dùng XHDS để gây sức ép, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; đòi Nhà nước phải đảm bảo tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực xã hội.
Các thế lực thù địch coi việc hình thành XHDS độc lập về chính trị là điều kiện, tiền đề cho việc đảm bảo quyền con người, cổ súy tự do cá nhân thông qua thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình… Chúng đặc biệt cổ súy quyền bày tỏ chính kiến không giới hạn và liên kết hình thành các tổ chức “độc lập” tham gia vào đời sống cộng đồng, thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; lập các hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích thu hút được các tầng lớp, thành phần xã hội tham gia như: “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”… Thông qua các diễn đàn trực tuyến, mạng xã hội để công khai tổ chức, tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia.
Mặc dù hoạt động theo phương thức tự phát nhưng các hội nhóm này luôn có sự liên kết nhau và câu kết chặt chẽ với các tổ chức phản động bên ngoài để phát triển lực lượng, hình thành các hội nhóm hoạt động “bất bạo động” tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, tự trị, xuyên tạc lịch sử, gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng với Đảng, Nhà nước; tạo tiền đề tập hợp, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức chính trị đối lập.
Các thế lực thù địch còn tìm cách tuyệt đối hóa tính độc lập tương đối của XHDS nhằm từng bước làm cho các tổ chức XHDS trở thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta; ra sức tuyên truyền XHDS là hiện thân của tự do, dân chủ và những gì tốt đẹp trong xã hội; đả kích, xuyên tạc, phủ nhận bản chất nhà nước XHCN, coi đó là mô hình nhà nước độc tài, toàn trị, không có khả năng điều hành xã hội, không phát huy dân chủ vì thiếu XHDS.
Các thế lực thù địch tìm cách xoáy sâu, thổi phồng những tiêu cực, hạn chế của mặt trái nền kinh tế thị trường ở nước ta, những thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tệ nạn tham nhũng, hối lộ… nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta.
Với lập luận, XHDS là “đối quyền của quyền lực nhà nước” để tập trung đòi thực hiện trách nhiệm xã hội, chia sẻ quyền lực chính trị cho XHDS; thực chất là cổ vũ tư tưởng coi nhà nước đối lập với XHDS; kích động thái độ vô chính phủ, lấy phá hoại thay cho xây dựng hòng từng bước đưa XHDS thành lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước.
Ở bên ngoài, một số tổ chức đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, bồi dưỡng năng lực cho các tổ chức XHDS tại Việt Nam nhằm tác động chuyển hóa và phát triển các kênh “phản biện xã hội”, hỗ trợ các tổ chức XHDS tham gia quá trình hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát thực hiện.
Các thế lực thù địch còn tìm cách xâm nhập, tác động, chuyển hóa các tổ chức chính trị, xã hội ở nước ta hòng “phi chính trị hóa” các tổ chức này, từng bước biến thành các tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây.
Thông qua thúc đẩy phát triển XHDS để tác động hình thành trong nội bộ các cơ quan, tổ chức chính trị; đặc biệt là các cơ quan dân cử xu hướng hoạt động “độc lập”, thậm chí “đối lập” với sự lãnh đạo của Đảng ta.
Thông qua môi trường XHDS, các thế lực tìm cách lôi kéo quần chúng vào các “hoạt động vì mục tiêu chung” như đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường… hòng kích động quần chúng chống lại chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước; tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia đòi đa nguyên, đa đảng và khởi kiện, vu cáo Nhà nước ta vi phạm các điều ước quốc tế về nhân quyền. 
Nhằm góp phần phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng XHDS chống phá chế độ ta, cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hội, đoàn quần chúng. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có các tổ chức chính trị, xã hội. Chú trọng xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của đất nước và từng địa phương; giải quyết kịp thời bức xúc, khó khăn, nguyện vọng chính đáng của các tổ chức quần chúng và nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.



[1] Đức Thành - “Hiểu đúng về xã hội dân sự ở Việt Nam”, http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/hieu-dung-ve-xa-hoi-dan-su-o-viet-nam

ĐẨY MẠNH PHÒNG, CHỐNG HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN ẤN PHẨM, TÀI LIỆU CHỐNG PHÁ NƯỚC TA



Nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu có nội dung xuyên tạc tình hình trong nước, bóp méo sự thật về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì thế, nhận thức rõ để có cách thức phòng, chống hoạt động này là vấn đề rất quan trọng.
Để chống phá Đảng và cách mạng nước ta, những năm qua, các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi khác nhau để xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo, v.v. Chúng coi đó là một mũi tấn công quan trọng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta, đưa Việt Nam theo quỹ đạo của Mỹ và phương Tây. Qua nghiên cứu, có thể phân ra thành các loại ấn phẩm, tài liệu cơ bản như sau:
1. Các báo cáo, nghị quyết, dự luật... của Nghị viện, Quốc hội Mỹ, Úc và các nước phương Tây, như: Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; Báo cáo, nghị quyết thường niên của Quốc hội châu Âu về tình hình nhân quyền thế giới, v.v. Các văn bản này thường đưa ra nhận xét sai lệch, thiếu khách quan về tình hình dân chủ, nhân quyền ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhằm gây sức ép, đưa ra yêu sách trong quan hệ ngoại giao song phương với Việt Nam.
2. Các văn bản pháp lý của một số tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, như: Báo cáo thường niên, nghị quyết, thông cáo báo chí, kháng thư của tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW)... gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam có nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, bóp méo thực tế các vụ việc xảy ra trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế về nhân quyền; qua đó, đưa ra yêu sách đòi thả các đối tượng vi phạm pháp luật bị ta bắt giữ, xử lý.
3. Các ấn phẩm xuất bản, như: sách báo, tạp chí, tờ rơi, truyền đơn... của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài có nội dung bôi nhọ đời tư lãnh đạo, xuyên tạc lịch sử dân tộc, bóp méo, xuyên tạc tình hình, vụ việc trong nước hòng hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt của các hãng VOA, RFA, RFI... có nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, tô đậm hoặc bóp méo những yếu kém, vi phạm của chính quyền các cấp trong thực hiện chính sách, pháp luật, giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến tôn giáo, dân tộc hoặc xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật trong nước, v.v.
Để chuyển tải các ấn phẩm, tài liệu xuyên tạc, phản động vào trong nước, các thế lực thù địch đã lập ra hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm cơ quan báo, tạp chí, đài phát thanh, phát hình ở các quốc gia: Mỹ, Úc, Philippines... có chương trình tiếng Việt; thông qua hợp tác trên các lĩnh vực bưu chính viễn thông, báo chí, xuất bản trong nước; qua các chương trình hợp tác quốc tế, dự án đào tạo báo chí, các hội thảo; qua nhân viên ngoại giao, đoàn khách quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam để chuyển tải ấn phẩm, báo cáo, tài liệu vào nước ta. Họ triệt để lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng, như: Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; hoặc khi có các vụ việc phức tạp xảy ra, như: vụ biểu tình phản đối Công ty Formosa tại miền Trung, giải tỏa chùa Liên Trì tại thành phố Hồ Chí Minh hay mới đây là vụ việc ở Đồng Tâm, v.v. Hoặc thời điểm đoàn Việt Nam tham gia các hoạt động của Liên hợp quốc để đẩy mạnh tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động vào trong nước nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, làm cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất lòng tin vào Đảng, từng bước hình thành xu hướng ly khai, dựng lên “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng phản động, hình thành đảng đối lập ở Việt Nam; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta; cổ súy cho số đối tượng chống đối hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.
Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa hoạt động này, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, như: Nghị quyết 16/NQ-TW, ngày 18-3-2007 của Trung ương Đảng (khóa X) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước tình hình mới; Chỉ thị 34-CT/TW, ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư (khóa X) về tăng cường công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; Luật Xuất bản năm 2012, Luật Báo chí năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018, v.v. Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng đã chủ động triển khai các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động. Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo tăng cường quản lý báo chí, internet, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong đấu tranh phản bác các thông tin và luận điệu sai trái; các hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để tán phát tài liệu, ấn phẩm phản động. Bộ Công an đã cung cấp cho người dân thông tin về âm mưu, thủ đoạn tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động, tăng cường công tác quản lý an ninh thông tin mạng; yêu cầu các tập đoàn truyền thông như: Google, Youtube... bóc gỡ các clip, tài khoản có nội dung xấu, độc hại, triển khai biện pháp phát hiện, đấu tranh vô hiệu hóa nhiều blog, website và xử lý nghiêm minh nhiều đối tượng vi phạm trước pháp luật. Thông qua các kênh hợp tác song phương, đa phương, các cơ quan chức năng đã chuyển tải chính sách, thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quyền của người dân tới cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài, góp phần đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc tình hình thực tế trong nước. Đặc biệt, việc Việt Nam bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia định kỳ của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (chu kỳ III) về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 04-7-2019 đã thể hiện vai trò là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên hợp quốc, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động còn tồn tại nhất định. Đó là sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành còn hạn chế, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp, nhất là trong tuyên truyền và đấu tranh phản bác nội dung của các ấn phẩm, tài liệu phản động. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chưa đi vào chiều sâu, có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, thụ động. Một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ, còn coi nhẹ công tác này. Công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, internet... tồn tại nhiều bất cập; tình trạng vi phạm các quy định pháp luật trong việc viết, đăng tin, bài viết có nội dung phản động, xuyên tạc có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Công tác tuyên truyền, định hướng thông tin và đấu tranh phản bác thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch còn thụ động, thiếu sắc bén.
Những năm tới, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Nhằm phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả đối với hoạt động này, cần tập trung thực hiện tốt mấy vấn đề cơ bản sau:
Một là, công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động chống phá Việt Nam luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai thực hiện với quyết tâm chính trị lớn, sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng. Đặc biệt, cần huy động được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức và kiều bào ta ở nước ngoài tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh.
Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch để tán phát các loại văn bản, tài liệu, ấn phẩm... và thời điểm đẩy mạnh các chiến dịch tán phát tài liệu phản động để kịp thời triển khai biện pháp đấu tranh ngăn chặn. Trong đó, đặc biệt chú trọng nắm tình hình từ xa, ngay từ trung tâm phá hoại tư tưởng ở bên ngoài để chủ động triển khai công tác phòng ngừa. Chú trọng xây dựng, triển khai mạng lưới bí mật vào các trung tâm phá hoại tư tưởng có trụ sở ở ngoài nước, các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài ở Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ thường có hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu chống phá ta.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực thông tin, truyền thông, báo chí, quản lý internet, v.v. Chủ động rà soát lại hệ thống pháp luật hiện hành, xác định những quan hệ xã hội nảy sinh trên lĩnh vực này chưa được pháp luật điều chỉnh để kiến nghị Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành văn bản pháp luật mới, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, tính chất công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động chống phá nước ta, làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên, thấy rõ tác hại của các tài liệu, thông tin phản động; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” các nội dung thông tin xấu độc, nguy hại đối với xã hội; kịp thời tố giác với các cơ quan chức năng các tài liệu, ấn phẩm phản động để xử lý kịp thời. Chú trọng xây dựng ý thức và phong cách văn hóa khi tham gia mạng xã hội, internet cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Năm là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác; phát huy tính ưu việt của internet, các blog, diễn đàn trên mạng xã hội để đăng tải các tin, bài viết phong phú, đa dạng làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, vu cáo tình hình thực tế ở nước ta.
Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, trang bị các phương tiện thiết bị hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, kiểm duyệt, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, internet... đáp ứng kịp thời yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khoa học công nghệ để xuất bản, tán phát tài liệu, ấn phẩm chống phá Việt Nam. Thường xuyên bổ sung, củng cố tổ chức nhân sự, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng kịp thời yêu cầu do tình hình công tác đặt ra. Tăng cường kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh sai phạm trong hoạt động kinh doanh, kiểm tra, phát hiện các trang web, blog... có nội dung xấu, độc hại để có biện pháp xử lý, ngăn chặn kịp thời.
Bảy là, đẩy mạnh thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, các chương trình, đề án của Chính phủ đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Chủ động nắm tình hình, giải quyết kịp thời và dứt điểm các vụ việc tranh chấp khiếu kiện đất đai, các vụ đình công, lãn công... ngay từ cơ sở, không để hình thành “điểm nóng”, tạo cớ để các thế lực bên ngoài, các đối tượng trong nước lợi dụng thổi phồng, xuyên tạc tình hình,  lợi dụng can thiệp, đưa yêu sách hoặc tác động làm phức tạp tình hình an ninh chính trị tại địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chúng ta tin tưởng rằng, các cơ quan chức năng và cả hệ thống chính trị tiếp tục thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động chống phá nước ta.

PHÊ PHÁN Ý KIẾN KÊU GỌI VIỆT NAM LIÊN MINH QUÂN SỰ ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC



“Không liên minh quân sự” là chủ trương đúng đắn, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam được thể hiện trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 vừa được công bố. Đó là cơ sở quan trọng để chúng ta đấu tranh bác bỏ ý kiến sai trái kêu gọi Việt Nam phải liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 25-11-2019, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng 2019, được bổ sung, phát triển chính sách quốc phòng công bố năm 2009, công khai toàn bộ những vấn đề cơ bản nhất của quốc phòng Việt Nam; trong đó, xác định: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Chính sách này được nhiều nước và dư luận quốc tế ủng hộ, đánh giá cao; phản ánh tinh thần trách nhiệm của Việt Nam góp phần vào củng cố hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, một số bài viết trên mạng xã hội, báo điện tử nước ngoài,… cho rằng, Việt Nam thực hiện chính sách “4 không” là nguy cấp, đồng thời ra sức hô hào, kêu gọi Việt Nam “phải thực hành liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc”. Theo họ, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn nào đó có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh, như: Mỹ, Nga hay Nhật,… thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Những bài viết này đều xuất phát từ những chủ thể và chủ bút luôn có thái độ, hoạt động chống phá Đảng Cộng sản, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Không thuần túy là kêu gọi liên minh quân sự ngay lập tức cho Việt Nam, mà ẩn ý của họ nhắm tới là kích động dư luận xã hội phủ nhận, lên án và gây áp lực với Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo ra những bất ổn, tiêu cực về quốc phòng, an ninh, gây mất ổn định chính trị, phá vỡ nền hòa bình, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó mới là mục đích “thực” của họ. Vì vậy, cần phải kiên quyết phê phán, bác bỏ ý kiến sai trái này, với các cơ sở lý luận, thực tiễn sau:
1. Tính hai mặt của liên minh quân sự. “Liên minh quân sự là sự liên kết hoạt động quân sự giữa hai hoặc nhiều nước hay tập đoàn chính trị trên cơ sở thống nhất về mục đích và lợi ích. Tùy thuộc vào mục đích chính trị, liên minh quân sự có thể là tiến bộ hay phản động, tự vệ hay xâm lược”1. Theo đó có thể thấy: (1). Liên minh quân sự tất yếu không chỉ hỗ trợ và ràng buộc nhau về quân sự mà còn cả chính trị và kinh tế; (2). Liên minh quân sự phải dựa trên cơ sở thống nhất về mục đích và lợi ích, trước hết là phải chấp nhận các điều kiện có đi, có lại về chính trị, kinh tế, nhiều khi là cả chủ quyền quốc gia; (3). Tùy theo mục đích chính trị, kinh tế, “lợi lộc” đến đâu mà các nước liên minh trước sau sẽ bộc lộ bản chất tiến bộ - phản động, tự vệ - xâm lược, chính nghĩa - phi nghĩa, vụ lợi - cùng có lợi.
Như vậy, liên minh quân sự có hai dạng, tích cực và tiêu cực, tùy theo mục đích, bản chất chính trị, kinh tế của các bên tham gia liên minh. Nếu liên minh đó là chính nghĩa, trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, thì nó sẽ phát huy tác dụng trong đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của các bên tham gia, đóng góp chung cho sự tiến bộ của nhân loại. Ngược lại, liên minh đó là phản động, phi nghĩa, thì càng làm gia tăng căng thẳng và đối đầu giữa các nước, các khối quân sự; tạo nguyên cớ để các nước có mưu đồ xấu, các khối quân sự chạy đua vũ trang, đẩy mạnh hoạt động, tăng cường hiện diện quân sự, đẩy thế giới, khu vực và đất nước đến “miệng hố chiến tranh”. Thậm chí, các tập đoàn tài phiệt, tập đoàn quân sự hùng mạnh hay các thế lực phản động thỏa hiệp với nhau, thực hiện chính sách hai mặt đối với các quốc gia, dân tộc nhỏ yếu bị lôi kéo, ép buộc vào liên minh, buộc các quốc gia, dân tộc phải từ bỏ một phần hoặc hy sinh những lợi ích căn bản của mình, đặc biệt là quyền dân tộc tự quyết, độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia để phục vụ cho mục đích của họ, nhất là khi đối tác liên minh đạt được thỏa hiệp có lợi ích lớn hơn với nước đang là đối tượng gây ra xung đột, chiến tranh với mình, v.v.
Thực tiễn lịch sử thế giới gần đây cho thấy, các cuộc chiến tranh và xung đột khắp Nam Âu đến Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi mấy thập niên qua, điển hình như nội chiến ở Xy-ri, xung đột ở U-crai-na,… đều chỉ ra, một trong những nguyên nhân và “ngòi nổ” của nó là chính sách đối nội và đối ngoại thiếu sự nhất quán của đảng cầm quyền và của chính phủ các nước đó. Chính phủ và ngay cả một bộ phận nhân dân các nước này luôn trông chờ sự “cứu giúp” của các thế lực bên ngoài. Họ biết đâu rằng, đằng sau những hành động và việc làm tưởng như vô tư đó là cả một mưu đồ tham vọng về lợi ích chiến lược của các cường quốc, mà hậu quả để lại cho nhân dân các nước đó không chỉ là phá hỏng không gian kinh tế - xã hội, kéo lùi sự phát triển của đất nước, mà còn là cảnh “nồi da nấu thịt”, chia cắt, tàn phá đất nước; chế độ và nhà nước có chủ quyền bị thủ tiêu hoặc luôn đối mặt với các nguy cơ bất ổn. Điều này cho thấy, giữ vững độc lập, tự chủ là bài học xương máu trong quan hệ quốc tế của mỗi quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia liên minh quân sự đều có lợi ích riêng của mình. Vì vậy, các quốc gia phải cân nhắc cái được và cái mất để quyết định trước khi tham gia hay không tham gia liên minh. Việt Nam chủ trương không liên minh quân sự là hoàn toàn phù hợp và sáng suốt; là điều kiện quan trọng để giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
2Việt Nam chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Những người kêu gọi “Việt Nam phải liên minh quân sự” thường chê bai, gièm pha về sức mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”; chính sách quốc phòng là “dâng đất, bán biển”, là “chính sách quy phục nước lớn…”, v.v. Đây là ý kiến hoàn toàn sai lầm, phiến diện, chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, “biết một mà không biết hai”. Một triết lý hiển nhiên ai cũng hiểu là bất cứ nước nào khi tiến hành chiến tranh thì đều phải cần đến vũ khí trang bị, phương tiện quân sự cần thiết, càng hiện đại càng tốt. Nhưng, nếu chỉ dựa vào vũ khí thì Việt Nam không thể nào đánh bại được mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử đã chứng minh, Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược bởi chúng ta có một thứ “vũ khí” vô cùng quan trọng, đó là nhân tố chính trị - tinh thần to lớn, lòng yêu nước nồng nàn, “chúng chí thành thành”, “toàn dân là lính” của toàn dân tộc. Chính “bảo bối” này mới là cái thực lực quyết định và nhân lên sức mạnh của mọi thứ vũ khí khác. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân Việt Nam đã vượt qua gian khổ, ác liệt, hy sinh, phát huy cao độ tính năng, tác dụng các loại vũ khí, trang bị hiện có và được bạn bè quốc tế giúp đỡ, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh với vũ khí, trang bị hiện đại nhất, giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời khẳng định, chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược, chứ không phải là “quy phục láng giềng” như kẻ nào đó rêu rao! Thực tiễn còn cho thấy: (1). Tiềm lực quân sự, quốc phòng Việt Nam hiện nay đã lớn mạnh hơn bao giờ hết, bởi Việt Nam đã là một quốc gia độc lập, thống nhất, có một Đảng chân chính, duy nhất lãnh đạo, có một Nhà nước vững mạnh, có gần một trăm triệu người dân “muôn người như một”; (2). Việt Nam được đánh giá có một nền kinh tế năng động, phát triển trong khu vực năng động, phát triển nhất và đang thu được nhiều thành tựu to lớn, hiệu quả; (3). Việt Nam đã và đang chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân: “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, với một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; lấy tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; (4). Việt Nam có một thế trận quốc phòng vững chắc là “thế trận quốc phòng toàn dân”, mà “thế trận lòng dân” là cốt lõi, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội, đối ngoại; có nghệ thuật quân sự độc đáo, phong phú, được đúc rút từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc; (5). Việt Nam có địa - quân sự thuận lợi cho phòng thủ và tiến công, được thiết lập vững chắc, liên hoàn giữa các khu vực; (6). Việt Nam đã, đang phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường nghiên cứu, phát triển, ứng dụng, làm chủ khoa học, công nghệ cao, vũ khí trang bị hiện đại, bảo đảm phòng, chống hiệu quả và giành thắng lợi trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao; (7). Việt Nam có quan hệ quốc tế với 194 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó, có quan hệ với tất cả các nước lớn; được hầu hết các nước trên thế giới, nhất là các nước láng giềng đánh giá cao và ủng hộ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam hiện nay. Đó là cơ sở khẳng định Việt Nam có đủ khả năng để thực hiện đường lối độc lập, tự chủ trong bảo vệ Tổ quốc, giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cở sở luật pháp quốc tế, mà không cần thực hiện liên minh quân sự. Còn những người luôn kêu gọi thực hiện liên minh quân sự là những người đã rơi vào và tuyệt đối hóa quan điểm “vũ khí luận”, muốn ỷ lại, dựa dẫm vào nước khác, vũ khí của người khác, mà đánh mất tinh thần tự tôn dân tộc.
Mặc dù nhất quán thực hiện chính sách “4 không”; song, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 xác định: “Tùy theo tình hình cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”2. Qua đó cho thấy, chính sách quốc phòng của Việt Nam không chỉ đúng mà còn linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý, hợp thời, nhằm phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...