Những ai am hiểu tình hình Việt Nam khi nhìn vào
“Báo cáo nhân quyền quốc gia năm 2019” mà Bộ Ngoại giao Mỹ mới công bố, chắc
hẳn đều có cảm giác chung: Phi lý và kỳ cục. Phi lý là bởi nội dung của bản báo
cáo này rõ ràng đi ngược với thực tế. Kỳ cục vì cuối cùng đây vẫn chỉ là tập
hợp của những nhận xét thiếu thiện cảm mang tính cố hữu, để rồi kết luận với
điệp khúc cũ: Việt Nam vi phạm nhân quyền.
“Báo cáo nhân quyền quốc
gia năm 2019” mà Bộ Ngoại giao Mỹ công bố ngày 11-3 vừa qua gồm 7 phần, đề cập
tới tình hình Việt Nam, trong đó đưa ra những chỉ trích vô căn cứ về tình hình
vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Đáng chú ý, báo cáo này cho rằng vấn đề nghiêm
trọng nhất ở Việt Nam là hạn chế các quyền tự do, bao gồm tự do biểu đạt, tự do
báo chí, tự do internet và tự do tôn giáo. Đây là những luận điệu không mới,
trước hết bởi nó vẫn sa lầy trong cách nhìn nhận “không trúng và không đúng” sự
thật. Dù đã “xuống tông” so với những báo cáo trước đây và thừa nhận những
thành tựu bảo vệ quyền con người của Việt Nam, song báo cáo về tình hình nhân
quyền Việt Nam 2019 của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn chứa đựng những nhận định thiếu
khách quan, được chắp vá bằng những thông tin không chính xác, phản ánh sai
lệch về tình hình thực tế.
Trước hết, thúc đẩy và bảo
vệ quyền con người là những vấn đề trọng tâm trong triển khai Hiến pháp năm
2013, trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội cũng như trong thực tiễn đời
sống ở Việt Nam. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng đã bổ sung, sửa đổi và ban hành
nhiều chính sách, văn bản luật với mục tiêu mọi người dân được thụ hưởng đầy đủ
quyền con người, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp.
Chẳng hạn về quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo, Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều loại hình
tín ngưỡng, với 16 tôn giáo và 13,2 triệu tín đồ tôn giáo. Quyền tự do tôn giáo
chính đáng được nhà nước bảo hộ, các tín đồ tôn giáo được tự do thực hiện các
nghi lễ tôn giáo, tự do thực hành các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp
luật. Mỗi năm, tại Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo được tổ chức. Tính
từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã 3 lần tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên
hợp quốc. Mỗi lần như vậy đều có sự tham gia của hàng nghìn chức sắc, lãnh đạo
các giáo hội, nhà nghiên cứu, học giả, hạng vạn tín đồ Phật tử đến từ nhiều
quốc gia trên thế giới. Chính phủ Việt Nam cũng tạo điều kiện để các tổ chức
tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách, xuất bản các tạp chí liên quan tới tôn
giáo, từ đó có thể bày tỏ đức tin tôn giáo của mình. Việc thông qua Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc hơn để người dân thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.
Ấy vậy mà, một lần nữa sự thật
lại bị xuyên tạc, bóp méo!
Hay như trong lĩnh vực
thông tin truyền thông, Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi, ban hành nhiều văn bản
luật, như: Luật Báo chí sửa đổi (2016); Luật Tiếp cận thông tin (2013); Luật An
ninh mạng (2018)… Ngoài ra còn có nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (2018). Những nỗ lực của Việt
Nam trong thúc đẩy quyền sử dụng internet cũng được thế giới ghi nhận khi luôn
đứng trong nhóm các quốc gia có lượng người sử dụng internet cao trên thế giới.
Theo thống kê gần nhất thì hiện nay số người Việt Nam sử dụng mạng xã hội
(MXH) facebook lên tới hơn 60 triệu người. Cùng với đó, hệ thống báo
chí phát triển mạnh mẽ, với sự ra đời của nhiều tờ báo, tạp chí cả bằng tiếng Việt
và tiếng nước ngoài. Người dân thậm chí có thể dễ dàng tiếp cận với đủ loại
thông tin từ các hãng thống tấn, báo chí lớn trên thế giới,
như: Reuters, Kyodo, AFP, NHK… ngay trong chính ngôi
nhà của mình. Chỉ riêng những ví dụ đó đủ cho thấy, cáo buộc mà Bộ Ngoại giao
Mỹ nêu trong Báo cáo nhân quyền 2019 rằng Việt Nam hạn chế quyền tự do ngôn
luận, báo chí, internet là hoàn toàn vô căn cứ và phi lý, không phản ảnh đúng
hiện thực sinh động tại Việt Nam.
Ngày nay, báo chí là công
cụ quan trọng bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân, là diễn
đàn ngôn luận của các tổ chức chính trị-xã hội, nhân dân Việt Nam. Internet nói
chung, MXH nói riêng cũng dần trở thành món ăn tinh thần không thể
thiếu-thứ vũ khí sắc bén của những người dùng thông minh, là nơi để họ đóng góp
tiếng nói xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, chung tay bảo vệ những người
yếu thế. Không ít những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược đạo đức và lối sống
của người Việt Nam, như: Tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền, kinh
doanh bất hợp pháp, cướp của, bảo kê... cho đến lối sống vô cảm, lai căng, sùng
ngoại... đã bị các “tín đồ thường trực” trên mạng phanh phui, lên án. Có thể
nói, đó thực sự là tự do ngôn luận của những người thông thái và trách nhiệm.
Tuy nhiên, “thế giới ảo”
đang vươn mình với con dao hai lưỡi. Internet và MXH nhiều khi lại
tiếp thêm công cụ cho những kẻ đã và đang có âm mưu chống lại Nhà nước Việt
Nam, làm tổn thương các quyền và lợi ích của nhân dân Việt Nam. Thực tế cho
thấy, ngay cả những quốc gia lâu nay luôn ra rả về tự do ngôn luận, tự do báo
chí cũng không ít lần trở thành nạn nhân của sự tự do internet quá trớn, của
những thông tin sai sự thật trên MXH. Nói vậy để thấy rằng, dù là quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận hay quyền gì đi nữa cũng cần đi đôi với nghĩa vụ và
trách nhiệm, luôn phải nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật,
trước hết là nhằm ngặn chặn kẻ xấu xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội cũng như quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người khác. Ở Việt Nam, sự
ra đời của Luật An ninh mạng cũng không nằm ngoài mục đích ấy.
Còn những kẻ đòi hỏi “nhân
quyền hoàn hảo” trên internet, thực chất chỉ có thể là những kẻ sẵn sàng phá
rào luật pháp, sự ổn định của đất nước cũng như những chuẩn mực đạo đức và văn
hóa.
Bàn về nhân quyền, cũng
chẳng cần lớn tiếng rao giảng bằng những câu từ “đao to búa lớn” mà hãy nhìn
vào hành động của Chính phủ và người dân Việt Nam khi đang dồn mọi nỗ lực
phòng, chống dịch Covid-19 trong suốt những ngày qua. Trong cuộc chiến ấy, cùng
với sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính
phủ, với tinh thần sẵn sàng hy sinh một số lợi ích kinh tế, nhưng “không để ai
bị bỏ rơi, không ai bị bỏ lại phía sau”, còn có sự tham gia của toàn quân, toàn
dân và các lực lượng chức năng. Không khó để có thể tìm thấy
trên MXH hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam dãi gió
dầm mưa trong rừng để nhường doanh trại, nhường chăn ấm cho các công dân thực
hiện cách ly; cũng khó ai có thể quên, khi Chính phủ quyết định đưa máy bay đến
vùng tâm dịch Vũ Hán (Trung Quốc) để đón công dân về nước, rồi lại quyết định
cấp kinh phí bảo đảm ăn uống cho người cách ly (trong đó có cả những người nước
ngoài); khám, chữa bệnh miễn phí cho các trường hợp không may nhiễm bệnh; rồi
hình ảnh các văn nghệ sĩ, doanh nhân... tích cực quyên tiền, vật chất cùng góp
sức với Chính phủ chống dịch; các chủ khách sạn, khu nghỉ dưỡng tự nguyện biến
nơi kinh doanh của mình thành các điểm cách ly miễn phí. Với người dân, họ thể
hiện trách nhiệm của mình bằng cách tuân thủ các quy định về phòng, chống dịch,
phê phán những hành động trục lợi, “thừa nước đục thả câu” trong giai đoạn cả
nước đang “chống dịch như chống giặc”. Tất cả những việc làm trên đang diễn ra
tại Việt Nam-điều mà nhiều quốc gia trên thế giới chưa làm được. Những hình ảnh
sinh động và thực tế đó là sự hiện thân về nỗ lực cao độ của cả đất nước Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền sống-quyền cao nhất của con người?
Cũng cần phải nói thêm
rằng, người dân Việt Nam và cả du khách nước ngoài đồng lòng, chung sức chống
dịch bởi họ đều cảm nhận rõ trong thời điểm nước sôi lửa bỏng này, họ được chăm
sóc với những điều kiện tốt nhất có thể. Tính mạng và sức khỏe của họ và những
người xung quanh được Chính phủ và toàn xã hội ưu tiên hàng đầu. Sự thật như
vậy, vì cớ gì mà không thừa nhận?
Một điều cần nói rõ nữa là:
Báo cáo nhân quyền Việt Nam 2019 không chỉ vi phạm quy định về cấm can thiệp
vào công việc nội bộ của quốc gia khác đã được đề cập trong Hiến chương Liên
hợp quốc mà nguy hại hơn nó có thể tiếp tục trở thành cái cớ để các thế lực cơ
hội chính trị, thù địch với Việt Nam, các tổ chức phản động tìm cách cản trở
bước phát triển chung của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Để cho ra đời một chiếc
điện thoại ưu việt và theo kịp thời đại, các hãng công nghệ của Mỹ luôn phải
tìm tòi phát triển những con chíp có tốc độ xử lý nhanh nhất, mạnh nhất. Báo
cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng vậy, rất cần cách nhìn nhận sát với
những bước phát triển ở Việt Nam thay vì tiếp tục dựa vào đánh giá chậm chạp từ
một “con chíp nhân quyền” đã quá già nua và lỗi thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét