Vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
công bố phúc trình thường niên về tệ nạn buôn người trên thế giới năm 2018. Bản
phúc trình xếp Việt Nam ở nhóm Tier 2 kèm thêm “watch”, tức cần bị theo dõi trở
lại.
Lý do đưa vào danh sách bị theo dõi trở lại ghi trong bản phúc trình là
“không đạt được những điều kiện tiêu chuẩn về bài trừ cũng như giảm thiểu tệ
nạn buôn người”. Bản phúc trình đánh giá: “Dù đã nỗ lực đáng kể song Việt Nam
không hoàn tất và không đáp ứng đúng mức yêu cầu về những điều kiện, tiêu chuẩn
tối thiểu trong công việc phòng chống buôn người”.
Như vậy, sau 10 năm liên tục ở bậc 2 (không còn bị theo dõi) thì năm
nay, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa lại vấn đề này khiến chúng ta phải đặt câu hỏi về
tính khách quan của báo cáo và động cơ ở đây là gì?
Theo phúc trình, Việt Nam đã áp dụng các điều khoản hướng dẫn Điều 150
và 151 Bộ luật Hình sự, đã có sự tiến bộ trong việc truyền bá nâng cao ý thức
phòng chống buôn người trong các cộng đồng và địa phương dễ bị thương tổn, đã
triển khai những cơ sở giáo dục phòng ngừa, đã cởi mở hơn trong việc hỗ trợ,
giúp đỡ các tổ chức phòng chống và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trong cũng như
ngoài nước.
Thế nhưng, bản phúc trình này cho rằng “bất kể mọi cố gắng, vấn đề buôn
người vẫn tồn tại và có phần nặng nề hơn trong hai năm trở lại đây”. Từ đó,
phúc trình đã quy chụp khi có những nhận xét rất sai lệch, cho rằng Việt Nam
“không nghiêm túc trong vấn đề điều tra, xử phạt theo luật pháp những hành vi
lạm dụng xuất khẩu lao động, đưa hàng loạt người ra nước ngoài mà không đảm bảo
an toàn đời sống cũng như công việc cho họ”.
Bên cạnh đó là những cáo buộc có tính áp đặt, quy chụp Việt Nam không
giải quyết được tệ trạng nêu ra trước đây là “bạc đãi và cưỡng bức lao động”
không công đối với những người sử dụng ma tuý trong các trung tâm cai nghiện
(trong khi thực tế việc tổ chức lao động tại các trung tâm cai nghiện nhằm hỗ
trợ việc cai nghiện đạt kết quả tốt hơn, giúp người nghiện lao động, sản xuất,
giảm thiểu tác động từ ma tuý).
Sau khi bản phúc trình được công bố, rất dễ nhận diện khi nhiều tờ báo
có quan điểm thù địch với Việt Nam đã đăng tải, đưa ra các bình luận, phỏng vấn
cổ suý và suy diễn. Người được phỏng vấn, lấy ý kiến đều là những cá nhân từng
bị xử lý theo pháp luật Việt Nam, có các hành động chống phá Nhà nước Việt Nam.
Trên mạng xã hội, nhân cớ này, các đối tượng bấu víu mặc sức “chém gió”, dùng
những câu từ miệt thị, đả kích Nhà nước, chế độ XHCN ở Việt Nam, thậm chí xuyên
tạc Việt Nam “dung túng” tội phạm buôn người.
Cùng với đó là những nhận xét phiến diện của một số tổ chức, cá nhân.
Đặt vấn đề “Các tổ chức nước ngoài từng làm việc tại Việt Nam hơn 10 năm qua
trong lĩnh vực phòng chống nạn buôn người nghĩ sao về chuyện này”, Đài Châu Á
tự do lấy ý kiến của một số cá nhân, cho rằng: “Từ góc độ của những con số là
vấn đề Việt Nam đã lơi ra, không để nhiều tâm sức như những năm trước đây, thì
bây giờ phải rà trở lại”.
Để hiểu rõ bản chất vấn đề, cần thấy thực trạng tệ nạn buôn người trên
thế giới hiện nay. Đây là vấn đề xuyên quốc gia và loại tội phạm này đang lan
rộng khắp thế giới chứ không phải là vấn đề riêng của quốc gia nào. Liên hợp
quốc ước tính rằng mỗi năm 700.000 đến 4 triệu phụ nữ và trẻ em bị buôn bán
trên toàn thế giới với mục đích ép buộc bán dâm, lao động và các hình thức bóc
lột khác. Buôn bán người được ước tính lên tới 7 tỷ đô la Mỹ mỗi năm.
Buôn bán người được định nghĩa là buôn bán tình dục trong đó hoạt động
mại dâm bị ép buộc bằng vũ lực; lừa gạt hoặc cưỡng ép, hoặc người tham gia hành
vi đó chưa đủ 18 tuổi; tuyển dụng, chứa chấp, vận chuyển và quản chế một người
nào đó để bóc lột sức lao động hay làm dịch vụ thông qua việc sử dụng vũ lực,
lừa gạt, cưỡng ép với mục đích ép buộc lao động khổ sai, để trừ nợ, gán nợ,
hoặc làm nô lệ…
Theo thống kê của Văn phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm
(UNODC), các cô gái chiếm 23% tổng số nạn nhân bị buôn bán. Con số dựa trên dữ
liệu từ năm 2016, tăng cao hơn các năm 2014 (21%) và năm 2004 (10%). Theo báo
cáo, các bé trai chiếm 7% trong số nạn nhân buôn người, giảm so với năm 2014
(8%) và tăng so với năm 2004 (3%). Như vậy, buôn người là vấn nạn có tính toàn
cầu, nhất là khu vực Á, Phi, Mỹ la tinh. Ngay cả các nước phát triển ở châu Âu,
Bắc Mỹ, điều này cũng không ngoại lệ.
Theo báo cáo của UNODC, thời gian gần đây nổi lên tình trạng di cư từ
các nước Trung Mỹ qua Mexico vào Mỹ. Nghĩa là chính Mỹ cũng là nước chịu tác
động mạnh từ hệ quả nạn mua bán người, di cư bất hợp pháp.
Ở khu vực Đông Nam Á, tại Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN (từ ngày 24
đến 27-9-2018, tại Malaysia) và Hội nghị cấp Bộ trưởng ASEAN lần thứ 12 (từ
ngày 29-10 đến 2-11-2018) về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia đều đánh giá
tình hình tội phạm mua bán người và di cư trái phép tiếp tục diễn biến phức
tạp. Do đó, không thể cáo buộc Việt Nam trong vấn đề có tính toàn cầu và phức
tạp như buôn người.
Xin viện dẫn lại đánh giá của quốc tế về vấn đề này. Tại các phiên đối
thoại thường niên giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) về quyền con người,
nạn buôn bán người được quan tâm đặc biệt. Phía EU đã ghi nhận các nỗ lực và
thành tựu của Việt Nam, đặc biệt là việc xây dựng nhà nước pháp quyền và hoàn
thiện hệ thống luật pháp về quyền con người; bày tỏ mong muốn tăng hợp tác với
Việt Nam trong lĩnh vực cải cách tư pháp, thực hiện Công ước chống tra tấn,
phòng chống tệ nạn buôn bán người và bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị
tổn thương.
Nhiều cuộc hội thảo quốc tế, vấn đề này được các đại biểu đề cập và đánh
giá cao nỗ lực của Việt Nam (như hội thảo “Chiến lược phòng chống mua bán
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em: Tăng cường tiếp cận thông tin và hệ thống
bảo vệ cộng đồng” tại Hà Nội, do Việt Nam tổ chức trong khuôn khổ chương trình
ưu tiên 2018 của Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR).
Kết quả của hội thảo giúp đạt được mục tiêu hỗ trợ các nạn nhân và những
nhóm người dễ trở thành nạn nhân của nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ
em. Các kết quả và những sáng kiến mang tầm khu vực tại hội thảo được chia sẻ
với các Ban Thư ký quốc gia ASEAN để xem xét, thông qua và triển khai.
Tại Việt Nam, năm 2018 xảy ra 211 vụ, 276 đối tượng, 386 nạn nhân, trong
đó, nổi lên tình hình hoạt động và phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm mua
bán người.
Trước thực trạng đó, thời gian qua, các bộ, ngành và địa phương đã bám
sát mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ, kịp thời ban hành chương trình, kế hoạch phân
công nhiệm vụ, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; góp phần kéo giảm tình hình hoạt
động tội phạm mua bán người. Trong nhiều năm liền, Việt Nam được Liên hợp quốc
xếp vào Nhóm 2 không còn bị theo dõi.
Việc phòng chống mua bán người được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tiến hành trên rất nhiều lĩnh vực. Lực
lượng Công an, chủ công là Cảnh sát Hình sự phối hợp với Bộ đội Biên phòng các
cấp xây dựng và phối hợp triển khai các kế hoạch nghiệp vụ, điều tra theo
tuyến, địa bàn trọng điểm, triển khai các biện pháp nghiệp vụ, kết hợp với tuần
tra, kiểm soát và quản lý xuất nhập cảnh qua biên giới. Tổ chức triển khai thực
hiện cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người trên phạm vi toàn
quốc.
Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với cơ quan chức
năng nước sở tại nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện và giải cứu nạn nhân,
bảo vệ quyền lợi hợp pháp, hồi hương công dân Việt Nam là nạn nhân bị mua bán
trở về nước.
Như vậy, việc phòng chống tệ nạn mua bán người được Việt Nam đặc biệt
coi trọng, sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, toàn xã hội. Còn những
tồn tại trong vấn đề này là khó khăn chung mà các nước cũng đang đối mặt, hoàn
toàn không phải Việt Nam “lơ là” như quy chụp của bản phúc trình và những cá
nhân thiếu thiện chí. Với sự thực hiển nhiên như thế, rõ ràng bản phúc trình
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã nhìn nhận, đánh giá sai lệch, gây những hiểu lầm và
tạo cớ để các thế lực xấu mượn cớ suy diễn, xuyên tạc tình hình.
Nguyễn Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét