Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2019

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG VÀ SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945



Tháng 8-1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động lại tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận giá trị vĩ đại đó. Âm mưu, thủ đoạn của chúng cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Để phủ nhận giá trị lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cuộc Cách mạng vĩ đại này, với góc nhìn thiên kiến, lệch lạc, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đã đưa ra quan điểm phản động. Chúng cho rằng: không cần phải tiến hành Cách mạng Tháng Tám vì Chính phủ của ông Trần Trọng Kim khi đó đã tiếp quản, giành độc lập cho dân tộc; hoặc: không Tổng khởi nghĩa thì nền độc lập vẫn được các nước Đồng minh tự nguyện trao trả (!). Hùa theo quan điểm đó, có nhân vật đã đánh giá: chỉ tồn tại 128 ngày, nhưng chính quyền của ông Trần Trọng Kim đã giải quyết được rất nhiều việc để tiến tới độc lập dân tộc. Cùng với cách nhìn nhận và đánh giá sai lệch đó, lại có quan điểm thể hiện một cách rất chủ quan, thiếu khoa học, không căn cứ vào thực tiễn, như: tháng 8-1945 có sự xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chỉ là “ăn may”, v.v.
Để nhìn nhận khách quan, đúng bản chất của một sự kiện, vấn đề quan trọng nhất là phải đặt sự kiện ấy trong dòng chảy liên tục của lịch sử và tình hình thực tế tại thời điểm đó. Đối với sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam cũng vậy. Thực tế, vào ngày 30-3-1945, ông Trần Trọng Kim được Nhật đưa từ Băng Cốc về Sài Gòn, sau đó ra Huế cùng với vị vua bù nhìn Bảo Đại thành lập Chính phủ vào ngày 17-4-1945 theo sự chỉ đạo của người Nhật. Đây thực chất là Chính phủ bù nhìn, cho dù một số người trong Nội các đã có cố gắng nhất định, nhưng vẫn bị lệ thuộc nặng nề vào người Nhật. Chúng ta trân trọng ông Trần Trọng Kim với tư cách là một nhà giáo dục, nhà sử học, nhất là công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, như: Việt Nam sử lược, Việt Nam văn phạm,… của Ông. Song, trên thực tế hơn 04 tháng sau khi thành lập, Chính phủ của Ông đã tỏ ra bất lực, không giải quyết được các vấn đề rất cấp bách đang đặt ra đối với đất nước lúc đó, nhất là việc ký hiệp ước với Nhật để công nhận nền độc lập của Việt Nam cũng không thực hiện được. Chính phủ của Ông cũng không có đường lối chính trị rõ ràng, không có biện pháp đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Điển hình như: nạn đói ở miền Bắc năm 1945 đã làm cho hàng triệu người chết mà Chính phủ lúc đó không có bất cứ biện pháp giải quyết nào, có chăng:“vận chuyển gạo từ miền Nam để cứu đói” chỉ là lời hứa suông. Không những thế, họ lại còn kêu gọi: quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản; không thể quên ơn nước Đại Nhật Bản đã giải phóng cho ta; hoặc: quốc dân, đồng bào hãy tin tưởng vào Chính phủ và tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản để xây đắp cơ đồ nước Việt Nam, v.v. Rõ ràng, Chính phủ của ông Trần Trọng Kim khi đó đã bất lực trước thực tế phức tạp, rối ren của xã hội; sự ra đời của Chính phủ này chỉ là hiện thực hóa chiến lược và kế hoạch chiếm đóng Việt Nam của người Nhật sau khi đã đảo chính, lật đổ người Pháp. Vì vậy, Chính phủ Trần Trọng Kim “được Nhật trao độc lập” thì đó chỉ là thứ độc lập giả hiệu.
Ngược lại, ngay từ khi ra đời (đầu năm 1930), Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã xây dựng cương lĩnh, đường lối đúng đắn, khoa học, lấy mục tiêu là đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho các tầng lớp nhân dân làm phương hướng hành động; đã đề ra nhiệm vụ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra (1939), Đảng đã nhận định chính xác về tình hình thế giới và trong nước, chủ động nắm chắc thời cơ, chuẩn bị lực lượng, xây dựng căn cứ địa làm tiềm lực cho Cách mạng. Năm 1941, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh; dưới sự chỉ đạo của Mặt trận, nhiều tổ chức, đoàn thể, lực lượng đoàn kết yêu nước đã ra đời và tập hợp thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc, như: Hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc, v.v. Đây là lực lượng quần chúng đông đảo để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa khi có thời cơ. Năm 1943, trước diễn biến mới của tình hình, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; đồng thời, đặt ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Đêm ngày 09-3-1945, quân Nhật đồng loạt nổ súng và nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của quân Pháp; toàn bộ Đông Dương trở thành thuộc địa của phát xít Nhật. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa; theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng đã gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ cả nước, kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có chủ trương, đường lối đúng đắn, hành động kịp thời, nhất là sự ủng hộ đông đảo của quần chúng nhân dân cả nước, nên cách mạng Việt Nam liên tục phát triển, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và kết thúc bằng cuộc Tổng khởi nghĩa. Đó là thắng lợi của sự chuẩn bị chu đáo, nghệ thuật tạo và chớp thời cơ, huy động lực lượng, hành động kiên quyết, kịp thời của Đảng ta. Nó chứng tỏ tính chủ động, khả năng nhận định, đánh giá tình hình chính xác và khả năng quy tụ, phát động quần chúng đồng loạt đứng lên đấu tranh của Đảng. Đó là cơ sở để khẳng định: đây thực sự là một cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứ không phải là “ngẫu nhiên”, “ăn may”, hay “không cần Tổng khởi nghĩa giành độc lập, mà nền độc lập sẽ được các nước Đồng minh tự nguyện trao trả” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Chúng ta không phủ nhận thời cơ thuận lợi khi phe Đồng minh đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, làm cho quân Nhật và các thế lực tay sai ở Đông Dương hoang mang, mất hết tinh thần; buộcNhật phải đầu hàng vô điều kiện, tạo ra thời cơ thuận lợi để dân tộc ta đứng lên giành chính quyền. Nhưng, phải khẳng định rằng: ở nước ta khi đó “khoảng trống quyền lực” là không! Bởi, ngay từ tháng 9-1940, Quân đội Nhật đã bắt đầu tiến vào Việt Nam; phía Pháp đã phải nhượng bộ, cho phép 6.000 quân Nhật đóng ở Bắc kỳ, được quyền sử dụng 04 sân bay và cảng Hải Phòng để vận chuyển một sư đoàn thuộc Quân đoàn 21; đồng thời, được quyền chuyển 25.000 quân qua Bắc kỳ vào Vân Nam, v.v. Cuối tháng đó, Hải quân Nhật tiến hành đổ bộ 4.500 lính bộ binh và hơn một chục xe tăng vào Hải Phòng. Đến tháng 7-1941, chúng tiến vào Sài Gòn và đến năm 1945, đã có hàng vạn quân Nhật vào Việt Nam với nhiều vũ khí, trang bị hiện đại. Sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Quân đội Nhật đã nhanh chóng tiếp quản, làm chủ toàn bộ Đông Dương. Mặc dù quân đội phe phát xít bị đánh ở nhiều nơi, nhưng ở Việt Nam, quân đội Đồng minh chỉ vào giải giáp quân Nhật trên danh nghĩa; nên tiềm lực quân sự của Nhật ở Việt Nam khi đó vẫn rất mạnh cả về quân số (khoảng 100.000 quân) lẫn vũ khí, trang bị hiện đại và vẫn đồn trú nguyên trạng tại các vị trí mà chúng chiếm đóng. Khi đó, Nhật vẫn kiên quyết bám giữ sự thống trị ở Việt Nam; bởi, họ cho rằng: đây là mắt xích kết nối cuối cùng của họ với vùng Đông Nam Á. Mặt khác, nếu Việt Nam giành độc lập, thì Nhật không chỉ bị mất về quyền lợi kinh tế, mà danh dự của họ cũng chẳng còn. Điều đó chứng tỏ không hề có “khoảng trống quyền lực”, như các thế lực thù địch thường rêu rao.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi ở Việt Nam là do sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo và khéo léo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, chứ hoàn toàn không phải là có sự xuất hiện “khoảng trống quyền lực" nào. Thành công vĩ đại đó không phải  tự nhiên mà có, đó là kết quả tất yếu của tiến trình lịch sử, của quá trình chủ động chuẩn bị công phu, chu đáo về mọi mặt. Đó là kết quả đấu tranh bền bỉ, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, với khát vọng độc lập cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên tự “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, chứ không hề ngồi yên trông mong, chờ đợi vào một “khoảng trống quyền lực” nào hết. Trước khi cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra thì nhiều tổ chức chính trị, đảng phái cũng nhìn ra cơ hội xuất hiện và ráo riết chạy đua để giành địa vị chính trị của mình. Song, với vị trí, vai trò và uy tín, đặc biệt là được quần chúng nhân dân tin theo, hết lòng ủng hộ, cuối cùng Việt Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi. Điều này lại càng chứng minh những quan điểm trên của các thế lực thù địch không những hoàn toàn không có cơ sở thực tiễn, mà còn biểu hiện rõ ý đồ xấu xa của chúng.
Nghiên cứu kỹ về lịch sử sẽ giúp mỗi người chúng ta thấy rõ hơn giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; thấy rõ sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, công lao to lớn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hiện nay, cùng với những luận điệu xuyên tạc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những kẻ tự xưng là người “bất đồng chính kiến”, “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”, chống “độc tài toàn trị”,… chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn,  tuyên truyền sai lệch về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta. Vì vậy, nhận diện và kiên quyết đấu tranh vạch trần những quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và mọi công dân, để cùng “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, như Di nguyện thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cách đây 50 năm trước lúc Người đi xa.
Đại tá, ThS. NGUYỄN MẠNH DŨNG



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...