Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

ĐỪNG XÚC PHẠM LỊCH SỬ



.
.
.
Một hôm đang thưởng thức ly cà-phê buổi sáng ở quán quen thì tôi nghe tiếng tranh cãi của một nhóm người nào đó ở quán bên cạnh. Vốn ít để ý đến những cuộc tranh cãi, tuy nhiên, một câu nói lớn vọng lại làm tôi bất ngờ giật mình: “Các ông nên nhớ, tôi là một trong những người đi đánh giặc. Tôi đã từng vào sinh ra tử…”. Sau khi câu nói đó được cất lên, nhìn một lượt xung quanh, tôi càng giật mình hơn khi bắt gặp những nụ cười khẩy của một vài bạn trẻ ngồi trong quán cà-phê về khái niệm “vào sinh ra tử” một cách rất phũ phàng, lạnh lùng. Một câu chuyện tình cờ bắt gặp trong đời sống, vậy mà tôi cũng mang cảm giác rất bận lòng.
Phải thừa nhận rằng, cùng với xu thế toàn cầu hóa, chúng ta dễ dàng nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của cả thế giới, khoảng cách giữa các nước dường như ngắn lại, mức độ cập nhật thông tin gần như là tức thời, sự xâm nhập lẫn nhau về tư tưởng, lối sống giữa các quốc gia là rất lớn. Bên cạnh sự ghi nhận những thành tựu lớn lao trong công cuộc xây dựng đất nước, đâu đó vẫn xuất hiện sự so sánh rồi bi quan về tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nước ta so với các nước trên thế giới. Từ đó, họ luôn miệng ngợi ca về các nước tư bản phát triển…
Có lẽ thế hệ của tôi và các bạn trẻ sau này vinh dự khi mình chưa bao giờ mang thân phận của người nô lệ. Vậy từ đâu mà chúng ta có được điều đó? Chẳng phải là từ kết quả đấu tranh đầy máu xương của thế hệ cha anh - của những “người lính Cụ Hồ”, của những người đi đánh giặc, của những tinh thần quả cảm “vào sinh ra tử” đó sao?! Những bạn trẻ ấy - những bạn đang mỉa mai, cười đùa ấy - các bạn nghĩ đơn giản, nhân dân một nước thuộc địa, một nước bị đô hộ rồi cũng sẽ được hưởng trọn vẹn đầy đủ những sự phát triển của nước đang đô hộ, áp bức mình sao?
Các bạn nghĩ, nhân dân một nước bị nô lệ thì sẽ không bị bóc lột, sẽ được đối xử công bằng, bình đẳng như nhân dân chính nước đang đô hộ, áp bức mình hay sao? Tôi khẳng định với các bạn, nếu không có lịch sử vẻ vang với những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ và các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc để gìn giữ độc lập, tôi và các bạn sẽ không có được ngay cả những phút thảnh thơi bên ly cà-phê mỗi sáng như bây giờ, chứ chưa kể những điều kiện tự do học hành, phát triển sự nghiệp như các bạn đang có.
Trong dòng chảy cuộc sống hằng ngày, đôi lúc có nhiều chuyện xảy ra khiến chúng ta rùng mình mỗi khi nghĩ đến ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Chúng ta sợ, chúng ta cẩn trọng và chúng ta cầu xin sự bình an mỗi ngày. Vậy sao chúng ta không nghĩ đến ngày xưa, thế hệ trước - cũng là con người, cũng có những nỗi sợ rất “người” - nhưng các ông, cha, chú, các cô, các bác… vẫn sẵn sàng cầm súng ra trận, đối mặt với đủ loại vũ khí tối tân và sự tàn bạo của kẻ thù?
Đó là vì họ dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên sự sống của bản thân mình. Biết bao người con của dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường. Có rất, rất nhiều người đến lúc này vẫn nằm dưới đất lạnh sâu, chưa được yên ổn mộ phần và chưa một lần được tưởng niệm dù chỉ là một nén nhang.
Thử tưởng tượng, cảm giác sẽ như thế nào khi tiễn người thân ra đi mà chưa biết có còn được đón họ trở về hay không! Thử tưởng tượng, cảm giác sẽ như thế nào khi mỗi ngày, bản thân mình đều ngắm nhìn trời xanh và tự hỏi, liệu rằng đây có phải là lần cuối được cảm nhận cuộc sống? Đó chắc chắn không phải là cảm giác dễ dàng để chịu đựng.
Vậy nên, hãy trân trọng tất cả những điều đó! Hãy biết ơn tất cả những điều đó thay vì sự sùng bái một cách mù quáng các giá trị vật chất và quay lại phủ nhận lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Hãy nhớ, vẫn còn rất nhiều mẹ già sống trong nỗi cô đơn, cô quạnh và đau đớn khi có tới chín người con trai, một người con rể và chồng đều đã trở thành liệt sĩ.
Có thể hiện nay, nước ta so với nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới vẫn còn nhiều hạn chế và chậm phát triển hơn. Các bạn có thể đồng tình hay không đồng tình với chủ trương này hay chính sách kia, các bạn có quyền bức xúc với nhiều vấn đề tồn tại, thậm chí các bạn có thể đóng góp ý kiến, bày tỏ quan điểm cá nhân; tuy nhiên, các bạn phải suy luận thấu đáo, toàn diện và công bằng để phân định rạch ròi lịch sử - hiện tại, đừng xúc phạm công sức, xương máu của các thế hệ đi trước…
Và trên tất cả, đừng xúc phạm lịch sử!
Đỗ Lan Hương

XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM



Giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức, bất công của thực dân, phong kiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), tức độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH là hoài bão lớn nhất của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người về xây dựng CNXH phát triển(1) để phát triển xã hội và từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH PHÁT TRIỂN
CNXH phát triển là khái niệm đã được Hồ Chí Minh nêu ra. Khái niệm này bao gồm mục tiêu xã hội phát triển tiến bộ và phương pháp thực hiện, nguyên tắc bảo đảm, nhằm đạt được mục tiêu xác định. Xã hội phát triển tức là sản xuất phát triển và xã hội tiến bộ; trong đó, phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội phải gắn liền với nhau. Sản xuất kém phát triển thì xã hội ít tiến bộ, tức các hiện tượng văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội trong quốc gia có biểu hiện suy thoái (thoái bộ). Hồ Chí Minh đã từng nói về những điều này như sau: “Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững”(2)  và “xã hội phát triển không ngừng, tiến bộ cũng phát triển không ngừng. Nếu hôm nay ngừng tiến bộ tức là ngày mai thoái bộ”(3).
Trong xã hội loài người, tồn tại các cộng đồng, tức “nhân dân” - lực lượng bao gồm “công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”(4). Nhân dân là bao gồm tất cả các “cá nhân” (cá thể), “nhóm” (tập thể), “cộng đồng” (xã hội), như những người dân thường, các công dân, tổ chức giới, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo trong “nước nhà”(5) (quốc gia, tổ quốc). Hồ Chí Minh từng nói: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”(6). Từ những điều được phân tích cho thấy rằng, CNXH phát triển là khái niệm nói về cộng đồng các dân tộc đều được sống trong một quốc gia “độc lập” (vật chất sống được bảo đảm công bằng), “tự do” (giá trị sống được bảo đảm bình đẳng) và “hạnh phúc” (tinh thần sống được bảo đảm công lý). Nói cách khác, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phát triển, tức là tất cả cá nhân, nhóm, cộng đồng dân tộc trong quốc gia đều được hưởng “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(7). Theo Hồ Chí Minh: “CNXH nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”(8). Theo đó, trong khái niệm CNXH phát triển, xã hội phát triển được nhìn nhận tương tự như mục tiêu tiến bộ; còn CNXH phát triển được nhìn nhận tương tự như phương pháp, nguyên tắc thực hiện, nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển tiến bộ, xã hội “dân chủ và giàu mạnh”(9).
Xây dựng CNXH phát triển cũng tương tự như xây dựng “con đường phát triển”(15), tức xây dựng, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ, môi trường, nhằm bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CNXH PHÁT TRIỂN
Xây dựng CNXH phát triển ở Việt Nam là, trước hết, đội ngũ “cán bộ” - “cán bộ (trong Đảng và ngoài Đảng)”(10), tức các công chức, viên chức, đại biểu dân cử trong chính quyền, cần phải nhận thức rõ rằng, đây chính là thực hiện “con đường” hay “đường lối cách mạng dân tộc - dân chủ”(11) để bảo đảm phát triển đất nước, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Theo Hồ Chí Minh: “Mục đích của cách mạng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh. Làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang”(12); “làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới”(13) và “thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới, tức là cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân”(14).
Xây dựng con đường phát triển phụ thuộc vào xây dựng “con đường chính trị” của Đảng cầm quyền phải đúng đắn; tức hoạt động chính trị cần phải bảo đảm sự chân thật, hay “thật thà đoàn kết”(16) (đoàn kết thật sự), thể hiện chính trị nhân văn. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính trị là: 1) Đoàn kết. 2) Thanh khiết từ to đến nhỏ”(17). Con đường phát triển phụ thuộc vào “con đường dân chủ”(18), tức phụ thuộc vào chính sách của Đảng và Chính phủ phải “đi đúng đường lối của nhân dân”(19). Người chỉ dẫn cho đội ngũ cán bộ nhận thức đúng đắn mục tiêu xây dựng, cách thức thực hiện con đường của CNXH phát triển “tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau”(20).
Xây dựng CNXH phát triển đặt trọng tâm vào lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Kinh tế là gắn liền với sản xuất, nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh hay “tranh được lợi với thế giới”(21); còn văn hóa là gắn liền với thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí. Do vậy, cần phải gắn chặt tăng gia sản xuất với thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí sử dụng “nhân lực” (sức lao động), “vật lực” (tài nguyên), “tài lực” (tiền vốn) trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Vì thế,  “chúng ta chỉ có thể xây dựng CNXH bằng cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào vào nhà trống. Cho nên phải giữ gìn của công”(22); “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi CNXH, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(23); “tiết kiệm thời giờ đi đôi với tăng năng suất”(24)  và “phải hết sức tránh lãng phí ngày giờ, nhân lực và vật lực của đồng bào”(25).
Xây dựng CNXH phát triển phải “xây dựng những con người của CNXH”(26), tức xây dựng những người có “đạo đức cách mạng”, tư tưởng tiến bộ, không mắc các căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân (nhóm) vị kỷ đẻ ra, như quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tư tưởng lạc hậu, kiêu ngạo, hẹp hòi,“bảo thủ”(27). Hồ Chí Minh chỉ ra các căn bệnh này và cách phòng, chống: “Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”(28); “kết quả của bệnh kiêu ngạo là: thoái bộ, xuống dốc”(29); “bệnh hẹp hòi tỏ ra ở chỗ đối với người ngoài Đảng nhiều khi quá khắt khe, hoặc phớt người ta đi, không chịu bàn bạc, hỏi han ý kiến”(30); “tư tưởng hẹp hòi, thì hành động cũng hẹp hòi, thì nhiều thù ít bạn. Người mà hẹp hòi ít kẻ giúp. Đoàn thể mà hẹp hòi không thể phát triển”(31), nhất là vì “chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính cho nên chúng ta phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ”(32).
XÂY DỰNG CNXH PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH phát triển có ý nghĩa giá trị to lớn trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay. Việt Nam tiến hành xây dựng CNXH đã hơn 40 năm; trong đó, có 30 năm phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tư duy nhận thức về xây dựng CNXH còn nhiều khiếm khuyết. Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu khoa học, lãnh đạo chính trị, xã hội chưa nhận thức rõ thực chất của các từ ngữ, khái niệm có liên quan đến xây dựng CNXH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, nhiều nhà khoa học còn chưa nhận thức, phân biệt rõ mặt “tính chất” (tính từ), “bản chất” (động từ) và “thực chất” (danh từ) của khái niệm nói chung; các khái niệm quyền lực, chính trị, dân chủ, pháp luật, pháp quyền, phát triển xã hội, CNXH, chủ nghĩa cá nhân, kinh tế thị trường nói riêng. Có nghĩa là tư duy “học thuật” (tri thức khoa học) trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội ở Việt Nam còn chưa được phân tích làm rõ về thực chất.
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) đã chỉ ra những bất cập về tư duy nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong các lĩnh vực, như chính trị (chính sách, chính quyền, nhà nước), pháp luật (Hiến pháp, các đạo luật), kinh tế thị trường, phát triển kinh tế thị trường, văn hóa, xã hội. Văn kiện đã chỉ rõ những bất cập đó như sau: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”(33); “sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung chưa rõ”(34); “nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế”(35) và “nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc”(36). Trong khi đó, “nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước”(37), nhất là “chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường”(38)...
Những bất cập về tư duy nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu khoa học xã hội, đặc biệt về tư duy học thuật, mà Đảng đã chỉ ra, xuất phát chủ yếu từ sự hạn chế về nhận thức tính chất, bản chất, thực chất của các khái niệm trong khoa học xã hội. Do vậy, việc nhận thức đúng đắn các khái niệm nói chung, trong đó có khái niệm xây dựng CNXH trong điều kiện phát triển, đổi mới, hội nhập hiện nay là hết sức cần thiết.
Để thực hiện nhiệm vụ Đảng đã đề ra: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(39) và “đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(40), trước hết, theo chúng tôi, cần phải thực hiện một số giải pháp đổi mới tư duy về ngôn ngữ học, phát triển xã hội và xây dựng CNXH như sau:
Một là, đổi mới tư duy về ngôn ngữ học. Đổi mới tư duy về ngôn ngữ học có nghĩa là cần phải nhìn nhận khái niệm theo mô hình cấu trúc thực chất của sự thật như sau: “Bản chất sự thật - thực chất thật - tính chất thật sự(41). Tức khái niệm bao hàm các mặt bản chất (nội dung, bên trong), tính chất (hình thức, bên ngoài) và thực chất (nguyên lý, toàn diện) tồn tại ở giữa. Mô hình cấu trúc thực chất của khái niệm có thể được biểu thị như sau: bản chất bên trong (động từ) - thực chất ở giữa (danh từ) - tính chất bên ngoài (tính từ). Điều đó có nghĩa là, khi một từ, cụm từ được sắp xếp theo đúng quy luật khách quan, thì chúng có thể được nhìn nhận là “khái niệm hoàn chỉnh” (khái niệm vừa thể hiện cả động từ, danh từ, tính từ) hoặc “khái niệm chưa hoàn chỉnh” (khái niệm chỉ thể hiện động từ, danh từ; hoặc danh từ - tính từ). Do vậy, đổi mới tư duy về khái niệm trong ngôn ngữ học có nghĩa là mỗi công chức chính trị, viên chức hành chính, đại biểu dân cử, các nhà khoa học cần phải nhận thức rõ bản chất (bên trong), tính chất (bên ngoài) và thực chất (toàn diện) tồn tại ở giữa của khái niệm. Đây được coi là cơ sở lý luận để đổi mới tư duy nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, phát triển xã hội và xây dựng CNXH nói riêng ở Việt Nam.
Hai là, đổi mới tư duy về phát triển xã hộiPhát triển xã hội hay xã hội phát triển là khái niệm chưa được các nhà khoa học nhận thức thấu đáo, phân tích thật rõ ràng. Phát triển xã hội có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân (cá thể), nhóm (tập thể), cộng đồng (xã hội) của loài người(42). Phát triển xã hội là khái niệm gắn liền với khái niệm tiến bộ xã hội. Phát triển xã hội là cơ sở nền tảng để phát triển đất nước (quốc gia). Phát triển quốc gia là khái niệm biểu hiện thực chất sự cân đối (bình đẳng), cân bằng (công bằng), hài hòa (công lý) về phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Mô hình cấu trúc thực chất của phát triển xã hội, quốc gia có thể được biểu thị như sau: giá trị (bản chất phát triển: thực hiện bình đẳng xã hội) - tinh thần (thực chất phát triển: bảo đảm công lý quốc gia) - quyền lợi (tính chất phát triển: công bằng xã hội). Điều đó có nghĩa, đổi mới tư duy về phát triển xã hội là cần phải nhận thức đúng đắn về tính chất, bản chất, thực chất của phát triển xã hội. Tính chất của phát triển xã hội là nói tới phát triển kinh tế; bản chất của phát triển xã hội là nói tới phát triển văn hóa; còn thực chất của phát triển xã hội là nói tới phát triển quốc gia.
Ba là, đổi mới tư duy về xây dựng CNXH. Đã nhiều năm nay, các nhà khoa học, lãnh đạo chính trị, xã hội ở Việt Nam thường chỉ nói tới xây dựng CNXH mà không nói tới thực hiện CNXH; tức là, CNXH chỉ được nhận thức về mặt xây dựng mục tiêu (tính chất), chứ không được nhận thức về mặt phương pháp (bản chất) và nguyên tắc (thực chất) thực hiện, nhằm bảo đảm đạt được mục tiêu. Do vậy, đổi mới tư duy về xây dựng CNXH, tức là cần nhận thức đúng đắn rằng, đây chính là xây dựng và thực hiện mục đích (mục tiêu) phát triển của CNXH, hay xây dựng CNXH phát triển hướng tới “một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(43)như điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh trong bản Di chúc. Điều đó có nghĩa là, CNXH phát triển cũng tương tự như một con đường phát triển theo quy luật khách quan. Trong con đường này, xã hội phát triển được coi là mục tiêu của cộng đồng quốc gia, dân tộc, còn CNXH phát triển được coi là phương pháp dân chủ, nguyên tắc pháp quyền để thực hiện, nhằm bảo đảm đạt được mục tiêu xã hội phát triển. Nói cách khác, xã hội Việt Nam muốn phát triển nhanh và bền vững, thì cần phải xây dựng “thể chế chính trị - xã hội pháp quyền dân chủ”(44), nhằm thực hiện từng bước các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” như Điều 3 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã nêu ra./.
PGS. TS. NGUYỄN HỮU ĐỔNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VĂN HÓA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC



Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, một trong những yêu cầu bức thiết được đặt ra đối với văn hóa Việt Nam là cần hoàn thiện thể chế văn hóa cho phù hợp với những điều kiện mới, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
1- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của văn hóa, mỗi quốc gia đều có những cách phù hợp để phát triển văn hóa của mình. Ở Việt Nam, kể từ sau Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa nước nhà. Nghị quyết xác định đường lối phát triển văn hóa ở Việt Nam, đó là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp theo tinh thần đó, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” là một bước đi nữa nhấn mạnh đến sức mạnh của văn hóa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, một mặt, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm; mặt khác, phải coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng thời phải xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển bền vững về môi trường và xã hội. Những yếu tố cực kỳ quan trọng này của tiến trình đổi mới đất nước đang và sẽ có tác động lớn đến quan niệm về nội dung và hình thức của quản lý văn hóa.
Thực hiện tinh thần các nghị quyết của Đảng, đến nay hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản pháp quy của Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra đời để hoàn thiện công tác quản lý văn hóa. Lĩnh vực văn hóa, gia đình đã có 5 luật, 1 pháp lệnh, 42 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 98 thông tư, thông tư liên tịch điều chỉnh trực tiếp. Các thiết chế văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm...) và nhất là các nhà văn hóa cơ sở được xây dựng mới ở khắp nơi trên đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Hiện có 38 địa phương có quy hoạch tổng thể, phát triển hệ thống thiết chế văn hóa; có 21/29 địa phương có quy hoạch thiết chế tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cơ chế, chính sách văn hóa ngày càng linh hoạt, nhạy bén, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Văn hóa, nghệ thuật ngày càng đến gần với nhân dân. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát triển theo hướng phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Và trên thực tế, văn hóa, nghệ thuật có tác động lớn đến đời sống tinh thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của người dân.
Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường, hoạt động quản lý văn hóa cũng đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ không ít bất cập, hạn chế; phương thức lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực văn hóa còn chậm được đổi mới. Do đó, sự chậm trễ của chính sách văn hóa có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của toàn xã hội.
2- Để phát triển văn hóa điều quan trọng nhất là phải cải cách thể chế văn hóa mà trước hết là đổi mới về tư tưởng, quan niệm về phát triển văn hóa mới; sau đó là kết hợp giữa phát triển sự nghiệp văn hóa công ích với phát triển các ngành kinh doanh văn hóa, đổi mới các thể chế văn hóa với đổi mới chính bản thân văn hóa.
Trên cơ sở nắm chắc xu thế phát triển văn hóa thế giới ngày nay, nhận thức về quy luật xây dựng văn hóa dưới điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách thể chế văn hóa là sự tiếp tục cải cách thể chế kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế, thể thao... Phát triển văn hóa - xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Điều đó đã đặt ra một loạt yêu cầu mới cho việc xây dựng văn hóa và cải cách thể chế văn hóa.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi chúng ta phải cùng lúc đưa xây dựng văn hóa và xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội vào toàn cục phát triển. Nguyên lý phát triển kinh tế - xã hội hài hòa đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng lực, hình thành tinh thần dân tộc mới, lấy chủ nghĩa yêu nước làm cốt lõi của tinh thần thời đại mới, lấy quan điểm đổi mới toàn diện, triệt để làm hạt nhân tư tưởng nhằm tạo ra sự đoàn kết rộng rãi và phát huy tối đa trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải cải cách thể chế văn hóa một cách mạnh mẽ và khoa học, tiến hành giải phóng sức sản xuất văn hóa nhằm tạo động lực to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa xây dựng văn hóa với xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội.
Cùng với việc nâng cao mức sống vật chất và phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nước ta, nhu cầu văn hóa tinh thần của quần chúng không ngừng tăng lên, đã tạo ra động lực mới cho phát triển văn hóa, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa. Một mặt, quần chúng nhân dân yêu cầu phát triển mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp văn hóa công ích, như đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa công cộng, dịch vụ văn hóa công cộng, bảo đảm được quyền hưởng thụ văn hóa cơ bản, phát triển mạnh mẽ ngành, nghề văn hóa làm phồn vinh thị trường văn hóa, cung cấp nhiều sản phẩm văn hóa mới, đa dạng, phù hợp với thị hiếu của mình. Mặt khác, sự phát triển tự thân văn hóa trong bối cảnh mới cũng đòi hỏi phải phá bỏ sự trói buộc của thể chế quản lý truyền thống để cho tài nguyên văn hóa được sử dụng hiệu quả, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ làm công tác văn hóa được phát huy đầy đủ. Hiện nay ở một số địa phương, nhất là những nơi kết cấu hạ tầng văn hóa công cộng thiếu thốn nghiêm trọng, thiết bị cũ kỹ, cơ sở sản xuất văn hóa thiếu sức sống, các sản phẩm văn hóa nước ngoài ồ ạt tràn vào chiếm lĩnh thị trường, làm cho đời sống văn hóa hỗn loạn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân bị hạn chế, nhiều sản phẩm văn hóa độc hại xuất hiện làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần xã hội. Rõ ràng, cần giải phóng mạnh hơn, hiệu quả hơn nữa sức sản xuất văn hóa. Mà muốn giải phóng sức sản xuất văn hóa thì nhất thiết phải đổi mới thể chế văn hóa, xây dựng thể chế mới vận hành theo nguyên tắc hướng tới quần chúng, hướng ra thị trường. Theo đó, những người làm công tác văn hóa sẽ mang hết tài năng của mình để cống hiến và được trả công xứng đáng, người dân sẽ được hưởng thụ những sản phẩm văn hóa ưu tú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu của cá nhân và cộng đồng.
3- Trên lĩnh vực văn hóa, quá trình triển khai thực hiện đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước đã được thực hiện nghiêm túc ở các cấp, các ngành. 
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục - thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây đựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu. Chỉ số phát triển con người không ngừng được tăng lên: Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Việc thực hiện 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn mà Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” cũng như 5 quan điểm chỉ đạo, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã tạo nên một phong trào sâu rộng trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần to lớn vào củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam để xây dựng và phát triển đất nước. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhân dân được phát huy, dân chủ xã hội được mở rộng. Hệ thống các di sản văn hóa của dân tộc được đầu tư, tôn tạo và phát huy vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Nhiều di tích văn hóa được cộng đồng quốc tế công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tính đến thời điểm tháng 11-2018, cả nước hiện có 26 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh (gồm 8 di sản văn hóa vật thể, 12 di sản văn hóa phi vật thể và 6 di sản tư liệu); 95 di tích quốc gia đặc biệt; 3.447 di tích quốc gia; 249 di sản văn hóa phi vật thể được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 617 nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể; 160 bảo tàng, lưu giữ và trưng bày khoảng 3 triệu tài liệu hiện vật, trong đó có 142 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia. Những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam được giữ gìn, kế thừa và phát huy làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Với sự nỗ lực, cố gắng của các địa phương, đến nay hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đạt được kết quả to lớn: 100% các tỉnh đã có trung tâm văn hóa; khoảng 91% số quận, huyện có trung tâm văn hóa - thể thao hoặc nhà văn hóa; 73,2% số xã có trung tâm văn hóa - thể thao; 74,7% số thôn có nhà văn hóa thể thao. Thực tế đã xuất hiện nhiều điển hình, nhiều bài học kinh nghiệm về tổ chức xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở thông qua việc huy động các nguồn vốn xã hội hóa, huy động công sức, trí tuệ của nhân dân trong đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở. Để triển khai tốt việc xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo các cấp ở địa phương. Đây có thể được coi đó là yếu tố quyết định. Sự quan tâm ấy phải được thể hiện bằng chương trình hành động cụ thể, như quy hoạch đất đai, đầu tư kinh phí... để xây dựng thiết chế văn hóa.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoàn thiện thể chế, chúng ta thấy một số yếu kém sau:
Thứ nhất, việc xây dựng và phát triển văn hóa mới được tiến hành chủ yếu trong lĩnh vực hoạt động văn hóa mà chưa tác động sâu rộng và gắn bó chặt chẽ với kinh tế và chính trị. Các hoạt động kinh tế, nhất là của khu vực ngoài nhà nước và các lĩnh vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thường ít hoặc chưa quan tâm đúng mức tới vai trò của văn hóa trong phát triển. Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế còn nặng về tìm lợi ích kinh tế mà coi nhẹ yếu tố văn hóa và môi trường.
Thứ hai, những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế và chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, gây tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân. Công tác xây dựng môi trường văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội còn hạn chế. Nhiệm vụ xây dựng con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội và sự lan tràn các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mê tín, dị đoan, thấp kém, lai căng, độc hại, trong khi thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có tác động tích cực và sâu sắc đối với việc giáo dục con người. Trong lĩnh vực lý luận - phê bình và sáng tác, còn có những biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong đấu tranh giữa các khuynh hướng tư tưởng trước những tác động phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng giao lưu văn hóa. Xu hướng “thương mại hóa” chạy theo thị hiếu thấp kém trong một bộ phận báo chí, xuất bản, trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
Thứ ba, tình trạng phân hóa trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền, các tầng lớp xã hội gia tăng. Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục.
Thứ tư, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách trên lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, giữa văn hóa và công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị còn chậm và thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác động của văn hóa đối với sự phát triển đất nước.
4- Trước thực tế trên, để hoàn thiện thể chế văn hóa nước ta hiện nay, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số nội dung cơ bản sau:
Một là, đổi mới tư duy quản lý văn hóa dựa trên tư tưởng về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng hệ thống hành chính công hiện đại; từng bước xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền mới theo nguyên tắc các cơ quan nhà nước tập trung phát triển hệ thống thể chế, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng chủ chốt, phát triển nguồn nhân lực bậc cao, tổ chức một số hoạt động và sự kiện văn hóa, nghệ thuật quốc gia.
Hai là, cải cách thể chế văn hóa là một hoạt động có tính tổng hợp, có tính hệ thống cao, thể hiện mối liên hệ, gắn bó nhiều mặt, như lao động, nhân sự, tài chính, thuế, phân phối, bảo đảm xã hội, quản lý hành chính... Do đó, phải tăng cường sự lãnh đạo nghiêm túc, thực thi đồng bộ nhiều biện pháp nhằm tạo ra chính sách đủ mạnh cho cải cách thể chế văn hóa. Trước hết, cải cách thể chế văn hóa phải được tiến hành đồng thời với đổi mới phương thức lãnh đạo văn hóa; nhanh chóng đổi mới tư duy quản lý văn hóa, tạo dựng quan điểm phát triển văn hóa khoa học: không bám lấy tính đặc thù của văn hóa với tư cách là một hình thái ý thức để phủ nhận tính sản nghiệp của nó, đồng thời không vì tính sản nghiệp của văn hóa mà phủ nhận tính hình thái ý thức của nó. Nói gọn hơn, chúng ta phải xử lý chính xác mối quan hệ này. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện cho văn hóa về các mặt xét duyệt hành chính, sử dụng đất đai, mở rộng và quản lý thị trường, đầu tư lưu thông vốn, chính sách ưu đãi, nâng đỡ công nghiệp văn hóa phát triển, kiện toàn pháp chế văn hóa, tạo ra môi trường pháp luật tốt đẹp cho cải cách thể chế văn hóa.
Ba là, Nhà nước bảo đảm vai trò điều hành và quản lý vĩ mô của mình đối với văn hóa. Khi xã hội thay đổi, vai trò và chức năng nhà nước cũng có những biến đổi tương ứng (về tính chất, nội dung, phương hướng và biện pháp thực thi). Để thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, ngành, nghề tự chủ, đơn vị doanh nghiệp sự nghiệp vận hành theo pháp luật. Đây chính là phương hướng cải cách thể chế văn hóa thời kỳ mới.
Bốn là, Nhà nước giao quyền cho các cấp quản lý văn hóa, giao quyền tự chủ cho các ngành cụ thể, phân công trách nhiệm cụ thể, có chế độ giám sát việc sử dụng tài sản văn hóa nhà nước và yêu cầu các đơn vị văn hóa phải chấp hành pháp luật, tuân theo quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước không trực tiếp truyền đạt kế hoạch sản xuất sản phẩm văn hóa mà yêu cầu các đơn vị văn hóa phải căn cứ vào yêu cầu thị trường để hạch toán và cân đối thu - chi. Nhà nước chỉ đặt hàng trực tiếp khi cần thiết đối với những công trình văn hóa công cộng, những sản phẩm văn hóa phục vụ công ích. Từng bước xây dựng cơ chế tự chịu trách nhiệm của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật khi sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa.
Như vậy, sự quản lý của Nhà nước phải được quy phạm hóa, phải đúng pháp luật. Những vấn đề nào mà cơ chế thị trường có khả năng giải quyết tốt thì Nhà nước không cần phải can dự vào. Chỉ những vấn đề cơ chế thị trường không giải quyết được thì Nhà nước mới tham gia và sự tham gia này phải công khai, dân chủ, phải phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường và văn minh tinh thần hiện đại. Điều đó có nghĩa là, chức năng quản lý của Nhà nước phải thay đổi về chế độ xét duyệt hành chính, coi chức năng chủ yếu là phục vụ sự nghiệp văn hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sáng tạo văn hóa, không trực tiếp can dự vào hoạt động văn hóa vi mô và doanh nghiệp. Phải đặt trọng tâm vào quản lý xã hội và giám sát thị trường, thực hiện tốt việc quản định hướng, quản nguyên tắc, quy hoạch, trật tự, cơ chế, chất lượng...
Năm là, đào tạo và phát triển hiệp hội ngành nghề văn hóa và tổ chức môi giới văn hóa có tính chuyên nghiệp cao. Đây là điều chúng ta đang rất thiếu và rất yếu, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập các hiệp định thương mại quốc tế. Một mặt, tăng cường xây dựng hiệp hội ngành nghề, giao chức năng và quyền hạn cụ thể để hiệp hội ngành nghề có tư cách pháp nhân, trở thành tổ chức quản lý ngành nghề hợp pháp, có vai trò “cầu nối” giữa Chính phủ với doanh nghiệp; mặt khác, khuyến khích phát triển các loại tổ chức môi giới văn hóa, lập những tổ chức môi giới văn hóa và tổ chức đại lý, như công ty môi giới văn hóa tổng hợp, công ty môi giới trình diễn, công ty đấu giá nghệ thuật, công ty giới thiệu tài năng trẻ, hình thành cơ chế Chính phủ giám sát chỉ đạo, hiệp hội ngành nghề giám sát quản lý, tổ chức môi giới tự xây dựng quy chế hoạt động tự chủ... Đây là những vấn đề cần được chú ý đúng mức để tạo nên sự chuyển biến trong chức năng quản lý và định hướng văn hóa của Nhà nước trong thời đại ngày nay./.
Theo Tạp chí Cộng sản


Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

SAU NGUYỄN NĂNG TĨNH, CẦN PHẢI LÀM MẠNH TAY HƠN NỮA VỚI NHỮNG ĐỐI TƯỢNG ĐẤU TRANH XUYÊN TẠC NÓI XẤU ĐẢNG, NHÀ NƯỚC



Những ngày qua, sau khi đối tượng Nguyễn Năng Tĩnh bị Cơ quan An ninh điều tra Công an Nghệ An đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 117, BLHS, trên các diễn đàn mạng có một số đối tượng ở Nghệ An đã “kêu gào” thảm thiết cho đối tượng, nhằm gây áp lực cho chính quyền ở Nghệ An phải thả đối tượng, yêu cầu trả tự do cho các tù nhân lương tâm.
Tại địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, đang nổi lên 02 giáo dân là đối tượng tù tha đã có một quá khứ bất hảo khi mang trên mình bản án “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” đó là Đậu Văn Dương, Trần Hữu Đức trú tại xóm 4, xã Nam Lộc. Chúng lợi dụng là thành viên của Ban truyền thông, Giới trẻ của giáo xứ Vạn Lộc thì họ có thể làm bất cứ việc gì trên diễn đàn mạng như chia sẻ, viết bài hay đăng tải những thông tin sai lệch về Đảng, về chế độ, nói xấu các vị lãnh đạo của Đảng hay Nhà nước, tuy nhiên một bộ phận không nhỏ giáo dân và các con em trong giới trẻ trên địa bàn đã chán cái cảnh suốt ngày cứ có một sự việc gì, các đối tượng lại kích động thắp nến cầu nguyện cho những đối tượng đó mà ngay đến cả họ cũng không biết là ai.
Điển hình, như giai đoạn gần đây cả 02 đối tượng đều chia sẻ những thông tin của các tổ chức khủng bố như Việt Tân, RFA, Hội Anh em dân chủ về những việc làm vừa qua của ông Nguyễn Hữu Cầu – Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An, người mà thời gian gần đây là cái tên gây hoang mang, khiếp sợ cho bọn tội phạm trên địa bàn nói chung và các đối tượng đấu tranh chống Đảng và chế độ đòi dân chủ tại Nghệ An nói riêng; ông đã trực tiếp chỉ đạo bắt và xử lý hàng loạt thành viên của cơ sở của Việt Tân như: Hoàng Đức Bình, Lê Đình Lượng, Thái Văn Dung, Đặng Xuân Diệu và mới đây là trường hợp của Nguyễn Năng Tĩnh. Thực sự, nếu như chúng ta cứ làm ăn lương thiện, không vi phạm pháp luật nước CHXHCN Việt Nam thì không có gì phải sợ đến người này, người nọ, không phải lo lắng bị bắt bớ về tội này tội kia. Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam cũng đã quy định rõ ràng về các tội danh cụ thể, chỉ có những kẻ suốt ngày hưởng các đặc ân của chế độ ở Việt Nam nhưng suốt ngày đi tuyên truyền, xuyên tạc chống phá, đi so sánh với những cái hão huyền ở phía bên kia thế giới thì mới lo sợ bị lực lượng chức năng sờ tới.
Cần phải có những hành động có tính răn đe hơn nữa đối với những việc làm mà cả 02 đối tượng này đang ngày đêm chống phá, xuyên tạc. Chẳng lẽ cứ để “con sâu làm rầu nồi canh”, khi chỉ một ít bộ phận xấu này mà ảnh hưởng tới toàn thể giáo dân giáo xứ Vạn Lộc. Đừng để những đối tượng sau khi được tha tù lại coi thường pháp luật, “cào cấu” trên các diễn đàn mạng, lợi dụng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận mà làm ảnh hưởng tới uy danh của pháp luật Việt Nam.
Quốc có quốc pháp, gia có gia quy, không có chuyện thỏa hiệp hay nhượng bộ các hành vi sai trái trên để chúng lộng hành, coi thường luật pháp; thiết nghĩ, nếu như giáo dục, cải tạo không được nữa thì nên tiếp tục tách các đối tượng ra khỏi xã hội, không để chúng lôi kéo con em giáo dân trên địa bàn đi sai con đường của Chúa, của đất nước gieo rắc những quan điểm sai trái, thù địch trên mảnh đất bình yên này./.
Chiến trường mới

GÓP PHẦN ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN INTERNET, MẠNG XÃ HỘI



Nghị quyết 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) xác định: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân”. Để làm được điều đó, việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên môi trường internet và mạng xã hội là một giải pháp quan trọng.
Mục tiêu xuyên suốt không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là khi chúng ta đang chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng càng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách toàn diện, trong đó tập trung vào các lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế, pháp luật, quốc phòng, an ninh, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, v.v. Để thực hiện mục đích, chúng triệt để lợi dụng môi trường internet và mạng xã hội để làm nhiễu loạn thông tin, đưa tin thật giả lẫn lộn hòng làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ trong dẫn dắt đất nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước việc chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách; đồng thời, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên. Để công tác này có hiệu quả, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Để đạt hiệu quả cao, cần quan tâm lãnh đạo kiện toàn, xây dựng phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận chủ lực, nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị. Các cơ quan báo chí cần phát huy vai trò nòng cốt đấu tranh công khai, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, thiết lập các trang, nhóm, tài khoản mạng xã hội nhằm tiếp cận, chia sẻ thông tin tham gia đấu tranh phản bác trên internet, mạng xã hội với các hình thức, phương pháp linh hoạt (công khai, bán công khai); chú trọng chia sẻ thông tin tích cực, bài viết chuyên sâu của các cơ quan báo chí, học viện, nhà trường tạo “dòng chủ lưu” thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”.
Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia các vấn đề cụ thể của xã hội, bảo đảm sự liên kết, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành từ Trung ương đến các địa phương để cùng giải quyết khi có sự kiện xảy ra. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng; phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái thù địch trên internet, mạng xã hội.
Hai là, thường xuyên bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trên mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội. Thực hiện phương châm công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo 35 các cấp cần quan tâm biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo, xây dựng ngân hàng comment làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Duy trì tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp những người có quan điểm khác biệt để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận, thống nhất. Ở từng cấp cần duy trì tốt nền nếp chế độ hội ý cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp đấu tranh. Trong đó, cần chỉ rõ mục tiêu, luận điểm chống phá của các thế lực thù địch trong các tin, bài; cung cấp luận cứ đấu tranh phản bác từ hệ thống ngân hàng đã được biên soạn sẵn làm cơ sở cho lực lượng viết bài tham gia đấu tranh. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, cũng như một số chủ trương, chính sách mới liên quan đến người dùng internet, mạng xã hội (Luật An ninh mạng), lãnh đạo, chỉ huy các cấp chỉ đạo cơ quan chức năng bám sát định hướng của trên chủ động xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể về tư tưởng, kỹ năng, nghiệp vụ, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị và nhân dân.
Ba là, thường xuyên tổ chức các cuộc “diễn tập”, tọa đàm, trao đổi, rút  kinh nghiệm giữa các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị rút kinh nghiệm theo hướng thiết thực, hiệu quả, “cầm tay chỉ việc”. Chú trọng tổ chức một số cuộc “diễn tập” đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên interent, mạng xã hội (từ việc phát đường dẫn bài viết xấu độc, quy định mật danh, ký hiệu để bảo mật thông tin, triển khai các hình thức, phương pháp đấu tranh...), làm cơ sở cho các lực lượng hoàn thiện, phát triển kỹ năng đấu tranh. Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ; được trang bị đầy đủ, vững chắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính đảng, tính khoa học cao.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị điện tử phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Ở tầm vĩ mô: Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin phong phú, hiện đại, có khả năng tiếp cận, xử lý và khuếch tán vào dòng thông tin truyền thông quốc tế lượng thông tin đủ lớn, đủ mạnh để tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước trên thế giới, góp phần vào việc phát huy và bảo vệ lợi ích kinh tế, định hướng chính trị, giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia và chế độ. Ở tầm vi mô: cần tăng cường và đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm phát huy tính hiệu quả của các cơ quan báo chí truyền thông, hòa nhập vào trình độ kỹ thuật thông tin thế giới. Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan, doanh nghiệp liên quan nghiên cứu, tổ chức triển khai hệ thống giải pháp kỹ thuật phù hợp với thông lệ, kinh nghiệm quốc tế để phục vụ việc đấu tranh ngăn chặn, xử lý các nguồn phát tán thông tin tiêu cực, xấu độc, nhất là các quan điểm sai trái, thù địch vi phạm pháp luật Việt Nam trên intenet, mạng xã hội.
Ban Chỉ đạo 35 các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương cần đầu tư xây dựng phòng (ban, tổ) điều hành kỹ thuật phục vụ công tác đấu tranh. Các cơ quan, đơn vị kỹ thuật cần nghiên cứu, đưa vào khai thác sử dụng các phần mềm phục vụ kiểm soát, phân loại thông tin tích cực, tiêu cực trên internet, mạng xã hội liên quan đến cơ quan, đơn vị; cảnh báo luồng dư luận quan tâm và nguy cơ xảy ra biểu tình ở các “điểm nóng”; phát triển Rô bốt mạng tham gia các chiến dịch truyền thông chủ động (phát tán nhiều thông tin tích cực, pha loãng, làm phân tán luồng thông tin tiêu cực, xấu độc), nhất là ở các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông. Quan tâm xây dựng phần mềm tạo lập nhanh các video clip, mạng Mocha phục vụ nhiệm vụ đấu tranh; đồng thời, bảo đảm xây dựng hệ thống máy tính ảo, sim nghiệp vụ phục vụ các lực lượng tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội.
Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng, của hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên, lực lượng chuyên sâu, ... cần được triển khai đồng bộ, có hệ thống, với các chủ trương, giải pháp thiết thực, hiệu quả. Giải quyết tốt những vấn đề cơ bản trên, sẽ góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trước việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đại tá, TS. ĐỖ DUY ÁNH,  Văn phòng Tổng cục Chính trị

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/gop-phan-dau-tranh-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-phan-bac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-/14080.html

BẢN “YÊU SÁCH CỦA NHÂN DÂN AN NAM” - 100 NĂM NHÌN LẠI



Cách đây 100 năm (1919 - 2019), thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành ký tên “Nguyễn Ái Quốc” dưới bức thư kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Tổng thống Mỹ và Trưởng Đoàn đại biểu các nước Đồng Minh thắng trận trong Thế chiến I họp Hội nghị tại Versailles, Pháp1 (sau đây gọi tắt là bản Yêu sách). Bản Yêu sách này, gồm 8 điểm2 được coi là một văn kiện chính trị, pháp lý đầu tiên trong đời sống chính trị của Việt Nam; trong đó, nổi lên hai vấn đề quan trọng nhất: quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ. Bản Yêu sách ra đời đến nay đã 100 năm, nhưng giá trị của nó không bị phai mờ.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ
“Dân tộc” được đề cập ở đây là dân tộc - quốc gia (Nation), chứ không phải dân tộc/bộ tộc/tộc người (Ethnic). Thành phần dự Hội nghị Versailles năm 1919 chủ yếu đại biểu đến từ 27 nước đế quốc trong phe Đồng Minh thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ Nhất (1914 - 1918). Hội nghị bàn nhiều vấn đề, trong đó có việc xác nhận sự thất bại của đế quốc Đức và các đồng minh của nước này; phân chia thị trường thế giới như là chiến lợi phẩm cho các nước đế quốc thắng trận. Một trong những người đồng chủ trì Hội nghị này là Tổng thống Mỹ V.Wilson. Tại Hội nghị, Tổng thống V.Wilson tiếp tục tuyên bố theo tinh thần “Chương trình 14 điểm” đã nêu từ năm 1918 (tâm điểm của Chương trình này là nhằm thiết lập vai trò bá chủ thế giới của Mỹ và chống lại nước Nga Xô viết mới ra đời năm 1917). Tổng thống Mỹ đưa ra những lời rất mỹ miều về quyền dân tộc tự quyết, về quyền dân chủ, … chạm trúng vào tâm lý khát khao nồng cháy đối với những người yêu nước của các dân tộc thuộc địa trên thế giới, trong đó có những người Việt Nam yêu nước đang có mặt tại Pháp năm 1919.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng đối với mỗi dân tộc - quốc gia, bao gồm bốn nội dung làm thành một thể thống nhất của quyền dân tộc cơ bản: (1). Độc lập; (2). Chủ quyền; (3). Thống nhất; (4). Toàn vẹn lãnh thổ. Tất cả các dân tộc - quốc gia trên thế giới, từ cổ chí kim, đều luôn muốn và giữ được quyền này. Đó cũng là điều cơ bản nhất, xuất hiện trong các hiệp định mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia đàm phán và ký kết với các bên liên quan (đơn cử là Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (tháng 7-1954) và Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lâp lại hòa bình ở Việt Nam – Hiệp định Pari, tháng 01-1973).
Tuy nhiên, Bản Yêu sách chỉ là những điều “khiêm tốn”3 đặt trong bối cảnh: “trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự”4. Bởi, chúng ta thấy tuyên bố về quyền dân tộc tự quyết của Tổng thống Mỹ tại Hội nghị Versailles năm 1919 chỉ là trên đầu lưỡi, không có một chút nào về giá trị thực tế. Về sau, trong một loạt bài báo có tên là Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “sau một thời gian nghiên cứu và theo dõi, chúng tôi nhận thấy rằng “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”5.
Đối với quyền tự do, dân chủ, bản Yêu sách bao gồm hai nhóm quyền: (1): Quyền dân chủ trong việc thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Với quyền này, bản Yêu sách đặt ra yêu cầu là việc cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân Việt Nam. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. (2): Quyền tự do của người dân. Bản Yêu sách đề cập việc phải tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. Đòi các quyền tự do báo chí, ngôn luận, lập hội, hội họp, cư trú ở nước ngoài và xuất dương, học tập; thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở các tỉnh cho người bản xứ.
Thật ra, đây chỉ là “những yêu sách khiêm tốn”. Nhưng, cái khiêm tốn (tối thiểu) của những yêu sách đó, đặt trong hoàn cảnh của một dân tộc đang rên xiết dưới chế độ thực dân xâm lược hà khắc thì chúng không còn là khiêm tốn (tối thiểu) nữa mà là ở mức tối đa. Bởi vì dân chủ, tự do ở chế độ thuộc địa nói chung và chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ nói riêng là giá trị quá xa xỉ.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Những nội dung cơ bản của Yêu sách và hành động của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn hợp với lôgíc tư duy và hành động của nhà cách mạng chuyên nghiệp. Cả cuộc đời của Người là đấu tranh cho các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trên con đường đầy gian nan, nguy hiểm ấy, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đem lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân nên đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hiện nay, đất nước Việt Nam đang được hưởng nền hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, dân chủ, văn minh. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực thi quyền dân tộc tự quyết trong một thế giới toàn cầu hóa phức tạp; đồng thời, thực hành quyền dân chủ, tự do ở một đất nước đổi mới vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, vẫn còn một số mặt hạn chế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang cố gắng khắc phục. Đó là lẽ thường của biện chứng cuộc sống, vì không có cái gì trên đời này là tuyệt hảo cả. Cái lý này không chung với những gì mà các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc về tự do, nhân quyền của Việt Nam. Cũng cần khẳng định rằng, một sự vật dẫu có xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ,… bằng những thủ đoạn tinh vi, phương tiện tân kỳ đến đấu, thì nó vẫn luôn giữ nguyên bản chất.
Khi Việt Nam đã thiết lập chế độ chính trị mới do thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), vấn đề quan tâm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Nhà nước ta là thiết lập và thực thi những quyền tự do, dân chủ thật sự của người dân. Trước hết, các quyền đó phải được bảo đảm trong Hiến pháp - bộ luật cơ bản nhất của một quốc gia. Điều này cũng được thể hiện bằng những chính sách cụ thể và chất lượng hoạt động của bộ máy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cả hệ thống chính trị. Tinh thần cơ bản nhất trong cấu tạo quyền lực của đất nước là: tất cả mọi quyền lực và quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Đó là dân chủ theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh: dân là chủ và dân làm chủ, chứ không phải “quan chủ”. Dân là chủ tức là nói về vị thế của dân. Dân làm chủ là nói về trách nhiệm của dân. Đó là quan điểm: Đảng từ trong xã hội mà ra chứ không phải từ trên trời sa xuống, nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho đồng bào sung sướng; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển không phải vì mục đích tự thân mà là vì độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng, mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không, quần chúng sẽ đá đít”6. Người khẳng định: “tiếng dân chính là truyền lại ý trời”7; “người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”8 và người cách mạng phải là người phục vụ nhân dân: “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”9.
Quan điểm thực tiễn của Nhà văn hóa dân chủ Hồ Chí Minh là: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”10. Cán bộ Nhà nước phải: “làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu” và “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”11. Đồng thời, phải “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”12, “Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”13; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”14.
Hiện nay, Việt Nam đang thực thi những quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ trong điều kiện mới - Đảng Cộng sản cầm quyền - quyền này không phải cứ tự nhận mà được, mà do nhân dân ủy thác cho. Những điều về quyền dân tộc tự quyết cũng như quyền tự do, dân chủ mà nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp năm 1919 nêu lên, rõ ràng là có biểu đạt giống nhau ở câu chữ nhưng đặt chúng vào hoàn cảnh rất khác nhau. Khác thì khác, nhưng những giá trị chung vẫn còn nguyên đó. Do thế, hiểu về chúng trong điều kiện hiện nay chắc chắn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Đó là lẽ thường. Nhưng, sẽ không là lẽ thường, khi có những kẻ cứ cố tình hiểu sai, xuyên tạc tình hình tự do, dân chủ của Việt Nam. Đây là những người có cái tâm đen, chống đối sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Tự do là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu, tức là nhận thức được và làm theo đúng quy luật khách quan. Không như thế thì không có tự do đích thực. Tự do đi liền với kỷ cương, pháp luật. Vậy, một loạt quyền tự do nêu trong Yêu sách năm 1919 và hiện nay cần được hiểu như thế nào? Từ bản Hiến pháp (năm 1946) đến bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) đã quy định rõ những quyền về tự do báo chí, tự do lập hội, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng,... cho tổ chức, cá nhân. Trong thực tế, nhiều quyền tự do đang được thực hiện và tiếp tục cụ thể hóa trong chế định của luật pháp. Tuy nhiên, có thể ở chỗ này, chỗ nọ, tổ chức, cá nhân này, tổ chức, cá nhân nọ vi phạm quyền tự do, dân chủ thì đó là những sai phạm cụ thể cần khắc phục, nhưng đó nhất quyết không phải bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã diễn đạt về tự do trong lý lẽ khó ai bắt bẻ được, đó là: tự do bày tỏ ý kiến, tự do thảo luận để tìm ra chân lý, khi đã đạt được đến mức tìm thấy giá trị ấy rồi thì quyền tự do hóa ra quyền phục tùng chân lý, mà chân lý là những gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Chúng ta có thể hiểu rằng, tự do như vậy hoàn toàn và tuyệt nhiên không có chỗ đứng cho những suy nghĩ và hành động kích động bạo lực, phản văn hóa, hy sinh chủ quyền quốc gia, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lật đổ chế độ chính trị nước nhà.
Nhân loại đang ở vào thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (4.0). Đó là điều tuyệt diệu. Nhưng, sự tuyệt diệu này phải dành cho thế giới thiện lương. Đáng tiếc, có nhiều kẻ bất lương đang lợi dụng những thành tựu của thời đại này để mưu tính cho những điều xấu xa, họ tìm mọi cách mượn tự do, dân chủ nhằm làm hỏng giá trị tự do, dân chủ đích thực. Hằng ngày, trên các phương tiện media, trên mạng internet, các thế lực xấu xa này tác oai tác quái, đánh lừa những người thiện lương, nhẹ dạ cả tin nghe theo những lời kích động, dối trá. Đáng chú ý là, những kẻ bất lương kiểu này ở trong nước được sự hậu thuẫn từ các thế lực phản động ở bên ngoài. Vì thế, ngăn chặn, đấu tranh, loại trừ những kẻ bất lương ấy cũng chính là nhằm xây dựng, bảo vệ, phát triển quyền dân tộc tự quyết, tự do dân chủ mà nhân dân ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Đó là trách nhiệm chính trị, dân chủ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị cũng như những người thiện lương, trước hết là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân.
Những giá trị quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ của Nguyễn Ái Quốc kể từ khi bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles năm 1919 đến nay đã xuyên qua 100 năm. Hành trình ấy chưa dừng lại và sẽ mở ra sự thăng tiến, bồi đắp giá trị quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do, dân chủ trong thời kỳ mới. Làm phong phú thêm những giá trị quyền dân tộc - quốc gia tự quyết, giá trị quyền tự do, dân chủ trong tình hình hiện nay là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và những người Việt Nam yêu nước; đồng thời, nó phải đi liền với cuộc đấu tranh với các thế lực xấu xa lúc nào cũng tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
MẠCH QUANG THẮNG
_____________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 469 - 471.
2 - (1). Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; (2). Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; (3). Tự do ngôn luận và tự do báo chí; (4). Tự do lập hội và hội họp; (5). Tự do cứ trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; (6). Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; (7). Thay thế chế độ ra sức lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; (8). Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 469.
4, 5 - Sđd, tr.469, 441.
6 - Sđd, Tập 6, tr. 367.
7 - Sđd, Tập1, tr. 97.
8 - Sđd, Tập15, tr. 622.
9 - Sđd, Tập 7, tr. 50.
10 - Sđd, Tập 4, tr. 21.
11, 12- Sđd tr. 52, 65.
13 - Sđd, Tập 10, tr. 572.
14 - Sđd, Tập 7, tr. 434.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...