Quan
hệ nhà nước và thị trường là vấn đề luôn được quan tâm trong tiến trình phát
triển nền kinh tế thị trường. Việc giải quyết mối quan hệ này trong các nền
kinh tế thị trường khác nhau là không giống nhau, song để giải quyết mối quan
hệ này các nền kinh tế đều dựa trên chủ thuyết phát triển nhất định, từ đó xác
định vai trò nhà nước, thị trường, thể chế hóa, tạo cơ sở, hành lang pháp lý
cho các chủ thể thị trường vận động phát huy hiệu quả.
Định hình mô
hình phát triển kinh tế thị trường
Định hình mô
hình kinh tế thị trường thực chất là xác định mô hình vận hành của nền kinh tế.
Việc xác định mô hình vận hành sẽ là xuất phát điểm đầu tiên cho xử lý quan hệ
nhà nước và thị trường. Với các dạng mô hình đã có trong lịch sử phát triển
kinh tế, cho dù đó là mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay kinh tế thị
trường thì nó cũng sẽ chi phối phương cách xử lý quan hệ nhà nước và thị
trường. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước điều hành nền kinh
tế thông qua các kế hoạch, thị trường đúng nghĩa không tồn tại. Cung cầu về
hàng hóa, về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng được xác lập trên cơ sở kế
hoạch. Trong mô hình kinh tế thị trường, cho dù là theo thị trường tự do hay
thị trường có điều tiết thì ở đó nhà nước và thị trường là hai thực thể luôn
song hành, chỉ khác là thị trường nhiều hay nhà nước nhiều trong các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế mà thôi.
Việc xử lý
quan hệ nhà nước và thị trường trước hết là phải định hình được mô hình kinh tế
thị trường, về thực chất là xác định chủ thuyết tăng trưởng. Hiện nay, các nền
kinh tế trên thế giới đều theo chủ thuyết về nền kinh tế thị trường hỗn hợp, ở
đó cả bàn tay nhà nước và bàn tay thị trường cùng phát huy tác dụng, tất nhiên
liều lượng có khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế và khác nhau
giữa các nền kinh tế do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và truyền
thống lịch sử - văn hóa.
Định hình mô
hình kinh tế thị trường là một quá trình và tùy thuộc rất lớn vào quyết định
của tầng lớp tinh hoa cầm quyền. Ở các nền kinh tế thị trường trên thế giới lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường tự do hay mô hình kinh tế thị trường xã hội do
lực lượng cầm quyền quyết định và ngay bản thân các xu hướng khác nhau trong
các đảng cầm quyền cũng ảnh hưởng đến xử lý quan hệ nhà nước và thị trường.
Trong các thể chế đa đảng truyền thống, các đảng cánh tả khi nắm
địa vị cầm quyền thường đề cao vai trò nhà nước để giải quyết các
vấn đề xã hội, trước hết là gia tăng phúc lợi công cộng. Còn khi
các đảng cánh hữu lên cầm quyền thường có xu hướng đề cao vai trò
của thị trường, thúc đẩy tự do hóa, kể cả tư nhân hóa các doanh
nghiệp nhà nước, các dịch vụ công. Tất nhiên, trong quá trình cọ xát
giữa các đảng phái trên chính trường, đặc biệt là sách lược tập
hợp lực lượng, thì các chính thể khi tuyên bố sử dụng nhà nước hay
thị trường đều rất linh hoạt, không còn tình trạng “nhất biên đảo”
như trong cách làm chính trị truyền thống.
Việt Nam lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ thực
tế là mô hình kinh tế chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp, sau nhiều thập niên tồn tại, đã tỏ ra không còn
sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế. Trong khi đó, kinh
tế thị trường với tư cách là một phương thức sản xuất, đã được chứng minh là có
thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của các
quốc gia, dân tộc, chứ không phải chỉ là tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, thực tế phát triển của các nền kinh tế thị trường ngày càng cho thấy
rõ chính trong quá trình phát triển của mình, kinh tế thị trường luôn luôn tiềm
ẩn những nguy cơ thất bại, bởi nó tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị
truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giàu -
nghèo. Vì vậy, vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và có năng lực
để quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị
trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, cần phải được khai thác có hiệu quả. Thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xây dựng và
thực thi chính là nhằm mục đích làm cho thị trường và Nhà nước trở thành hai
yếu tố bổ sung cho nhau, chứ không phải thay thế, loại trừ nhau.
Xác định rõ
vai trò nhà nước và vai trò thị trường
Xác định rõ
vai trò nhà nước và vai trò thị trường trong mỗi giai đoạn phát triển là nội
dung quan trọng và cũng là yêu cầu tất yếu của việc xử lý quan hệ nhà nước và thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ nhà nước và thị trường là mối
quan hệ cơ bản, giải quyết hợp lý mối quan hệ này sẽ tạo cơ sở cho tăng trưởng
bền vững và hiệu quả.
Điều rõ ràng
là nhà nước và thị trường đều có vai trò quan trọng đối với việc huy động các
nguồn lực và phối hợp các nguồn lực cho tăng trưởng. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn
khác nhau vai trò nhà nước và vai trò thị trường cũng có những biến đổi. Sự
biến đổi này gắn liền với biến đổi của chức năng nhà nước và thị trường.
Trong quá trình
xác định vai trò thị trường, cần chú ý thị trường có những ưu thế trong phân bổ
và khai thác các nguồn lực, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể, cơ chế thị
trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu
quả. Với sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa
khối lượng và cơ cấu của sản suất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu
của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng vạn sản phẩm
khác nhau có thể được thỏa mãn tốt. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải
thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi
phí cao trong quá trình ra các quyết định. Cơ chế thị trường kích thích đổi mới
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất
phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những
phương pháp sản xuất tốt nhất, như không ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ sản
xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng
cao hiệu quả. Cơ chế thị trường thực hiện phân bổ các nguồn lực kinh tế một
cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối
các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ
chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế
được phân bổ một cách tối ưu. Và điều cũng đáng chú ý là, sự điều tiết của cơ
chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng
thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp
thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên,
việc xác định vai trò thị trường cũng phải căn cứ vào sự phát triển cụ thể của
thị trường. Và lưu ý thị trường không phải vạn năng, nó có những hạn chế và
thất bại. Những thất bại của thị trường là tình huống trong đó điểm cân bằng
trong các thị trường tự do cạnh tranh không đạt được sự phân bổ hiệu quả, tức
là ngăn cản “bàn tay vô hình” phân bổ các nguồn lực có hiệu quả. Nói cách khác,
thất bại của thị trường là những trường hợp trong đó thị trường tự do cạnh
tranh không thể sản xuất ra hàng hóa - dịch vụ như xã hội mong muốn. Những thất
bại của thị trường chính là cơ sở để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm
phát huy tính ưu việt và hạn chế mặt trái của thị trường.
Trong khi
xác định vai trò nhà nước cũng lại cần tránh khuynh hướng mở rộng vai trò nhà
nước. Nhà nước nên tập trung vào khắc phục khuyết tật thị trường trên mấy khía
cạnh. Thứ nhất, xây dựng pháp luật, các quy định và quy chế điều tiết
nhằm tạo nên một môi trường thuận lợi và hành lang an toàn cho sự phát triển có
hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Thứ hai, tập trung vào ổn định và
cải thiện các hoạt động kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, như
thuế, tài chính - tiền tệ, lãi suất... Từ đó hạn chế biên độ dao động chu kỳ
kinh doanh, hạn chế thất nghiệp, lạm phát... Thứ ba, thông qua các công
cụ điều tiết để tác động đến sự phân bổ nguồn lực. Thứ tư, thông qua quy
hoạch và tổ chức thu hút các nguồn đầu tư vào kết cấu hạ tầng; xây dựng các
chính sách, các chương trình tác động đến khâu phân phối lại thu nhập nhằm bảo
đảm công bằng xã hội.
Việc xác
định vai trò nhà nước và thị trường trong mỗi giai đoạn phát triển cần căn cứ
vào sự phát triển của thị trường cũng như năng lực của nhà nước. Một khi thị
trường còn chưa phát triển, nhà nước cần tạo lập môi trường và khuyến khích thị
trường phát triển.
Việc xác
định vai trò can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế dù đã được nghiên cứu kỹ
hoặc đã từng thực hiện ở nước khác vẫn có thể có những tác động ngoài mong
muốn. Cách làm đúng đắn là thực hiện trong các dự án thí điểm, đánh giá tác
động, tiến hành những chỉnh lý cần thiết trước khi thực hiện trên quy mô lớn.
Cập nhật thường xuyên các tác động trong quá trình thực hiện.
Ban hành các
chính sách cần thực hiện trên cơ sở các định chế đã được xây dựng. Ngoài các
định chế được xây dựng từ văn bản quy phạm pháp luật, cần coi trọng và phát
triển các định chế tích cực có nguồn gốc lịch sử hoặc truyền thống văn hóa lâu
đời.
Như vậy, vai
trò đúng mức của nhà nước trong một nền kinh tế phải chăng là nhà nước chỉ cần
can thiệp trong các trường hợp thị trường thất bại. Cần chú ý đặc biệt các
trường hợp độc quyền quản lý không hiệu quả đang làm tổn hại nghiêm trọng đến
nguồn lực của đất nước. Các can thiệp cần đúng mức có cân nhắc những hạn chế
của quản lý nhà nước và bao gồm cả các biện pháp cần thiết đối với những ảnh
hưởng tiêu cực có thể. Đồng thời, hết sức cẩn trọng trong cách thực hiện.
Đối với Việt
Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngày càng cụ thể
và rõ vai trò của Nhà nước và thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành
mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của mình để định hướng
và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên,
môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Thị trường đóng vai
trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Thể chế hóa
vai trò nhà nước, vai trò thị trường và quan hệ nhà nước và thị trường
Vai trò nhà
nước và thị trường rất cần được thể chế hóa. Nếu không sẽ dẫn đến chồng chéo và
nhầm lẫn, lấn sân trong quá trình thực thi vai trò nhà nước và vai trò thị
trường trong thực tế.
Trước hết
phải thể chế hóa quyền quản lý điều hành của nhà nước. Thông thường, vai trò
kinh tế của nhà nước được xác lập trong Hiến pháp của các quốc gia. Ở Việt Nam,
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ hơn tính chất, mô hình nền kinh tế; vai trò
quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
tài sản công thuộc sở hữu toàn dân; việc quản lý và sử dụng đất đai; sử dụng
ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác.
Đi liền với
các quy định pháp lý về vai trò nhà nước cần thiết phải xác lập được thể chế
hành chính nhà nước. Thể chế hành chính nhà nước được hiểu là bao gồm toàn bộ
các cơ quan hành chính nhà nước và toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức
năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời quy định
các mối quan hệ trong hoạt động kinh tế cũng như các mối quan hệ giữa các cơ
quan và nội bộ bên trong của các cơ quan hành chính nhà nước.
Thể chế hành
chính nhà nước bao gồm hai bộ phận lớn. Thứ nhất là bộ phận thể chế hành chính
thuần túy, thứ hai là bộ phận thể chế hành chính tác động trực tiếp tới hoạt
động kinh doanh.
Bộ phận thể
chế hành chính thuần túy về hoạt động quản lý nhà nước bao gồm các thể chế
trong các lĩnh vực chính trị, như quản lý quốc phòng, an ninh, ngoại giao; về
hoạt động quản lý nhà nước trong nội bộ hệ thống hành chính, như chế độ làm việc
của các cơ quan hành chính nhà nước; về xây dựng chế độ quản lý văn bản hành
chính; về hiện đại hóa công sở; đào tạo kỹ năng hành chính cho công chức hành
chính, về chế độ bầu cử trong bộ máy chính quyền; quản lý lao động, các hoạt
động dịch vụ công, tổ chức hoạt động, phân công, phân cấp của hệ thống bộ máy
từ Trung ương đến cơ sở; chế độ công vụ, phục vụ nhân dân, các tổ chức hành
chính.
Bộ phận thể
chế hành chính tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh bao gồm các thể chế
về thủ tục đăng ký kinh doanh, cấp các loại giấy phép, chứng thực, chứng nhận,
công chứng cho các hoạt động kinh doanh; sự kiểm soát hành chính, các chế độ
thuế, hải quan, quản lý đất đai...
Hệ thống thể
chế hành chính nhà nước đó có các vai trò:
Một là,
tạo môi trường pháp lý ổn định cho thị trường phát triển và tạo lập lòng tin
với các chủ thể kinh tế. Nhà nước tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh diễn ra hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này.
Hệ thống pháp luật kinh tế của nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn,
nhất quán và kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của
nền kinh tế bấy nhiêu. Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền
kinh tế thị trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ
thống pháp luật để chống lại bạo lực và gian lận bao gồm: hệ thống các quy định
có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng
thanh toán, hệ thống các quy định về tài chính với ngân hàng trung ương và các
ngân hàng thương mại để bảo đảm việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách
nghiêm ngặt...
Trên thực
tế, những nước nào có thể chế nhà nước ổn định, làm cơ sở cho việc tiên liệu
tương lai thì ở những nước ấy có mức độ đầu tư và tăng trưởng cao hơn so với
những nước thiếu thể chế như vậy.
Cùng với
việc tạo môi trường ổn định và tin tưởng, thể chế hành chính nhà nước tạo cơ sở
pháp lý cho thị trường phát triển.Trong hoạt động quản lý nhà nước, thể chế
kinh tế của quốc gia bao gồm hệ thống các quy định của pháp luật định hướng,
dẫn dắt và can thiệp vào các hoạt động kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế quốc
dân vận động theo cơ chế thị trường. Thể chế kinh tế nói trên là nền tảng cơ
bản để mọi chủ thể kinh tế hoạt động một cách hợp pháp. Đó là nền tảng cơ bản
để các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước cần
thiết theo chức năng của mình. Những hoạt động mà các cơ quan hành chính nhà
nước tiến hành nhằm làm cho hoạt động kinh tế định hướng đúng như pháp luật nhà
nước quy định.
Vai trò của
nhà nước, sự can thiệp, điều tiết của nhà nước và thể chế hành chính nhà nước ở
các quốc gia khác nhau là không giống nhau. Ở những nước công nghiệp phát
triển, chế độ kinh tế đa thành phần, thị trường đã được xác lập, thì chức năng
điều tiết kinh tế - xã hội được mở rộng và vai trò của nhà nước trong việc quản
lý khu vực công cộng, các hoạt động xã hội ngày càng tăng. Trong khi đó, ở các
nước đang và kém phát triển, sự can thiệp của nhà nước mạnh hơn và trải rộng
trên nhiều lĩnh vực. Nhiều thể chế hành chính nhà nước can thiệp quá sâu vào
các hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. Sự can thiệp quá mức của nhà
nước và hành chính nhà nước làm cho nền kinh tế vận động không hiệu quả và
trong nhiều trường hợp rơi vào khủng hoảng. Nhiều thể chế hành chính nhà nước
đã tỏ ra lạc hậu so với mức độ vận động, phát triển của kinh tế và đã trở thành
lực cản kinh tế phát triển.
Hai là, định
hướng cho sự phát triển của thị trường. Sự can thiệp của nhà nước thể hiện ở
chỗ là “bàn tay vô hình” của thị trường được định hướng bởi “bàn tay hữu hình”,
mạnh mẽ của chính phủ. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước phải có chọn lọc
(hướng dẫn đầu tư thông qua các ưu đãi thuế, xây dựng hệ thống thể chế tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển các mục tiêu ưu tiên...).
Tuy nhiên,
khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước thì cũng cần cân
nhắc kỹ lưỡng tới cái được - cái mất của sự can thiệp ấy, cần xác định được mức
độ can thiệp của nhà nước đến đâu thì đem lại hiệu quả. Trong các nền kinh tế
hiện đại, vai trò đó của nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định “các
quy tắc trò chơi” để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện
những khuyết tật của thị trường, để bảo đảm tính chỉnh thể của nền kinh tế và
cung cấp những dịch vụ phúc lợi.
Ba là,
hỗ trợ thị trường. Nếu nhà nước muốn thu hút vốn đầu tư thì phải tạo lập được
những chuẩn mực (thể chế) mà các nhà đầu tư mong muốn. Và theo nghĩa đó, các
thị trường (cụ thể là các chủ thể tham gia thị trường) đòi hỏi phải có thể chế
hỗ trợ cho nó.
Thị trường
phát triển cho phép các tác nhân tiếp cận đầy đủ hơn, tốt hơn với các cơ hội và
sự lựa chọn. Thị trường ở các nước có thu nhập thấp thường bị phân khúc, chứa
đựng nhiều rủi ro do hoạt động dựa vào các thể chế phi chính thức, và có chi
phí giao dịch cao do thiếu thông tin, quyền sở hữu không rõ ràng và thiếu quyền
tự do kinh doanh. Thể chế có thể giúp quản lý rủi ro giao dịch thị trường, nâng
cao hiệu quả và khả năng sinh lời thông qua ba kênh chính là: 1- Truyền dẫn
thông tin về các điều kiện thị trường, hàng hóa và các bên tham gia; 2- Xác
định và thực thi quyền sở hữu cũng như các hợp đồng; 3- Tăng áp lực cạnh tranh
trên thị trường.
Thị trường
hoạt động dựa trên nền móng của các thể chế. Khi không có các nguyên tắc cơ bản
của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ đỡ thì thị trường không thể hoạt
động được. Một minh chứng điển hình là các thị trường sẽ không thể phát triển
tốt nếu như không có sự thừa nhận và tôn trọng quyền sở hữu từ phía nhà nước.
Điều hành xử
lý trong thực tiễn quan hệ nhà nước và thị trường
Xử lý mối
quan hệ nhà nước và thị trường không chỉ dừng ở xác định vai trò và thể chế hóa
vai trò nhà nước và thị trường mà còn được thể hiện ở việc xử lý trong thực
tiễn. Việc xử lý trong thực tiễn mối quan hệ này phụ thuộc rất quan trọng vào
bộ máy nhà nước cũng như sự chủ động của các chủ thể trên thị trường.
Như phần
trên đề cập đến vai trò của thể chế nhà nước, nếu có một bộ máy nhà nước làm
việc hiệu quả thì việc xử lý quan hệ nhà nước và thị trường cũng sẽ hợp lý.
Thông thường người ta hướng đến một nhà nước pháp quyền trong đó việc quản lý
và điều hành đều dựa trên quy định luật pháp. Cùng với sự phát triển của xã
hội, vai trò nhà nước trong thực tiễn hướng đến hỗ trợ, định hướng cho sự phát
triển của thị trường, mà ngày nay gọi là nhà nước kiến tạo phát triển.
Việc điều
hành xử lý trong thực tiễn mối quan hệ này chính là phải xử lý dưới góc nhìn
của hàng loạt các mối quan hệ, tương ứng với vai trò, chức năng mà nhà nước hay
thị trường thể hiện. Có thể nêu các mối quan hệ cơ bản sau:
Thứ nhất,
quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện.
Mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Như vậy xét về mặt kinh tế, mục tiêu phát
triển chính là xây dựng nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Đây chính là
chức năng kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước đây, trong nền kinh tế
tập trung bao cấp, để thực hiện chức năng kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tự
biến mình thành một tổ chức siêu kinh tế, không chỉ dừng lại ở hoạt động quản
lý, nhà nước còn tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất và phân phối sản
phẩm. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà
nước thực hiện xây dựng hệ thống pháp luật và sử dụng các công cụ kinh tế để
điều tiết nền kinh tế thị trường. Thị trường được xem như phương tiện, để qua
đó nhà nước hiện thực hóa nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn
phát triển cho thấy, thị trường và cơ chế thị trường là phương tiện hiệu quả
nhất để khai thác, huy động các nguồn lực cho tăng trưởng. Nói cách khác, muốn
duy trì sự phát triển xã hội, hay muốn thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhằm tạo
nền tảng kinh tế của một xã hội mới phải lựa chọn phương tiện có khả năng khai
thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực xã hội. Và cũng chỉ có nhà nước xã hội
chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mới bảo đảm cho thị
trường phát huy tác dụng trong tạo dựng nền tảng kinh tế của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Ở phương diện này có thể thấy giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu và
phương tiện, xét dưới góc độ kinh tế chính là giải quyết quan hệ nhà nước và
thị trường.
Thứ hai, xử
lý quan hệ nhà nước và thị trường trong thực tế phải xử lý quan hệ giữa chính
trị với kinh tế.
Trên bề mặt
xã hội, biểu hiện dễ nhận thấy nhất của chính trị là nhà nước với cấu trúc
tương ứng của nó. Về phương diện kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường,
biểu hiện tập trung của mặt kinh tế là hoạt động của thị trường với các quy
luật kinh tế đặc trưng của nó, như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy
luật cung cầu. Các quy luật của nền kinh tế thị trường vận động tạo ra nhiều
tác động tích cực đồng thời cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực. Để phát huy
các tác động tích cực, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực của các quy luật
kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường gây ra, đòi hỏi phải có vai trò
của nhà nước. Đến lượt nó, bản thân việc can thiệp của nhà nước cũng có những
hạn chế. Vì thế, cần có vai trò của thị trường. Với ý nghĩa đó, việc xử lý mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện tập trung thành mối quan hệ giữa
nhà nước và thị trường. Trong đó trước hết nhà nước vừa thực hiện chức năng
chính trị của kiến trúc thượng tầng, vừa thực hiện chức năng kinh tế của cơ sở
hạ tầng. Nghĩa là nhà nước vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị tương ứng của mình,
vừa thực hiện nhiệm vụ kinh tế gắn với hoạt động của thị trường.
Về nhiệm vụ
chính trị, nhà nước trước hết phải thực hiện việc duy trì sự tồn tại của chính
bản thân mình. Về nhiệm vụ kinh tế, nhà nước phải thực hiện các chức năng kinh
tế để thúc đẩy sự phát triển nói chung của xã hội. Do đó, có thể hình dung,
việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, hay giữa nhiệm vụ kinh
tế và nhiệm vụ chính trị, trên thực tế, tập trung ở việc xác định rõ chức năng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước và thị trường tuy là một
thể thống nhất trong nền kinh tế thị trường, song chức năng của nhà nước và
chức năng của thị trường lại có sự phân biệt. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, giới hạn của việc phát huy vai trò kinh tế của nhà nước thể hiện ở chỗ
nhà nước trong khi thực hiện chức năng của mình không được làm méo mó các quan
hệ tích cực của thị trường. Cũng như thế, việc phát huy vai trò của thị trường
không nhất thiết phải tạo ra những khoảng cách phân hóa ngày càng nới rộng biên
độ, từ đó gây bất bình đẳng quá mức trong xã hội. Sự bất bình đẳng quá mức đến
lượt nó sẽ làm triệt tiêu những thành tựu nhờ tác động tích cực của các quy
luật thị trường.
Thứ ba, quan
hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
Thực chất
đây là quan hệ giữa nhà nước với tư cách người quản lý vĩ mô với các chủ thể
trên thị trường. Nhà nước phải tạo dựng “luật chơi” và giữ cho “luật chơi” được
tuân thủ. Nhà nước thực hiện vai trò quản lý thông qua ban hành các văn bản
pháp luật dẫn dắt thị trường, đồng thời thông qua bộ máy với đội ngũ công chức
được đào tạo với các nhiệm vụ chức năng cụ thể trong các lĩnh vực. Việc thực
thi vai trò phải trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị trường, có như vậy
mới không làm méo mó thị trường và phát huy được vai trò của các chủ thể.
Thứ tư, xử
lý quan hệ nhà nước và thị trường dưới góc nhìn quan hệ giữa cái chủ quan và
cái khách quan.
Thị trường
vận hành theo các quy luật khách quan, vốn có, như quy luật giá trị, quy luật
cung - cầu, cạnh tranh... Trong công tác quản lý kinh tế, nhà nước phải dựa vào
thị trường để tính toán, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch phát triển. Việc tổ chức mở rộng thị trường mà không có sự điều
tiết của công cụ quản lý tất yếu dẫn đến sự rối loạn trong hoạt động kinh
doanh. Nhận thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị trường theo
ý muốn chủ quan, duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đồng nghĩa với việc
đi ngược lại các hệ thống quy luật kinh tế vốn có trong thị trường. Nói cách
khác, hoạt động của nhà nước thông qua bộ máy quản lý của nó ban hành các quy
định can thiệp, điều tiết thị trường là hoạt động chủ quan của con người. Sự
can thiệp này không làm méo mó thị trường, mà tạo điều kiện cho thị trường phát
huy hiệu quả, mở rộng tăng trưởng.
Như vậy xử
lý quan hệ nhà nước và thị trường dưới góc nhìn quan hệ giữa cái chủ quan và
khách quan đặt ra yêu cầu nhà nước phải căn cứ vào thực tiễn thị trường để ban
hành các quy định phù hợp. Khi thị trường chưa phát triển, nhà nước cần hệ
thống các quy định để tạo điều kiện cho thị trường phát sinh, phát triển, nhà
nước không được phó mặc cho thị trường, hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ
thị trường. Vấn đề là phải có sự phối hợp tốt giữa yếu tố khách quan của cơ chế
thị trường và yếu tố chủ quan của quản lý nhà nước theo mục tiêu nhất định.
Thứ năm, xử
lý quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường.
Xử lý quan
hệ nhà nước và thị trường cũng chính là bảo đảm các chủ thể trên thị trường
hoạt động bình đẳng. Lúc này nhà nước với tư cách là một chủ thể trên thị
trường cũng phải tuân thủ “luật chơi” theo cơ chế thị trường.
Cơ chế thị
trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế trong việc hình
thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Sự
tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản xuất,
với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để quyết định
ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
Dưới tác
động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận yếu thế bị gạt ra
khỏi cuộc chơi, mà bản thân nhà nước với chức năng xã hội cũng không bao trùm
được hết. Chính vì vậy, trong xử lý quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường
lúc này rất cần vai trò tham gia giám sát của xã hội, thậm chí xã hội tham gia
cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận. Như vậy, để xử lý tốt quan hệ giữa các chủ thể
trên thị trường rất cần vai trò của xã hội được thể hiện thông qua các tổ chức
xã hội mang tính chất tự nguyện, phi lợi nhuận.
Thứ sáu, xử
lý quan hệ nhà nước và thị trường trong hoạt động kinh tế cụ thể, như việc phân
bổ nguồn lực, phân phối kết quả của tăng trưởng...
Để đạt mục
đích phát triển của mỗi quốc gia, nhà nước phải có quy hoạch và chiến lược phát
triển, sử dụng các nguồn lực, bảo đảm làm sao để có sự tương thích giữa tăng
trưởng với bảo vệ môi trường, giữa sự khai thác phát triển ở giai đoạn này
không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau, nói cách khác phải bảo
đảm sự phát triển bền vững. Trong khi đó, yêu cầu của tăng trưởng phải bảo đảm
tính hiệu quả, hoạt động sản xuất phải có lợi nhuận, muốn vậy phải tuân thủ các
quy luật kinh tế, sản xuất, kinh doanh không thể không theo tín hiệu của thị
trường, phải theo cơ chế thị trường. Như vậy, phân bổ nguồn lực phải theo cơ
chế thị trường song phải bảo đảm định hướng phát triển của quốc gia.
Phân chia
các kết quả của tăng trưởng cũng cần có sự phối kết hợp của nhà nước và thị
trường trong quá trình phân phối để vừa bảo đảm động lực sản xuất, vừa giảm sự
bất công bằng, bảo đảm quyền con người. Cho nên, trong trao đổi, giá cả phải
trên cơ sở thị trường và trong phân phối phải bảo đảm nguyên tắc thị trường
trong phân phối lần đầu và nhà nước can thiệp trong phân phối lại để bảo đảm sự
công bằng, bình đẳng, giảm phân hóa giàu nghèo.
Như vậy, xử
lý quan hệ nhà nước và thị trường cần được xử lý ngay trong quá trình xác lập
quy hoạch, chương trình và chính sách phát triển, trong quá trình sản xuất hàng
hóa, dịch vụ, cũng như trong quá trình trao đổi và phân phối nguồn lực và kết
quả sản xuất; đồng thời được xử lý cả trong quá trình tiêu dùng hàng hóa và
dịch vụ được sản xuất ra.
Điều chỉnh
và hoàn thiện
Môi trường
và điều kiện kinh doanh luôn biến động, cùng với đó chức năng của nhà nước cũng
như của thị trường cũng có những thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội. Do vậy, trong quá trình xử lý mối quan hệ nhà nước và thị trường
sẽ nảy sinh những yêu cầu mới, cũng như những bất cập cần có sự điều chỉnh cho
hoàn thiện và hợp lý.
Nguyên tắc
của điều chỉnh là bảo đảm hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xu
hướng chung ngày nay là chuyển từ nhà nước trực tiếp can thiệp sang nhà nước
kiến tạo phát triển. Điều đó không có nghĩa giảm đi vai trò nhà nước mà chỉ là
chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp.
Những bất
cập trong xử lý mối quan hệ này thường gắn liền với sự thay đổi môi trường, kéo
theo sự thay đổi chức năng của nhà nước. Trong các quốc gia, khi thị trường còn
chưa phát triển đầy đủ, nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ cho sự sinh
thành và phát triển đồng bộ của các loại thị trường. Nhất là khi môi trường
kinh doanh thay đổi, không chỉ trong phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở rộng phạm vi
thị trường khu vực và toàn cầu, đòi hỏi phải có những điều chỉnh trong xử lý
quan hệ nhà nước và thị trường, bởi lẽ không chỉ điều kiện thị trường thay đổi
mà cả chức năng nhà nước cũng có sự thay đổi. Cụ thể, trong điều kiện toàn cầu
hóa đã đặt ra yêu cầu sự cần thiết phải hợp tác giữa các nhà nước, điều này dẫn
tới sự biến đổi các chức năng của nhà nước.
Nhà nước vẫn
hiện diện mạnh mẽ trong đời sống xã hội, nhưng vai trò và vị trí của nó có phần
khác trước. Mặc dù nhà nước vẫn là thực thể bảo đảm sự gắn kết xã hội và bảo
đảm an ninh, nhưng hoạt động này đã phải tiến hành trong một khuôn khổ khác
trước, nhà nước phải điều đình, dàn xếp với các chủ thể khác để giải quyết
nhiều công việc thay vì áp đặt một chiều bằng các mệnh lệnh hành chính. Có thể
thấy, vai trò và vị trí của nhà nước trong các mối quan hệ xã hội đã thay đổi,
nhà nước không còn là “bề trên” mà trở thành đối tác của các chủ thể khác, đây
chính là quan niệm mới về nhà nước.
Chúng ta đều
biết, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở nhiều quốc gia, nhà nước đóng vai trò
ổn định và hoạch định kinh tế vĩ mô, tái thiết quốc gia và tái phân phối, cung
cấp phúc lợi cho công dân. Để đảm đương được vai trò này, nhà nước cần kiểm
soát nguồn lực thông qua vai trò sở hữu những ngành công nghiệp quan trọng, can
thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Từ những năm 70 của thế kỷ XX, vai trò này của
nhà nước giảm sút do lạm phát, thất nghiệp, quá tải ngân sách. Do vậy, quá
trình tư nhân hóa xuất hiện và chuyển đổi vai trò cung cấp dịch vụ từ khu vực
công sang khu vực tư. Quá trình này đòi hỏi sự giám sát của bên thứ ba và sự
tham gia của khối tư nhân vào việc hoạch định và thực thi chính sách. Nhà nước
phải tạo điều kiện cho chủ thể mới ngoài nhà nước tham gia “cuộc chơi”, “luật
chơi”. Điều này buộc nhà nước phải chuyển đổi mô hình từ nhà nước mệnh lệnh,
nhà nước phúc lợi sang nhà nước điều tiết.
Một trong
những nguyên nhân dẫn tới sự chuyển dịch sang mô hình nhà nước điều tiết là tác
động của quá trình toàn cầu hóa dẫn đến sự thay đổi không gian, đối tượng điều
tiết của nhà nước từ trong phạm vi quốc gia đến toàn cầu và sự thay đổi cách
thức tác động đến thị trường toàn cầu hóa do sự phát triển của khoa học và công
nghệ.
Bên cạnh sự
thay đổi chức năng nhà nước, sự phát triển và hoàn thiện của thị trường, cũng
như sự thay đổi của các điều kiện thị trường cũng làm cho việc xử lý quan hệ
nhà nước và thị trường cần có điều chỉnh và hoàn thiện. Đáng chú ý nhất là đối
với các nước đang phát triển, ở đó thị trường chưa thực sự phát triển, nên quan
hệ nhà nước và thị trường cũng có những nét khác biệt. Thậm chí nhà nước còn
đóng vai trò tạo môi trường và điều kiện cho thị trường phát triển. Hay một khi
điều kiện thị trường thay đổi, trong các giai đoạn khủng hoảng thì việc xử lý
quan hệ nhà nước và thị trường cũng phải có điều chỉnh để vực dậy thị trường,
tạo cơ hội, môi trường cho thị trường, cho các chủ thể trên thị trường phát
triển.
Rõ ràng là
việc điều chỉnh và hoàn thiện việc xử lý quan hệ nhà nước và thị trường là tất
yếu gắn liền với những thay đổi chức năng nhà nước và điều kiện thị trường. Sự
điều chỉnh không chỉ ở sự gia tăng vai trò nhà nước hay gia tăng vai trò thị
trường cho phù hợp bối cảnh cụ thể, mà còn ở cách thức can thiệp của nhà nước
vào thị trường cũng có sự điều chỉnh theo hướng nhấn mạnh hơn đến vai trò gián
tiếp, vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển./.
Vũ Văn HàPGS,
TS. Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét