Thứ Ba, 25 tháng 9, 2018


LẬT TẨY CHIÊU TRÒ CỦA NHỮNG KẺ KÍCH ĐỘNG ĐÃ KÊU GỌI
CÁI GỌI LÀ “TỔNG BIỂU TÌNH”
Một vài đối tượng cực đoan, phản động ở nước ngoài, từ đầu tháng 8-2018 đến nay, trên nhiều trang web, mạng xã hội đã đưa ra cái gọi là phát động cuộc “Tổng biểu tình toàn quốc vào dịp 2-9”. Chúng hô hào, vu cáo rằng “Luật An ninh mạng, Luật Đặc khu và nhiều đạo luật là “hành dân”, “hại nước”… nên cần phải có một đợt “tổng biểu tình”. Chúng kêu gọi “ngày 2-9, cả nước xuống đường” và hướng dẫn các thủ đoạn như làm kẹt xe, tạo sự tê liệt toàn thành phố, thậm chí phá cầu, chiếm công sở, đốt xe cộ, Quốc kỳ, dùng gạch đá, bom xăng… Chúng đưa ra những mỹ từ như yêu nước, tự do, nhân quyền, hạnh phúc để kêu gọi người dân làm những việc như: Viết bài nói xấu Đảng, Nhà nước trên mạng xã hội; chia sẻ hình ảnh, clip sau khi tham gia.
Kêu gọi “tổng biểu tình” không phải là chiêu trò gì mới. Chúng đã nhiều lần sử dụng hình thức này để lôi kéo, kích động người dân song đều thất bại, chỉ lôi kéo được một số ít người nhẹ dạ, cả tin hoặc cực đoan tham gia. Những chiêu trò không mới này gắn với một thủ đoạn chống phá lâu dài, nhằm tạo ra những điểm nóng chính trị-xã hội, từng bước kích động, lôi kéo, gây rối, phá hoại hòng tạo cớ gây ra bạo loạn chính trị theo mô hình cách mạng đường phố, “cách mạng hoa nhài”…
Lôi kéo, kích động người dân vào dịp 2-9 vửa qua, các thế lực thù địch có ý đồ rất nham hiểm hòng tạo ra điểm nhấn sự kiện … Chúng cũng nhằm đúng vào dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh, Tết Độc lập để công phá vào những giá trị tinh thần, niềm tự hào lớn lao của đất nước, hòng phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của hòa bình, độc lập, tự do, làm mơ hồ nhận thức của thế hệ trẻ.
Nhưng chúng đã lầm. Dịp 2-9 hằng năm cũng là dịp cả đất nước, cả dân tộc hân hoan, náo nức mừng đón Tết Độc lập. Đó cũng là dịp thường có những ngày nghỉ dài, mỗi người, mỗi nhà có dịp đoàn tụ hoặc đi vui chơi, nghỉ dưỡng. Nhân dân Việt Nam đang được hưởng thụ những giá trị đích thực của hòa bình, tự do, độc lập mà Cách mạng Tháng Tám vĩ đại từ mùa Thu lịch sử 73 năm trước mang lại. Lịch sử đã sang trang, đất nước đã và đang đổi mới từng ngày. Dẫu vẫn còn không ít khó khăn và cả những bất cập, thách thức, hạn chế phải đẩy lùi, khắc phục, nhưng không thể phủ nhận được niềm tự hào, giá trị thực tiễn và tinh thần to lớn của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9. Trong những ngày mùa Thu lịch sử này, thế hệ trẻ còn có dịp được nghe thế hệ cha anh mình, lớp người từ trong nô lệ đã vùng đứng lên năm xưa kể lại bao bài học phải khắc cốt ghi tâm. Đó là bài học về sự đoàn kết, bài học về chớp thời cơ cách mạng, bài học về niềm tin theo sự lãnh đạo của Đảng… Nhưng trong đó, có một bài học vô giá là bài học về sự đề cao cảnh giác, không một chút lơi lỏng để gìn giữ hòa bình, độc lập.
Cuối năm 1945 đầu năm 1946, chính quyền non trẻ ở vào thế “ngàn cân treo sợi tóc” và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng bao lớp người tiền bối đã tỉnh táo, cảnh giác như thế nào để chèo lái con thuyền đất nước? Trong những ngày gian khó ấy, từng có không ít lời có cánh, những chiếc bánh vẽ được bày ra để lôi kéo, lừa phỉnh, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh và những nhà cách mạng tiền bối đã không mất cảnh giác, không đánh mất sự độc lập, tự chủ. Bài học đó nhắc nhở chúng ta ngày hôm nay phải biết trân trọng thành quả cách mạng của cha ông. Mỗi giây phút hòa bình, độc lập ngày hôm nay đã phải đánh đổi bằng máu xương, nước mắt của biết bao thế hệ, biết bao triệu người Việt Nam yêu nước. Chúng ta không mơ hồ, ảo tưởng để dễ dàng tin theo, nghe theo những lời dối gian, sàm bậy, dù chúng có núp dưới những cái mũ hoa hòe hoa sói lòe loẹt mang danh tiến bộ, thức thời! Bài học nổi tiếng mà V.I.Lênin từng đúc kết: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta.
Lời kêu gọi “tổng biểu tình” cùng với những hành vi tán phát thông tin, kích động lôi kéo người dân chính là hành vi vi phạm pháp luật, cần phải bị đẩy lùi và xử lý nghiêm minh. Đặc biệt, không gian mạng phải được gìn giữ, bảo vệ không để kẻ xấu lợi dụng, biến đó thành môi trường phá hoại sự yên bình của đất nước. Mỗi người dân, mỗi cư dân mạng cần kịp thời vạch trần, đấu tranh, tẩy chay và báo cáo kịp thời với cơ quan chức năng những thủ đoạn lôi kéo đó. Đối với các cơ quan pháp luật và chính quyền cơ sở, cần chủ động hơn, kiên quyết hơn để nhanh chóng phát hiện và xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm; có phương án phòng ngừa, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, không để kẻ xấu thực hiện âm mưu biểu tình, gây rối và kích động phá hoại.
Q.C 504



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Ở VIỆT NAM CHO NÊN Ở VIỆT NAM CHỈ CẦN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ ĐỦ KHÔNG CẦN HỌC CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Đại Nguyễn
Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư tưởng nhân loại; là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trên toàn thế giới trong đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để và được đánh dấu bằng luận điểm nổi tiếng của Người: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[1].
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh có bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, “muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lênin”. Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, Người luôn xem chủ nghĩa Mác – Lênin là cẩm nang thần kỳ, là ngọn đèn soi sáng, đồng thời với đó là kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất, quyết định đến việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ, nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác - Lênin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong nhận thức cũng như hành động không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minhchủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam, từ đó đưa ra lập luận sai trái rằng ở Việt Nam chỉ cần học tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ không cần học chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là một luận điểm hoàn toàn sai lầm, xuyên tạc bản chất, nguồn gốc, mục đích là nhằm xóa bỏ mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới hạ thấp vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tương lai gần.
 Từ trước đến nay, đặc biệt Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức IX của Đảng cũng đã ghi rõ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Xét về nguồn gốc quyết định, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Và cũng chính Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu những giá trị của các học thuyết trong lịch sử. Người nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội…Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Điều đó đã minh chứng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự chắt lọc, hòa quyện, kế thừa những giá trị, hạt nhân hợp lý của các học thuyết và Người còn góp phần bổ sung, phát triển nhiều luận điểm mới, làm cho kho tàng lí luận thêm phong phú hơn.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng của Mác - Lênin, bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại phương Đông, phương Tây, đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó, không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh chínhchủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam.
Ngay sau khi tiếp cận được với chủ nghĩa Mác – Lênin (1920), trở thành một đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đông. Do đó, theo Hồ Chí Minh cần phải có sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”[2]. Điều này đã khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin không phải bất biến, khuôn mẫu để vận dụng một cách nguyên xi, giáo điều, mà theo Người cần thiết phải bổ sung những luận điểm mới trên cơ sở thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Có như vậy thì mới làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin thực sự phát triển và có giá trị ở tầm cao hơn, sáng tạo hơn gấp nhiều lần.
Chắc hẳn, chúng ta còn nhớ vào ngày 15 tháng 7 năm 1969, nghĩa là chỉ gần 2 tháng trước khi Người qua đời, trong bài trả lời phỏng vấn đồng chí Sác lơ Phuốc ni ơ, phóng viên Báo Nhân đạo (Pháp) về vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Về phần chúng tôi, chính là do cố gắng vận dụng… một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam…mà giành được thắng lợi to lớn…Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều yếu tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng…trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là Chủ nghĩa Mác-Lênin”[3]. Điều đó đã minh chứng sát thực nhất cho việc nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh ở Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở căn cứ khoa học.
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là cả quá trình gắn với hoạt động thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết phải nắm vững “cái cốt lõi”, “linh hồn sống” của nó là phương pháp biện chứng; học tập “tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
 Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận nhất quán của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa Mác – Lênin đã thể hiện sâu sắc tư duy độc lập, tự chủ, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn quá trình cách mạng ở Việt nam. Người đã vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và đã đưa vào nhiều luận điểm mới, góp phần phát triển phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin cho đến tận ngày nay. Vì vậy, cần phải nhận thức đúng các giá trị, tư tưởng, quan điểm của Người và đấu tranh với quan điển sai trái cho rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minhchủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam. Đây là một luận điểm hoàn toàn sai lầm, nhằm xóa bỏ nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới hạ thấp vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay./.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tâp 1, NXB. CTQG – ST, H.2011, tr. 9.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tâp 1, NXB. CTQG – ST, H.2011, tr. 509.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tâp 15, NXB. CTQG – ST, H.2011, tr. 589 -590.


PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỈ LÀ SỰ RẬP KHUÔN MÁY MÓC CÁC QUAN ĐIỂM
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN
                                                                                                   Đại Nguyễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam, Người đã có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho tàng tư tưởng – lí luận của dân tộc và nhân loại. Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; Người còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng của Người. Vậy nhưng trong thời gian gần đây lại xuất hiện một số quan điểm, luận điệu sai trái cho rằng: Không có tư tưởng Hồ Chí Minh, có chăng thì tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng quan cũng chỉ là sự sao chép chủ nghĩa Mác - Lênin một cách dập khuôn máy móc; hoặc chỉ là sự khéo tưởng tượng của Đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi. Trước những luận điệu xuyên tạc như vậy, mỗi người dân Việt Nam nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng cần có nhận thức đúng, nắm chắc cơ sở, quan điểm, tư tưởng, cũng như những sáng tạo to lớn của Người để đập tan những hành động sai trái chống phá hiện nay của các thế lực thù địch.
Xét về tư duy, quá trình nhận thức của Đảng, ngay từ rất sớm Đảng ta đã nhìn nhận, đánh giá và chỉ ra sự cần thiết phải học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là Di sản và tài sản vô cùng to lớn và có giá trị bền vững, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”. Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI cũng chỉ rõ:  “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”. Điều đó đã minh chứng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sự sao chép nguyên xi hay tiếp thu cứng nhắc, giáo điều, sách vở, rập khuôn máy móc. Người tiếp thu trên cơ sở những giá trị với một thế giới quan, phương pháp luận khoa học, để làm cơ sở luận cứ của quá trình cách mạng. Bên cạnh đó Người còn đưa thêm vào nhiều nội dung, luận điểm mới, sáng tạo góp phần phát triển phong phú thêm Chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không rập khuôn, sao chép máy móc, mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa Pháp, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cho rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc”, nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa… Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác – Lênin như là một kim chỉ nam, như cẩm nang cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó.
Từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, khoa học, cách mạng trong kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời bám sát thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin trong vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Thể hiện:
Một là, luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Bằng những tác phẩm “Bản chất chế độ thực dân Pháp” (1925) và “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, quy luật vận động, địa vị lịch sử, những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ những nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà lí luận mácxít đề cập đến. Người đã nêu lên những luận điểm sáng tạo: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc “có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc phát triển.
Hai là, khi phân tích xã hội các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo. Người tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn cho dân tộc, đó là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[1]. Theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam cũng như các nước phương Đông, do trình độ sản xuất chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của sự phát triển đất nước”[2]; gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, nghĩa là Người đã quốc tế hóa những vấn đề của cách mạng nước ta.
Ba là, về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[3]. Điều này thực sự là một sáng tạo lớn, có vai trò quan trọng trong thúc đẩy, phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin chưa có điều kiện chỉ ra.
Bốn là, về Đảng và về công tác xây dựng Đảng. Với một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định quy luật hình thành của Đảng là “kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, bản chất của Đảng trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu – Đảng là của giai cấp, đồng thời của dân tộc và của nhân dân. Trong khi lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra qui luật hình thành Đảng Cộng sản trên cơ sở hai yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân.
Năm là, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến sáng tạo về tư tưởng quân sự, đặt nền móng cho sự hình thành học thuyết quân sự cách mạng Việt Nam thời hiện đại. Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Người đã xác định: Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí. Những tư tưởng quân sự của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục là cơ sở để Đảng ta xây dựng và phát triển quân đội ta ngày càng vững mạnh, xứng đáng là quân đội của dân, do dân và vì dân.
Sáu là, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Ở Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển một hệ thống các quan điểm sáng tạo về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân tộc mà phát triển lên. Vì vậy, trong chánh cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị TW8 (5/1941), Người đề ra chủ trương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.
Bảy là, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Hồ Chí Minh đã có các quan điểm sáng tạo về chiến lược đại đoàn kết dân tộc theo phương châm: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Những luận điểm trên đây là những sáng tạo nổi bật trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời cũng là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại với các quan điểm sai trái cho rằng: không có tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam, hoặc có thì cũng chỉ là sự rập khuôn, máy móc, giáo điều, tiếp thu nguyên bản, sao chép của chủ nghĩa Mác – Lênin...
Hiện nay, Đảng và Nhân dân ta đều thống nhất và khẳng định nhất quán: Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta, là cơ sở dẫn đường, chỉ lối cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam, Người là tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi người dân Việt Nam hiện nay nói chung và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng./.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, NXB. CTQG – ST, H.2011, tr.1.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, NXB. CTQG – ST, H.2011, tr.511.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXB. CTQG – ST, H.2011, tr.411.

Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2018


“CUỘC CÁCH MẠNG” CHƯA TỪNG CÓ TRONG TIỀN LỆ

(ĐCSVN) – Công cuộc tinh giản biên chế gắn liền với tinh thần là gọn đầu mối, rõ trách nhiệm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính sẽ động chạm đến quyền lợi và tâm tư của không ít người. Để thực hiện có chất lượng và thành công thì việc “dùng người” làm sao cho hiệu quả phải được coi là giải pháp "đột phá" đặc biệt quan trọng.
Thông điệp lớn từ hành động cụ thể
“Tinh giản biên chế” là cụm từ được nói đi nói lại quá nhiều, và đây cũng là yếu tố cốt lõi để thực hiện cải cách hành chính hiệu quả. Tuy nhiên, qua một thời gian dài thực hiện vẫn không mang lại kết quả tích cực cho bộ máy hành chính nhà nước, thậm chí lại đi theo con đường ngược lại là chúng ta quyết giảm nhưng nó lại cứ… tăng.
Và chính lý do này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của bộ máy hành chính, tạo ra sức ỳ, khó kiểm soát cùng áp lực chi ngân sách đang là bài toán “đau đầu” nhiều cơ quan.
Đây cũng chính là một trong những lý do dẫn đến có sự chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau ở nhiều cơ quan, địa phương; dẫn đến tình trạng người làm việc không tốt cũng không sao, không làm cũng không sao, kéo theo sức ỳ, dẫn đến có ý kiến cho rằng, "1/3 cán bộ, công chức sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Đó là chưa nói đến tình trạng “cả nhà làm quan”; con ông, cháu cha; thân hữu, cánh hẩu… Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân cùng những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy hành chính thực sự là vấn đề cấp bách.
Thực hiện vấn đề cấp bách này, hiện các bộ, ngành và địa phương trên cả nước đã và đang quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 39-NQ/TƯ ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; Nghị quyết số 18-NQ/TƯ ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Được coi là “Cuộc cách mạng về tổ chức”, chưa từng có trong tiền lệ, thời gian gần đây, Bộ Công an khi triển khai thực hiện Nghị định số 01 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy đã giảm 6 Tổng cục, gần 60 đơn vị cấp Cục, gần 300 đơn vị cấp phòng. Ở công an địa phương, sau khi sáp nhập 20 đơn vị cảnh sát phòng cháy chữa cháy vào công an tỉnh, thành phố và tinh gọn tổ chức sẽ giảm hơn 500 đơn vị cấp phòng và gần 1.000 đơn vị cấp đội. Nếu tính trên toàn quốc thì có khoảng 800 đơn vị cấp phòng sẽ bị cắt giảm, trực tiếp tác động đến vị trí của 300-400 đồng chí mang quân hàm cấp tướng, cấp tá công an đang tại vị. Và như vậy có người làm trưởng sẽ phải làm phó, có người làm Tổng cục trưởng sẽ phải làm Cục trưởng, còn các Phó tổng cục trưởng cũng phải làm cục phó hoặc điều động nhận nhiệm vụ khác, tương tự như cấp trưởng, phó phòng cũng vậy… Đây có thể nói là quyết tâm chính trị rất lớn, rất đáng ghi nhận của toàn ngành.
Sau Bộ Công an, Bộ Công thương cũng vừa phát đi thông tin về việc thành lập Tổng cục Quản lý thị trường (QLTT) để tinh gọn bộ máy. Cụ thể, tại Trung ương, tinh giản từ 11 đơn vị xuống còn 6 đơn vị (giảm 45,5%). Tại địa phương, lực lượng QLTT cấp tỉnh theo lộ trình đến hết năm 2019 sẽ tinh giản từ 63 đơn vị xuống còn 44 đơn vị thông qua phương án sắp xếp lại một số Cục QLTT cấp tỉnh thành Cục QLTT liên tỉnh. Theo đó, sắp xếp 38 Cục QLTT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xuống còn 19 Cục QLTT liên tỉnh. Đối với lực lượng QLTT cấp huyện sẽ tiến hành tinh giản tổ chức bộ máy theo lộ trình sắp xếp lại các đội QLTT cấp huyện thành các Đội QLTT liên huyện theo mục tiêu giảm 305 đội, giảm 45% từ năm 2018 – 2020. Việc tinh giản được thực hiện có hiệu lực từ ngày 12/10/2018.
Rồi Bộ Tài chính vừa ban hành Chỉ thị triển khai kế hoạch của Bộ trưởng Tài chính về sắp xếp, sáp nhập chi cục thuế quận, huyện, thị xã, thành phố thành Chi cục thuế khu vực trực thuộc Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với mục tiêu tiến tới sẽ sáp nhập 50% chi cục thuế. Bộ Nội vụ cũng chuẩn bị các phương án tham mưu cho Quốc hội sáp nhập hàng trăm xã, hàng chục huyện không đạt các tiêu chí quy định để thu gọn đầu mối… Chính những việc làm cụ thể của các bộ, ngành, địa phương đã mang đến một thông điệp lớn “Có đi mới tới”.
Dùng người – giải pháp “đột phá” đặc biệt quan trọng
Trong lúc nhiều địa phương, đơn vị đang băn khoăn, lúng túng trong việc tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy, vậy tại sao Bộ Công an và một số địa phương lại làm được? Và một số cơ quan, bộ ngành đã vạch ra kế hoạch rõ ràng để thực hiện?
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Lê Quang Thưởng nhận định, việc sắp xếp bộ máy lần này của Bộ Công an là phù hợp với chủ trương chung của Trung ương về tinh gọn bộ máy trong toàn hệ thống chính trị và yêu cầu thực tế của ngành. Từ các nghị quyết Trung ương, Bộ Công an đã trực tiếp xây dựng đề án và thông qua Bộ Chính trị. Việc Đảng ủy Công an Trung ương chủ động nghiên cứu, tiên phong cắt giảm, sáp nhập mạnh mẽ nhất các đơn vị trong ngành, hướng tới bộ máy tinh gọn, chuyên nghiệp thể hiện quyết tâm rất cao.
Thiếu tướng Lương Tam Quang, Chánh Văn phòng, người phát ngôn của Bộ Công an khẳng định: "Đây là một cuộc cách mạng tinh giản bộ máy, thực hiện theo đúng chủ trương nghị quyết của Đảng". Cùng với quyết tâm tinh gọn, cũng cần ghi nhận những kết quả công tác của lực lượng Công an trong xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng, đã xử lý nhiều cán bộ vi phạm pháp luật, bảo đảm nguyên tắc" không có vùng cấm, không có ngoại lệ".
Hà Nội cũng là địa phương được Trung ương đánh giá cao trong công tác tinh giản biên chế và sắp xếp lại hoạt động của các tổ chức, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập. Trưởng Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội Vũ Đức Bảo khẳng định, bài học thành công được rút ra là lãnh đạo từ thành phố xuống cơ sở đã có cách làm khoa học, bài bản, thấu tình đạt lý theo phương châm “5 rõ”: Rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian và rõ kết quả; kết hợp làm tốt công tác tuyên truyền đã tạo nên đồng thuận cao, giúp vượt trở ngại để đạt hiệu quả.
Nói như thế không có nghĩa là trong quá trình thực hiện, các đơn vị không gặp khó khăn mà ngược lại, cùng với khó khăn còn có cả những vướng mắc, bất cập nảy sinh cần sự chung tay góp sức của các cấp, các ngành, bởi vì nhiệm vụ tinh giản biên chế động chạm đến lợi ích con người. Bất cứ một sự phân công chưa hợp lý nào cũng có thể khiến người trong cuộc giảm nhiệt huyết và khả năng đóng góp cho tập thể. Chưa kể, tư tưởng cá nhân nếu không nhận thức đúng, nhận thức đủ về sự thay đổi trong sắp xếp tổ chức để tự điều chỉnh mình theo kịp đòi hỏi thực tiễn, thì chính tâm tư riêng sẽ ngáng trở hành động mỗi người, bởi trong quá trình thực hiện còn có cả sự hy sinh sự nghiệp cá nhân của không ít người. Nhưng nếu không “đi” thì làm sao mà “đến”?
Từ câu chuyện tinh giản biên chế, sắp xếp bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả của các đơn vị nêu trên cho thấy: Nếu nơi nào thật sự muốn tinh giản biên chế chắc chắn sẽ có biện pháp và sẽ thực hiện được. Không những thế, khi áp dụng các giải pháp phân loại, sàng lọc để loại ra khỏi bộ máy những biên chế không cần thiết, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức chất lượng hơn, tinh thông hơn thì những người ở lại chắc chắn sẽ làm việc tốt hơn. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, việc tinh giản này sẽ có lợi về nhiều mặt. Nó không đơn thuần là giảm về số lượng cán bộ, công chức, giảm chi phí hành chính, giảm ngân sách nhà nước mà là làm cho cơ cấu, số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là chất lượng chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp ngày một nâng cao.
Điều quan trọng nữa trong việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, tinh giản biên chế là chắc chắn chúng ta dần khắc phục được tình trạng bất cập trong tuyển dụng, quản lý cán bộ là “có vào mà không có ra, có lên mà không có xuống”
Muốn thế, cùng với thực hiện quyết liệt một loạt các giải pháp mà Đảng, Chính phủ đã đề ra như: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đánh giá đúng năng lực cán bộ, công chức, đẩy mạnh phân cấp phân quyền, xác định rõ vị trí việc làm…, thì nhiều người cho rằng, sự công tâm, trách nhiệm, gương mẫu của người đứng đầu là không thể thiếu. Hay nói cách khác là việc “dùng người” làm sao cho hiệu quả phải được coi là giải pháp "đột phá" đặc biệt quan trọng.
Như dòng sông chảy ra biển lớn, với sự quyết tâm không lùi bước, chúng ta tin chắc công cuộc tinh giản biên chế gắn liền với sắp xếp lại tổ chức, bộ máy sẽ dành được nhiều kết quả. Đó cũng chính là đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong thời gian tới./.
Thu Hà
http://www.cpv.org.vn/xay-dung-dang/-cuoc-cach-mang-chua-tung-co-trong-tien-le-498067.html

Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2018


SỰ VU CÁO TRẮNG TRỢN CHẾ ĐỘ TIẾN BỘ
Ở VIỆT NAM CỦA VŨ ĐÔNG HÀ
                                                                Trần Trí Nam
Ngày 16/9/2018, trang facebook danlambao đăng tải bài viết “Thức” của bloger Vũ Đông Hà viết tặng Trần Huỳnh Duy Thức (tù nhân chính trị). Thoạt nghe tiêu đề bài viết không ít người lầm tưởng bloger này hướng đến những giá trị cao quý của cuộc sống mà ông ta trải nghiệm. Song điều mà ông ta nói đến mới thật giả dối và trắng trợn. Bởi lẽ, Vũ Đông Hà đã suy diễn câu chuyện về cánh bướm ở Brazil có thể gây bão ở Texas, Mỹ, từ đó bloger này vu cáo chế độ ở Việt Nam là sự tù ngục cho ai đấu tranh đòi tự do, dân chủ. Về bản chất, Vũ Đông Hà đã lợi dụng diễn đàn trên facebook và trang blog của danlambao để nói xấu chế độ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang xây dựng. Đây là sự vu cáo trắng trợn thành quả của hơn 73 năm tranh đấu từ khi Việt Nam giành được độc lập đến nay.
Rõ ràng Trần Huỳnh Duy Thức đã vi phạm pháp luật Việt Nam, và đã bị cơ quan chức năng ở Việt Nam truy tố, xét xử và công khai trước công luận. Vậy nhưng, Vũ Đông Hà lại cổ súy cho tấm gương của Trần Huỳnh Duy Thức – một kẻ chống đối lại Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Thử hỏi, nếu không có con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng do Người sáng lập lãnh đạo nhân dân ta kiên trì đấu tranh giành được độc lập dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng chế độ tiến bộ như hiện nay, thì liệu Nhân dân Việt Nam có thoát ra chế độ lệ thuộc? Và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập trung bình; người dân Việt Nam hiện nay được hưởng mọi thành quả của sự tiến bộ mà chế độ mới tạo ra. Điều này, chắc Vũ Đông Hà và các bloger trên danlambao không thể phủ nhận được. Do đó, dù Vũ Đông Hà và trang facebook danlambao, blog danlambao có cố tình phủ nhận và xuyên tạc, vu cáo chế độ tiến bộ ở Việt Nam, song chắc chắn sẽ chẳng ai tin, vì nó thật bỉ ổi và hoàn toàn đi ngược lại với thực tiễn của lịch sử./.


            DÃ TÂM CỦA TƯ NGHÈO SẼ BỊ THỰC TIỄN PHỦ NHẬN
                                                                Trần Trí Nam
Ngày 20/9/2018, trang facebook danlambao đăng tải bài viết “Súng anh Trọng” của bloger Tư nghèo. Đây là bài viết hết sức phản động và trơ tráo, vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam và cần lên án, bác bỏ cũng như có biện pháp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Trong bài viết, ông ta sử dụng cách châm biếm để nói xấu hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Về bản chất, Tư nghèo với dã tâm của một kẻ chống đối chế độ, dùng trang mạng của danlambao để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Rõ ràng Tư nghèo đã vi phạm Luật số 24/2018/QH14 do Quốc hội Việt Nam ban hành ngày 12/6/2018 về Luật An ninh mạng. Không chỉ vậy, bloger này còn bộc lộ dã tâm của kẻ mất gốc để chống phá sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam. Đây có phải là trách nhiệm một con người được sinh ra ở Việt Nam? Chắc chắn là Tư nghèo sinh ra ở Việt Nam nhưng chỉ là kẻ lười nhác, ăn bám vào sự hỗ trợ của người khác nên dựng ra câu chuyện phiếm mà không một người dân nào ở Việt Nam có lương tri, trách nhiệm có thể chấp nhận được. Bởi vì, ở Việt Nam, mọi người dân đều biết ơn công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam những năm gần đây mang dấu ấn sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Điều này, chắc Tư nghèo và các bloger trên danlambao không thể phủ nhận được. Do đó, dù Tư nghèo và trang facebook danlambao, blog danlambao có cố tình phủ nhận và vu cáo, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng ở Việt Nam, thì chắc chắn sẽ chẳng ai tin, vì nó hoàn toàn vô lý và đi ngược lại với thực tiễn của lịch sử./.

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018


BÌNH TĨNH, TỈNH TÁO, CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG CÁI NHÌN LỆCH LẠC VỀ GIÁO DỤC VIỆT NAM

QĐND - Những ngày qua, trong khi hàng triệu học sinh, sinh viên háo hức bước vào năm học mới 2018-2019, thì trên nhiều trang mạng xã hội, nhất là các trang mạng của những phần tử cơ hội và một số tờ báo điện tử nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam đã có những nhận định chủ quan, cái nhìn sai trái, ý kiến lệch lạc về giáo dục Việt Nam. Cần phải vạch rõ “chân tướng” đằng sau những luận điệu này.

Chuyện bé xé ra to, gắn vấn đề giáo dục với mưu đồ chính trị
Nguyên cớ khởi đầu từ một clip đăng trên trang mạng xã hội quay cảnh một người được cho là giáo viên tiểu học đang hướng dẫn phụ huynh cách dạy con lớp 1 đánh vần theo cuốn Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) của một giáo sư. Một câu chuyện giảng dạy theo phương pháp mới tưởng như bình thường, nhưng nó bị đẩy lên quá mức làm “nóng” dư luận. Nhân cơ hội này, một số người vốn có cái nhìn định kiến, cực đoan và những kẻ có tư tưởng cơ hội chính trị, bất mãn, thù hằn với chế độ Việt Nam đã cố tình làm to chuyện, phức tạp hóa vấn đề, thậm chí gắn vấn đề giáo dục với vấn đề chính trị với những toan tính xấu.
Không chỉ đưa ra các nhận định đầy miệt thị, ác ý như: “Cải cách giáo dục của Việt Nam mấy chục năm nay thất bại vì tư duy tiểu nông, vì bóc ngắn cắn dài”, “Giáo dục Việt Nam trong 30 năm qua không chỉ rối loạn bởi các đề án hoang tưởng tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng mà còn đối diện với cuộc khủng hoảng suy đồi đạo đức nghiêm trọng khiến niềm tin vào những gì được gọi là “cải cách” sụp đổ”; có người còn đưa ra cái gọi là “kiến nghị” rằng: “Nếu không làm được một bộ sách giáo khoa cho ra hồn, giải pháp khả thi là mua một bộ sách giáo khoa của Anh, Mỹ về cho các cháu học, cháu nào học được thì học mà không học được thì dịch ra tiếng Việt mà học”(!). Rồi một số người lại đề xuất cái gọi là “khuyến cáo”: “Những thiên thần vô tội không nên và không thể tiếp tục bị đem ra làm vật hy sinh cho các tranh cãi liên miên về cải cách giáo dục và chương trình-sách giáo khoa hay các thử nghiệm cải cách thi cử”. Họ còn lên tiếng lu loa: “Ý thức hệ giáo điều trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường vẫn gây nên sự ngộ nhận chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cải cách khiến cho mục đích giáo dục thiếu tính thực tế, sai với lẽ tự nhiên”(!)...
Trước đó, lợi dụng những sai phạm xảy ra ở Hội đồng thi Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ba tỉnh: Hà Giang, Sơn La và Hòa Bình, một số ý kiến cũng tỏ thái độ hằn học khi cho rằng “gian lận thi cử ở Hà Giang là bi kịch từ lỗi hệ thống”; “sự thối nát của nền giáo dục Việt có căn gốc từ thể chế chính trị”(!).
Những lời lẽ trên cần phải phê phán, bác bỏ vì nó đã được nhìn nhận qua “lăng kính màu đen”, đánh đồng hiện tượng với bản chất, lợi dụng vấn đề giáo dục để đan cài mục đích chính trị thiếu lành mạnh.
Về những sai phạm trong kỳ thi THPT quốc gia ở ba tỉnh nêu trên, ngay sau khi xảy ra vụ việc, những người gây ra sai phạm đã bị cơ quan chức năng khởi tố, bắt tạm giam vì đã phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ. Những bài thi, thí sinh được nâng điểm thi qua quá trình thẩm định chặt chẽ đã bị hạ điểm thi theo đúng quy chế. Có thể nói rằng, sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương, quyết liệt của các cơ quan chức năng góp phần nhanh chóng làm sáng tỏ vụ việc để dư luận xã hội hiểu đúng tình hình; tin tưởng vào việc tổ chức kỳ thi THPT quốc gia ngày càng được bảo đảm nghiêm túc, chặt chẽ hơn.
Không thể phủ nhận những thành tựu và nỗ lực đổi mới của giáo dục Việt Nam
Có thể nói rằng, việc nhiều người dân cũng như dư luận xã hội quan tâm đến những đổi mới của lĩnh vực giáo dục nói chung, chương trình cải cách giáo dục và sách giáo khoa nói riêng, là điều bình thường, vì sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Người dân lo toan đến giáo dục là lo toan đến vận mệnh đất nước. Thế nhưng, cần tỉnh táo nhận diện, phân biệt đâu là những ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, trách nhiệm, vì lợi ích chung; đâu là ý kiến đội danh “phản biện” mà “biện” thì ít, còn “phản” thì nhiều! Mặt khác, khi nhìn nhận, đánh giá về vấn đề giáo dục rất cần có thái độ thận trọng, khách quan và cái nhìn biện chứng, khoa học.
Ví như khi nhận định về tài liệu TV1-CNGD, không nên và cũng không thể chỉ lấy một phương pháp đánh vần mới, không giống cách đánh vần truyền thống, rồi đưa ra hai thái cực, hoặc là phủ nhận hoàn toàn, hoặc là ủng hộ tuyệt đối. Về vấn đề này, đại diện lãnh đạo Bộ GD&ĐT đã khẳng định, tài liệu TV1-CNGD về cơ bản bảo đảm các yêu cầu về mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng của môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) cấp tiểu học. Tài liệu này là một trong những phương án để các địa phương lựa chọn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình GDPT hiện hành, nhất là với học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, sẽ không mở rộng triển khai chương trình để giữ ổn định cho đến khi thực hiện Chương trình GDPT mới được triển khai từ năm học 2019-2020.
Mặc dù cơ quan chức năng đã thông tin chính thức như vậy, nhưng một số người coi việc đánh vần “lạ” theo tài liệu TV1-CNGD như là cái cớ để “xới tung” một vấn đề không mới, nhưng lại ẩn chứa những dụng ý chính trị cũ rích khi cho rằng, giáo dục Việt Nam “rối rắm vì thiếu triết lý”, lại “không cải tiến được vì không có làn gió mới, máu mới vào nền giáo dục”, rồi từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục, xuyên tạc bản chất của nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã được bao thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục bền bỉ vun trồng, bồi đắp suốt 73 năm qua.
Thực tế, nền giáo dục Việt Nam luôn vận động theo sự phát triển của xã hội. Việt Nam đã tiến hành ba lần cải cách giáo dục (các năm 1950, 1956, 1981) cho phù hợp với từng thời kỳ lịch sử và đáp ứng với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đang được triển khai tích cực với những bước đi, giải pháp phù hợp.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia giáo dục, kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng từ năm 2013 đến nay, nhiều đổi mới trong ngành giáo dục có tín hiệu khả quan. Việc triển khai chương trình GDPT mới đang đi đúng lộ trình. Theo kế hoạch đề ra đến năm học 2019-2020, chương trình GDPT mới sẽ được triển khai ở bậc tiểu học, bắt đầu từ lớp 1. Đến nay, đã có 24 trường đại học thí điểm tự chủ. Một trong những thành tựu của ngành giáo dục thời gian qua là chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững, nổi bật là các đoàn học sinh Việt Nam tham dự Olympic quốc tế hằng năm đều đoạt giải cao. Trong tháng 7-2018 vừa qua, 100% thí sinh Việt Nam dự thi Olympic quốc tế các môn: Vật lý, Toán học, Hóa học, Sinh học đều đoạt huy chương (gồm 7 huy chương vàng, 6 huy chương bạc, 5 huy chương đồng), trong đó, Việt Nam là một trong 10 nước đoạt từ hai huy chương vàng trở lên và xếp thứ hạng cao tại cuộc thi Olympic Vật lý quốc tế; đặc biệt thí sinh Nguyễn Phương Thảo đạt tổng điểm cao nhất cuộc thi trên tổng số 261 thí sinh tại Olympic Sinh học quốc tế tổ chức ở Iran.
Theo báo cáo được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 15-3-2018, 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới đang nằm ở khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. WB gọi Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục. Đầu tháng 6-2018, QS (Quacquarelli Symonds) của Anh quốc-một trong những bảng xếp hạng có uy tín hàng đầu thế giới-đã công bố bảng xếp hạng tốp 1.000 trường đại học thế giới, trong đó lần đầu tiên Việt Nam có hai đại diện là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Những kết quả này thêm một lần khẳng định quá trình đổi mới của giáo dục Việt Nam đang đi đúng hướng, được nhiều tổ chức quốc tế có uy tín ghi nhận.    
Nỗ lực vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục
Tất nhiên, nói thế không có nghĩa là giáo dục Việt Nam chỉ có những thành tựu, mà cũng đang phải vượt qua những thách thức không nhỏ. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo đã nhận thấy những bất cập, hạn chế của ngành giáo dục cần phải khắc phục, đó là: Chương trình học có môn còn quá tải; phương pháp dạy học còn thiên về truyền thụ kiến thức nên chưa phát huy được tính tích cực của người học; việc kiểm tra, thi cử còn nặng về điểm số dẫn tới áp lực cho học sinh; giáo dục đại học chưa đáp ứng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước…
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm từng bước khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực giáo dục, tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức GD&ĐT; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống GD&ĐT. Từ đầu năm 2018 đến nay, nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kỳ họp của Quốc hội đã góp ý, thảo luận sôi nổi về việc sửa đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục Đại học hiện hành để sớm thông qua vào kỳ họp gần nhất. Động thái này của Quốc hội cũng không ngoài mục đích tạo ra “cú hích” mới, động lực mới thúc đẩy sự phát triển giáo dục nước nhà trong thời gian tới.
Giáo dục liên quan đến mọi người, mọi nhà và ảnh hưởng mật thiết đến sự ổn định, phát triển của quốc gia. Do vậy, khi nhìn nhận, đánh giá về giáo dục rất cần phải được xem xét toàn diện, thấu đáo ở mọi khía cạnh, đặt trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa những thành quả đổi mới đã đạt được và những sức ỳ, lực cản trong lộ trình đổi mới cần phải khắc phục. Không nên lấy một vài cái sai đơn lẻ trong hoạt động giáo dục hay những vấn đề đang còn tranh luận để phủ nhận những nỗ lực đổi mới giáo dục cũng như những thành quả giáo dục của Việt Nam trong những năm qua. Vì điều đó làm tổn thương đến tình cảm, niềm tin, tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm cao cả của hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên và hàng vạn cán bộ quản lý giáo dục đang lặng thầm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.
THIỆN VĂN
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/binh-tinh-tinh-tao-canh-giac-truoc-nhung-cai-nhin-lech-lac-ve-giao-duc-viet-nam-549717


QUYỀN LỰC MỀM CỦA HỒ CHÍ MINH

(LLCT) - Trên cơ sở nhận thức cơ bản về quyền lực mềm, bài viết phân tích tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh trong việc sử dụng quyền lực mềm trên ba khía cạnh cơ bản. Một là, văn hóa Hồ Chí Minh - sức hấp dẫn mọi người và các dân tộc một cách tuyệt vời; Hai là, chính trị Hồ Chí Minh “đoàn kết và thanh khiết, sao cho được lòng dân” có giá trị cả trong và ngoài nước; Ba là, chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh chính danh và có giá trị đạo đức, làm bạn với tất cả các nước vì một nền hòa bình bền vững và thịnh vượng chung, thể hiện tình hữu nghị, mở cửa hợp tác với các nước
Sinh thời, Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “Quyền lực mềm”, nhưng những gì ngày nay ta hiểu về “Quyền lực mềm” (Soft power) lại in đậm trong di sản tư tưởng của Người.
Quyền lực là khả năng tác động vào người khác nhằm đạt được kết quả mong muốn. Có ba biện pháp chính: cưỡng ép, mua chuộc bằng sự hấp dẫn. Tính hấp dẫn thuộc loại quyền lực mềm với ba bộ phận cơ bản: văn hóa, chính trị và chính sách đối ngoại. Trong đó, văn hóa phải là những giá trị hấp dẫn được các dân tộc khác; chính trị có giá trị ở cả trong và ngoài nước và chính sách đối ngoại phải là chính danh và có giá trị đạo đức.
Quyền lực mềm nhưng lại có khả năng đem lại sức mạnh cứng, vì những nguồn lực văn hóa, chính trị, đối ngoại kết lại thành một khối, xuất phát từ tư duy của con người “chí công vô tư”, chính tâm, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh đã làm được điều đó, bởi: “Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình... Nếu so sánh với vũ khí thì điều đó quan trọng không kém tất cả vũ khí của Hạm đội 7... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”(1).
Rọi chiếu những hiểu biết căn cốt trên vào di sản Hồ Chí Minh dễ dàng nhận thấy Người đã sử dụng quyền lực mềm một cách khoa học, đạt đến trình độ nghệ thuật, tạo sức mạnh to lớn để nước ta từ một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng  thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
1. Văn hóa Hồ Chí Minh - sức hấp dẫn mọi người, mọi dân tộc
Đó là sức hấp dẫn bằng giá trị phổ quát toàn nhân loại. Văn hóa Hồ Chí Minh kết tinh từ ba tầng giá trị lớn: Một là, lý luận - tư tưởng của dân tộc, của phương Đông, phương Tây và chủ nghĩa Mác - Lênin; Hai là, thực tiễn Việt Nam, thế gới và trải nghiệm của chính Hồ Chí Minh; Ba là,phẩm chất Hồ Chí Minh - bậc đại nhân, đại trí, đại dũng.
Cội nguồn sâu xa trong văn hóa Hồ Chí Minh, tự bản thân nó đã có sức hấp dẫn mọi người, mọi dân tộc dù chế độ chính trị, chính kiến, cương vị, tài năng khác nhau. Thế giới gọi Hồ Chí Minh là một hiện tượng kỳ lạ, hiếm thấy, “chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”. Huyền thoại ngay khi còn sống và ngay từ những ngày đầu bước vào con đường hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Ở tuổi 33, mới trở thành người cộng sản được 3 năm, nhưng qua phong thái thanh cao, giọng nói trầm ấm, một phong cách ứng xử lịch thiệp và tế nhị, những người tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã “nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới... Từ Nguyễn Aí Quốc tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(2).
Là người cộng sản với tinh thần giải phóng dân tộc và đấu tranh cho quyền con người - quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, Hồ Chí Minh cũng là con người của hòa bình, nhân phẩm vì Người luôn đấu tranh cho sự phát triển của đất nước, của toàn nhân loại. Văn hóa Hồ Chí Minh là biểu tượng cho tinh thần các dân tộc không chịu sống nô lệ và cuộc chiến đấu cho nhân phẩm,  tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác.
Văn hóa Hồ Chí Minh là sự chung đúc những cái tốt, cái hay của văn hóa cổ, kim, Đông, Tây để tạo dựng, đắp bồi một bản sắc văn hóa Việt Nam, hợp với tinh thần dân chủ. Theo Người, Khổng giáo chú ý đến việc tu dưỡng đạo đức cá nhân, Thiên Chúa giáo lại chú ý đến lòng nhân ái, Tôn Dật Tiên quan tâm đến dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, ưu điểm của chủ nghĩa Mác là tính biện chứng. Người luôn cố gắng làm người học trò nhỏ của những người thầy này.
Hồ Chí Minh vừa cởi mở với thế giới, vừa quy tụ được những điểm tương đồng, tìm thấy mẫu số chung của con người cùng khổ, của các dân tộc bị chà đạp. Đó là một trong những nét tiêu biểu, đặc sắc nhất của văn hóa Hồ Chí Minh, tạo nên sức lôi cuốn kỳ diệu. Năm 1946, tâm sự với nhà báo Pháp Jean Lacouture (Giăng Lacutuyrơ), Người nói: “Một dân tộc như dân tộc của anh đã cho thế giới một nền văn hóa ca ngợi tự do thì dù sao đi nữa bao giờ cũng tìm thấy ở chúng tôi những người bạn. Anh có biết là không năm nào là tôi không say mê đọc lại Víchto Huygô và Misơlê”(3). Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh “đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn của kẻ địch của ông”(4).
Không chỉ là dân tộc Pháp. Theo Thượng nghị sĩ Anh William Warbey, “Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, ông đã có cơ hội biết và yêu nhân dân Mỹ, và qua sách báo, ông đã ngưỡng mộ chính khách của họ là Abraham Lincoln . Cuộc chiến đấu của Lincoln chống chế độ nô lệ và sự bóc lột lao động, đối với ông Hồ như là một tiếng vọng của chính sứ mạng của mình là giải phóng nhân dân Việt Nam”(5).
Văn hóa và tri thức Hồ Chí Minh trở thành một quyền lực, bởi như Edmond Michelet, Bộ trưởng các quân chủng Pháp, người được ủy nhiệm tiếp  Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pari (1946) nhận xét về sắc thái chính kiến của Hồ Chí Minh: “Đó là một người cộng sản theo lý tưởng... Tôi thấy ông dường như luôn luôn chịu ảnh hưởng của các tác giả lớn của ông là Mác, chắc chắn là cả Lênin nữa... Nhưng trong ông có Jaurè (Giôrex)... Ông là người đã chọn chủ nghĩa cộng sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc...Tôi cho là trong thế giới cộng sản, chắc chắn ông là một trong những người chấp nhận cách mạng cộng sản chủ nghĩa, phải!... nhưng trong tự do”(6). Ở một góc nhìn khác, Đavít  Hanbớcxtam, một chính khách Mỹ, nhận xét: “Hồ Chí Minh là một nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam”(7). Từ những đánh giá sáng suốt của chính khách đối phương, nhà văn hóa Hữu Ngọc viết: “Quả thật là Bác Hồ tìm một chủ nghĩa cộng sản có tình người, kế thừa những truyền thống cách mạng xã hội chủ nghĩa 1917, nhưng tiếp thu tinh hoa của những cuộc cách mạng tư sản, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc,- một chủ nghĩa cộng sản tôn trọng cá nhân, biết khóc, biết cười, biết ngâm vịnh”(8).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho chúng ta biết về phát biểu của một đại biểu Mỹ: “Nếu chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận được”; “chúng tôi đến đây, có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: “Muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”(9).
Nghiên cứu các cuộc hành trình trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, ông Hans D’Orville, Phó Tổng Giám đốc UNESCO đã khẳng định, “Bác Hồ là con người của đối thoại, trở thành công dân của thế giới, đồng thời là đại sứ của Việt Nam trên khắp toàn cầu”, “các chuyến bôn ba nước ngoài mà Người đã trải qua, những trào lưu tư tưởng mà ông đã tiếp nhận và đặc biệt là khả năng giao hòa những sự đa dạng mà Người đã tiếp thu đã khiến Hồ Chí Minh trở thành một người thầy về cuộc sống tiếp thu trong một thế giới có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay”(10).
Trong một thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng trong mọi khía cạnh cuộc sống của con người, UNESCO ý thức và cố gắng thúc đẩy các nền văn hóa xích lại gần nhau. Trong văn hóa Hồ Chí Minh, chúng ta cũng đã thấy rõ điều đó. Vì tư tưởng, hành động và ước vọng của Người là tôn trọng lẫn nhau giữa các nền văn hóa trong khu vực và trên thế giới. Những gì UNESCO thực hiện phù hợp với văn hóa Hồ Chí Minh, đó là đấu tranh để tăng cường sự đối thoại và hiểu biết lẫn nhau, tạo điều kiện cho sự tôn trọng các nền văn hóa của nhau, xóa bỏ những rào cản giữa các nền văn hóa khác nhau. Bởi trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa chính là công cụ hữu hiệu nhất để xây dựng hòa bình. Ông Hans D’Orville khẳng định: “Bản tính của Người là luôn lo lắng phấn đấu cho một tương lai được xây dựng trên nền tảng của sự công bằng, bình đẳng, biết truyền thụ và chia sẻ sự đa dạng văn hóa và để các nền văn hóa xích lại gần nhau”(11).
Tổ chức UNESCO đánh giá Hồ Chí Minh là một con người hội tụ nhiều tư  tưởng thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Thông điệp văn hóa Hồ Chí Minh mang giá trị toàn cầu và luôn có giá trị thời đại vì có điểm chung là lý tưởng về độc lập, tự do, hạnh phúc - “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” trên cơ sở dung hòa những sự khác biệt. Trong tiệc chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 7-2-1958, Thủ tướng Ấn Độ đã phát biểu cảm tưởng: “thật là một điều hân hạnh được gặp con người vĩ đại và có sức thu hút mãnh liệt đối với chúng ta. Mặc dầu trong thế giới ngày nay còn có khác biệt và xung đột, nhưng được gặp Bác Hồ, chúng ta thật sung sướng được thấy lòng tốt của con người..., tình bạn, lòng nhân ái sẽ vượt qua tất cả”(12).
2. Giá trị về mặt chính trị của Hồ Chí Minh: đoàn kết và thanh khiết
Sức mạnh mềm trong chính trị là sự khéo léo để thuyết phục, cảm hóa người khác, tức là chính trị phát triển thành văn hóa chính trị với một chỉnh thể cấu trúc bao gồm tri thức chính trị, hệ tư tưởng, đạo đức chính trị, năng lực hoạt động chính trị. Trong đó, quan trọng nhất là đạo đức chính trị vì nó tạo ra niềm tin chính trị.
Hồ Chí Minh cho rằng “văn hóa hiểu rộng cũng là chính trị. Chính trị hiểu sâu cũng là văn hóa”(13). Là một người có quyền lực - đứng đầu Chính phủ (1945-1969); Chủ tịch Đảng (1951-1969), nhưng không bao giờ Hồ Chí Minh hành xử như một người có quyền. Người xác định nhiệm vụ của mình là phục vụ nhân dân; Chính phủ là công bộc của dân: “Chính phủ Cộng hòa Dân chủ là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ... Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(14). Nhiều học giả trên thế giới nhận xét: “Là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người không tự giam mình trong tháp ngà. Về cơ bản, Người là một con người của quần chúng”(15). “Ông Hồ không cố ý tìm kiếm những cái trang sức cho quyền lực, vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân và với lịch sử đến nỗi không cần những pho tượng, những cái cầu, những pho sách và những tấm ảnh để chứng tỏ điều đó cho mình và cho thiên hạ thấy”(16).
Chính trị Hồ Chí Minh cần được hiểu sâu như Người từng nói: “Tóm lại chính trị là:1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”(17). Khi nói về đoàn kết, Hồ Chí Minh cho rằng “đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị”. Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư duy triết học cho thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc; dân tộc và quốc tế; giữa các tầng lớp xã hội cơ bản với các tầng lớp xã hội khác. Tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh cố tìm mẫu số chung của các dân tộc bị chà đạp thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ. Giá trị toàn cầu, giá trị thời đại và có ý nghĩa trường tồn của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là ở chỗ đó. Bởi vì “Trong thế giới ngày nay, không có cái gì có thể chống lại sự đoàn kết của nhân dân. Trong thế giới ngày nay không có gì quý báu hơn nhân dân. Không có gì mạnh mẽ hơn sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội không có gì đẹp đẽ hơn và vinh dự hơn là phục vụ nhân dân”(18).
Giá trị trong chính trị của Hồ Chí Minh thể hiện trong tư tưởng, phẩm chất, đạo đức của Người. Báo Pháp Lơ Phigarô nhận xét: “Cụ Hồ Chí Minh là người đã buộc Pháp phải bỏ thuộc địa quan trọng nhất là Đông Dương. Cụ Hồ đã chứng minh cho nước Mỹ hùng mạnh thấy rõ một cách đắng cay rằng con người có thể chiến thắng được vũ khí”(19).
3. Chính sách đối ngoại chính danh và có giá trị đạo đức
Quyền lực mềm nhìn nhận ở khía cạnh chính sách đối ngoại thì phải là một chính sách đối ngoại được coi là chính danh và có giá trị đạo đức. Chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh là làm bạn, thân thiện với tất cả các nước và không gây thù oán với nước nào. Chính sách đối ngoại đó đặt trên cơ sở các nước cùng tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào nội chính của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, cùng sống chung trong hòa bình; tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân các nước.
Chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh là thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì hòa bình, thịnh vượng chung, thể hiện thái độ bạn bè và trách nhiệm cùng các nước giải quyết những vấn đề về hòa bình, vì một thế giới tốt đẹp, một nền hòa bình bền vững và thịnh vượng. Trong bức điện ngày 14-1-1946 gửi các ông: Ăngđrê Grômưcô - đại diện của Liên Xô, Giêm Biếcnơ - Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, bác sỹ Cố Duy Quân - đại diện của Trung Quốc, Hồ Chí Minh trình bày nguyện vọng của nhân dân Việt Nam muốn được công nhận nền độc lập và nhận vào Liên Hợp quốc. Người khẳng định “chúng tôi tin rằng sự có mặt của chúng tôi trong hội nghị sẽ có ích nhiều cho việc giải quyết một cách nhanh chóng và hòa bình cho các vấn đề ở Đông Nam Á châu hiện nay”(20). Trong Công hàm gửi Chính phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và Vương quốc Anh ngày 18-2-1946, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định việc “hợp tác với các quốc gia khác trong việc xây dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn và một nền hòa bình bền vững. Những nguyện vọng đó là chính đáng và sự nghiệp hòa bình thế giới phải được bảo vệ”(21).
Tính chính danh và giá trị đạo đức trong chính sách đối ngoại của Hồ Chí Minh không những dựa trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền mà còn thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Ngay trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh vẫn đưa ra chính sách dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp quốc...”(22).
Trong một thế giới còn nhiều diễn biến rất phức tạp, khó lường, thì việc vận dụng và phát triển sáng tạo quyền lực mềm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
_______________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2018
(1), (3), (4), (7), (12), (15), (16), (19) Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb  Lao động - Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr.109, 32, 36, 116, 103, 104, 120, 19.
(2) Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.463, 462.
(5), (6), (8) Dẫn theo Hữu Ngọc: Phác thảo chân dung văn hóa Pháp,Nxb Ngoại văn Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr.22, 21, 21.
(9) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình hình thành và phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.9.
(10), (11) Hans D’Orville: “Bài phát biểu tại lễ mít tinh tại Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp ngày 14-5-2010, nhân kỷ niệm lần thứ 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh”, in trong Bảo tàng Hồ Chí Minh: Đặc san thông tin tư liệu, số 27, tháng 6-2010, tr.12, 13.
(13) Dẫn theo GS Đinh Xuân Lâm - TS Nguyễn Văn Khoan: Luật sư Phan Anh,Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2011, tr.326.
(14), (17) Hồ Chí Minh, Sđd, Toàn tập,t.5, tr.74-75, 75.
(18) Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh(trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb  Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.79.
(20), (21), (22) Hồ Chí Minh, Sđd, Toàn tập,t.4, tr.180, 210, 523.

PGS, TS Bùi Đình Phong
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
 http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2599-quyen-luc-mem-cua-ho-chi-minh.html


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...