Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

BẢO VỆ ĐẢNG – TẤT YẾU PHẢI CHỐNG LẠI QUAN ĐIỂM
SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (1/1994), đã đưa ra 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của cách mạng Việt Nam là: Tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Thời kỳ hiện nay, bốn nguy cơ đó vẫn còn tồn tại, thậm chí có mặt diễn biến phức tạp hơn, tinh vi hơn, nhất là khi kẻ thù và các thế lực phản động lợi dụng không gian mạng và các phương tiện thông tin, truyền thông để tung ra nhiều chiêu trò hòng xuyên tạc, chống phá các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
Tổng kết 30 năm đổi mới, trên cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá và dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước từ nay đến 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng, lý luận trong nhiệm kỳ tới là: “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch” .
Tuyên truyền quan điểm sai trái là một trong nhiều âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với Việt Nam, mà bản chất là nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, xã hội; đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện toan tính đó, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh đầu tư, hiện đại hóa trang thiết bị, các phương tiện thông tin, truyền thông, triệt để sử dụng Internet và địa chỉ truyền thông nước ngoài để phát tán tài liệu, tuyên truyền quan điểm xuyên tạc, vu cáo, gieo rắc thông tin xấu, độc hại hòng làm nhiễu loạn đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội, làm nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc các vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin (như học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, thời đại ngày nay và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, giai cấp và đấu tranh giai cấp, học thuyết giá trị thặng dư)... kết hợp tuyên truyền quan điểm xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; phát tán tài liệu, ấn phẩm xuyên tạc cuộc đời hoạt động và tấm gương đạo đức của Người. Gần đây, trước, trong và sau Đại hội XII của Đảng, nhiều mạng xã hội đăng tải khá nhiều bài, tin, tranh ảnh chống phá quan điểm, chủ trương, đường lối, tung tin bịa đặt, vu khống, vu cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội và Công an, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”,... Đồng thời tuyên truyền kích động, phủ nhận chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước, đòi tư nhân hóa đất đai; xuyên tạc tình hình dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền; kích động chia rẽ nội bộ Đảng và Nhà nước, gieo rắc hoài nghi, bi quan, bất bình trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quốc hội.
Đặc biệt, các thế lực thù địch đẩy mạnh việc tuyên truyền các quan điểm sai trái, đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt đối với Quân đội; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về công tác quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận lòng dân gắn với xây dựng an ninh nhân dân. Qua đó chúng trông đợi sẽ truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào quân đội, làm cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, lơi lỏng nhiệm vụ, rơi vào lối sống thực dụng, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.
Nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch, những năm qua, Đảng và Nhà nước chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tốt việc phòng, chống các quan điểm sai trái và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, qua đó góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng tư tưởng, nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố lòng tin trong cán bộ, đảng viên và quần chúng vào công cuộc đổi mới, từ đó đoàn kết, cố gắng thực hiện tốt hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, cuộc đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch còn có hạn chế nhất định. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao”. Biểu hiện cụ thể của hiện tượng này là một số hạn chế, bất cập trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Hơn thế nữa, tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế,… đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cộng hưởng các nguyên nhân này đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên bị “lây nhiễm”, mắc bệnh “tự diễn biến” và tự đẩy mình vào quá trình “tự chuyển hóa”, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “…những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”.
Trong thời gian tới, tình hình quốc tế, khu vực và trong nước còn diễn biến phức tạp, đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và sẽ còn có diễn biến khó lường với khó khăn, thách thức mới. Đặc biệt, trong quá trình chúng ta tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết trung ương 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị 05 – CT/TW về Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Điều đó cho thấy, cần phải chống tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong bối cảnh ấy, các thế lực thù địch sẽ triệt để lợi dụng mọi phương tiện để chống phá, nhất là sử dụng không gian mạng, sử dụng các phương tiện truyền thông quốc tế để đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Và để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối, giải pháp mà Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định, đó là:
Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Để đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch một cách có hiệu quả, trước hết cần phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là đòi hỏi khách quan, yêu cầu có tính nguyên tắc và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp đổi mới, đối với việc hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định cụ thể: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới” . Đồng thời, Văn kiện cũng xác định tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận
Chúng ta khẳng định rằng, khi mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi công dân trong xã hội có sự giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về các đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thì không chỉ mỗi người mà toàn xã hội sẽ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tự ý thức trong việc nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của tư tưởng ngoại lai đi ngược lý tưởng của Đảng, vô hiệu hóa các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Về điều này, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”. Đồng thời, Văn kiện cũng xác định, đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương; tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.
Chủ động nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh ngăn chặn chống các quan điểm sai trái, thù địch
Một trong những biện pháp quan trọng trong đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch là chủ động nghiên cứu dự báo, sớm phát hiện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kịp thời ngăn chặn việc tuyên truyền, phát tán các thông tin xấu độc, tài liệu xuyên tạc, sai trái, thù địch của chúng.
Cùng với việc sớm phát hiện để kịp thời ngăn chặn, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy các cấp và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các Ban Chỉ đạo về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách ở các cơ quan báo chí, truyền thông, các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu, các lực lượng nòng cốt ở các ban, bộ, ngành và địa phương trong đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch. Bảo đảm các hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng về quan điểm chính trị, sâu sắc về lý luận khoa học, sắc bén trong phương pháp và đạt hiệu quả cao. Đồng thời, huy động lực lượng rộng rãi trong nhân dân, các dân tộc, tôn giáo và kiều bào ở nước ngoài, các tổ chức tiến bộ … tiến công chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch, nhằm bảo vệ lẽ phải, chân lý, thực hiện sự tiến bộ xã hội.
Đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” chống phá nước ta trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Các quan điểm sai trái, thù địch sẽ gây tác hại trong môi trường xã hội có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do vậy, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nói chung và chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng phải gắn với việc đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định phải: “Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” . Đồng thời, Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh phải kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, đấu tranh ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm.
Như vậy, đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch luôn được Đảng, Nhà nước, nhân dân và xã hội ta đặc biệt quan tâm. Đại hội XII của Đảng xác định đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng, lý luận trong nhiệm kỳ tới. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân sẽ thực hiện thắng lợi chủ trương chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch.

                                                                                    Q.C.504

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017

SỨC MẠNH TUỔI TRẺ VIỆT NAM ĐÃ PHỦ NHẬN CÁC QUAN ĐIỂM PHẢN ĐỘNG, BỊA ĐẶT CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Tháng thanh niên năm 2017 là tháng cao độ để tuổi trẻ cả nước sục sôi, nhiệt huyết tham gia vào nhiều hoạt động, phần việc có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu rộng, điều đó khẳng định tài năng và sức lực của thanh niên cũng như khẳng định sự tin cậy của Đảng với thế hệ trẻ nước nhà. Tuy nhiên, trên “diễn đàn” của một số trang mạng tiếng Việt đặt ở nước ngoài, đã nén lút, cố tình tung ra nhiều bài viết phủ nhận vai trò, vị trí của tuổi trẻ Việt Nam. chúng đã ngộ nhận từ những điều vụn vặt, nhào nặn các ví dụ nhỏ lẻ, chắp vá, các bài viết này hồ đồ đưa ra những kết luận hết sức phản động, bịa đặt, không đúng với thực tiễn ở nước ta.
Đó là những luận điệu cũ rích, rất dễ nhận diện, bóc trần, mà lực lượng thù địch sử dụng như một chiêu bài quen thuộc trên “diễn đàn” truyền thông của chúng. Bởi cách làm này chẳng khác gì việc tự “cởi áo cho người xem lưng”. Lịch sử Việt Nam và thực tiễn xã hội chân thực luôn là tấm gương soi “thần kỳ”, khiến những kẻ chủ mưu tạo ra các bài viết có nội dung bịa đặt, vu khống phải "hiện nguyên hình" là những kẻ phản động, chống phá cách mạng Việt Nam.
Xin nhắc lại rằng: Ngay từ khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giác ngộ, thanh niên Việt Nam đã tin tưởng, đi theo Đảng, cùng với nhân dân cả nước làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành độc lập dân tộc, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong  cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc ngoại xâm, tuổi trẻ Việt Nam luôn phát huy truyền thống của cha ông, với tinh thần và ý chí: “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và những phong trào cách mạng: “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”… cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên chiến công vĩ đại: Giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tuyệt đại bộ phận người trẻ tuổi luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nêu cao tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong hơn 30 năm đổi mới, một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam đã "ra đời" với vóc dáng và diện mạo mới. Có thể nói, ít có thời kỳ nào mà tuổi trẻ lại có cơ hội và vai trò to lớn như trong tiến trình đổi mới và hội nhập như hiện nay. Số đông tuổi trẻ luôn thể hiện rõ vai trò đi đầu, thổi bùng lên ngọn lửa tình nguyện vì cộng đồng và không cam chịu đói nghèo, lạc hậu. Các mùa hè tình nguyện đã làm xanh nhiều góc phố bộn bề và bản làng xa xôi. Hàng chục nghìn trí thức trẻ tình nguyện lên đường về nông thôn, miền núi, góp phần vào sự phát triển của các miền quê nghèo khó, dựng xây biên giới, hải đảo xa xôi ngày càng giàu mạnh... Cùng với đó, còn có hàng nghìn doanh nghiệp trẻ hăng hái, trăn trở góp phần tạo dựng nên “thương hiệu Việt”; hàng vạn bạn trẻ đang cần mẫn “khởi nghiệp” bằng chính bàn tay, khối óc dám nghĩ, dám làm và biết làm. Chỉ tính kết quả từ việc thực hiện hai phong trào: “Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”, từ năm 2012 đến nay, tuổi trẻ cả nước đã triển khai hàng trăm chương trình, đề án, dự án. Tổ chức đoàn các cấp đã đảm nhận hơn 35.000 công trình thanh niên, phần việc thanh niên. Trong đó, nhiều chương trình, đề án mang lại hiệu quả cao, khẳng định vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của tuổi trẻ; đóng góp thiết thực phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội các địa phương. Các phong trào của tuổi trẻ còn tạo môi trường sinh động, điều kiện thuận lợi để cán bộ, đoàn viên, thanh niên được rèn luyện, trải nghiệm, cống hiến, trưởng thành, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, bổ sung nguồn cán bộ trẻ có triển vọng cho Đảng và hệ thống chính trị. Đặc biệt, thành tích đáng trân quý nhất là việc tuổi trẻ luôn sẵn sàng tình nguyện lên đường nhập ngũ, “giữ vững tay súng” bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc. Và dù trong điều kiện thời bình, vẫn có những cán bộ, chiến sĩ tuổi đôi mươi anh dũng hy sinh vì bình yên Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; làm bừng sáng lên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong giai đoạn mới.
Như vậy, trải qua các giai đoạn lịch sử, tuổi trẻ Việt Nam bao giờ cũng có vai trò hết sức quan trọng, thực sự là “rường cột nước nhà”. Nắm rõ chân lý đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Một dân tộc muốn hồi sinh, trước hết phải hồi sinh thanh niên...”. Đảng Cộng sản Việt Nam trải qua 12 kỳ đại hội, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều hoạch định những chủ trương sát đúng để lãnh đạo, chỉ đạo, quy tụ sức mạnh và phát huy vai trò của tuổi trẻ tham gia vào sự nghiệp cách mạng; đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo để tuổi trẻ hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước Đảng, trước Tổ quốc và nhân dân. Thực tế cho thấy, những cơ chế, chính sách chủ yếu được Đảng, Nhà nước ban hành đã đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và cơ bản của tuổi trẻ trong quá trình học tập, rèn luyện, cống hiến. Những năm gần đây, Đảng quyết tâm lãnh đạo, nhằm tạo ra một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam chủ động học tập, sao cho tuổi trẻ Việt Nam không còn tụt hậu so với thanh niên thế giới về khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý và hòa nhập nhanh vào kinh tế thị trường, kinh tế tri thức. Đảng ta cũng chú trọng lãnh đạo định hướng nghề nghiệp và việc làm; nâng cao trình độ thẩm mỹ, lối sống, thể lực và nâng cao tâm hồn cốt cách cho tuổi trẻ Việt Nam… Đặc biệt, việc Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đồng ý "đặt tên" năm 2000 - năm đầu tiên của thế kỷ 21 là “Năm Thanh niên” cho thấy sự quan tâm thiết thực, tạo điều kiện và cơ hội để tuổi trẻ Việt Nam vươn ra thế giới, khẳng định vị thế, uy tín với bạn bè "bốn bể, năm châu". Trên nền tảng đó, tuổi trẻ Việt Nam không ngừng mở rộng quan hệ bè bạn và hợp tác với hàng trăm tổ chức thanh niên, sinh viên thế giới; đã chủ động đề xuất và tổ chức thành công các hoạt động giao lưu với thanh niên các nước; tiếp tục củng cố mối quan hệ với tuổi trẻ các nước láng giềng và bạn bè truyền thống... Cùng với đó, tuổi trẻ Việt Nam còn tích cực, chủ động, tham gia hiệu quả vào các hoạt động tại Festival thanh niên, sinh viên thế giới. Vị thế và ảnh hưởng của tuổi trẻ Việt Nam còn được thể hiện ở nhiều cuộc thi thế giới và khu vực về Toán học, Vật lý, thể thao. Hiện tại, hàng chục vạn lao động Việt Nam mà chủ yếu là công dân trẻ tuổi đang đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế trong nước và thế giới với sự thông minh, sáng tạo, đức tính cần cù, chăm chỉ trong lao động và nghiên cứu khoa học...
Thành tích của tuổi trẻ đáng trân trọng là vậy, thế nhưng, chúng ta không thể phủ nhận những tồn tại, hạn chế cố hữu ở một bộ phận lực lượng xã hội này, như chỉ thích hưởng thụ, ngại lao động; thần tượng hóa cá nhân... Đây là hạn chế không thể tránh khỏi trong tâm lý lứa tuổi. Nói cụ thể hơn, thực trạng này có nguyên nhân từ chính trong quá trình hội nhập toàn cầu; tác động của mặt trái kinh tế thị trường đang làm biến đổi nhiều mặt đời sống xã hội, dẫn đến tình trạng xuất hiện ngày càng nhiều lối sống thực dụng, ích kỷ, buông thả, thiếu ý thức rèn luyện, non kém về nhận thức chính trị, sống thụ động, thờ ơ, ngại tham gia các hoạt động chính trị, xã hội… Như vậy, đây là thực tế tồn tại ở một bộ phận các tầng lớp xã hội nói chung, xuất hiện ở tất cả các nước trên thế giới mà không riêng gì ở giới trẻ, không riêng gì ở Việt Nam!
Cần thấy rằng, những hạn chế, yếu kém nêu trên được Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhận diện đầy đủ, báo động "từ xa, từ sớm", có chủ trương lãnh đạo, định hướng tư tưởng và hành động cho tuổi trẻ. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng mới đây tiếp tục hoạch định những chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, trong đó có việc bồi dưỡng, phát triển đội ngũ thanh niên, người trẻ tuổi, nhất là về lý tưởng, tư tưởng. Đảng ta cũng tập trung lãnh đạo Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động nhiều chiến dịch thiết thực thu hút đông đảo bạn trẻ tham gia, giúp lực lượng xã hội này nâng cao ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, xứng đáng là thế hệ tiếp nối truyền thống hào hùng của dân tộc và cha anh.
Một điểm nhấn quan trọng nữa là Đảng Cộng sản Việt Nam đang quyết liệt đổi mới tư duy trong việc sử dụng, trọng dụng cán bộ trẻ nói riêng, nguồn lực trẻ nói chung, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. Thực hiện tinh thần đó, Đảng đã đạt nhiều thành tích toàn diện, rõ nét trong đổi mới lãnh đạo về công tác cán bộ, trẻ hóa cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm không chỉ góp phần thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị mà còn chuyển tiếp vững vàng các thế hệ cán bộ trong hệ thống chính trị từ Trung ương về cơ sở. Hơn thế nữa, Đảng đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia vào quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ, tạo việc làm, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống cho giới trẻ; tập trung làm tốt công tác tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên, hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm, khuyến khích thanh niên đi vào các ngành khoa học công nghệ có chất lượng cao. Với chức năng của mình, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xây dựng và triển khai Đề án “Thanh niên khởi nghiệp”, mở rộng khả năng khai thác các nguồn vốn vay cho người trẻ tuổi, tập trung hỗ trợ thanh niên vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh… đồng thời tiếp tục tham mưu các chính sách trọng dụng tài năng trẻ, tạo bước đột phá trong sử dụng cán bộ trẻ trên các lĩnh vực. Nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho tuổi trẻ, để họ thực sự là lực lượng chủ đạo và chủ động trong quá trình hội nhập quốc tế... Đó thật sự là những chủ trương, giải pháp, phần việc thiết thực giúp tuổi trẻ tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí là “rường cột nước nhà”.
                                                                                                  Q.C.504


Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2017



PHẢI CHĂNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 
VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VỚI VẤN ĐỀ GIAI CẤP
 LÀ SAI LẦM?
Văn Cao
Trong những năm qua, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, những nhà khoa học chân chính do xuất phát từ quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, đã có những nhận định đúng đắn, nghiêm túc về những đóng góp sáng tạo của Người. Nhưng bên cạnh đó, lại có một số người do phai nhạt lý tưởng, thoái hoá biến chất và do cả sự cơ hội về chính trị, đã đưa ra một số quan điểm sai trái, cho rằng: Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng là vấn đề giữ vai trò chi phối khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc ra khỏi vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, đối với cách mạng Việt Nam hiện nay chỉ nên nêu ra vấn đề và giải quyết vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mặc dù họ đồng tình với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nhưng lại giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Thực chất là họ bác bỏ quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Chúng ta cần phải đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái đó.
Trong hệ thống tư tưởng toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, tư tưởng về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là một trong những nhân tố bảo đảm thành công của cách mạng Việt Nam.
Trong bất kỳ chế độ xã hội nào từ khi xuất hiện giai cấp đến nay, vấn đề dân tộc và giai cấp luôn là những vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Thực tế cho thấy, việc giải quyết vấn đề dân tộc đối với bất kỳ chế độ xã hội nào đều trên lập trường, quan điểm giai cấp. Đề cập vấn đề dân tộc, giai cấp, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc và bản chất của vấn đề dân tộc; những quan hệ cơ bản của dân tộc; thái độ của giai cấp công nhân và đảng của nó với vấn đề dân tộc. Vì vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Sau nhiều năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, chỉ đến khi bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chứng kiến Cách mạng Tháng mười Nga thành công, Nguyễn Ái Quốc mới đi đến kết luận: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[1], và: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[2]. Kết luận này của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, lôgíc con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[3].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hưng rất cơ bản đối với tiến trình cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nưc khác trên thế giới, Hồ Chí Minh đã xác định những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt tám mươi bảy năm qua. Bởi :
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo qũy đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mng đó phải da vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ dựa vào lực lượng riêng giai cp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn giữa địa chủ với nông dân, mâu thuẫn tư sản với vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược. giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. Bởi:“Nếu không giải quyết được dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm củng không đòi lại được[4], và “Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc[5]. Ở đây, rõ ràng vấn đề giai cấp được biểu hiện ở vấn đề dân tộc, vấn đề dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là hy sinh cái nọ cho cái kia như có người đã từng cố chứng minh nhằm bóp méo, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, cách mng giải phóng dân tc và cách mạng vô sản ở chính quốc, như hai cánh của một con chim, phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiu vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nưc, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nưc khác.
Rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm, chứng minh là khoa học, cách mạng. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người về mối quan hệ vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết. Với lương tâm và trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên của Đảng, chúng ta phải đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp.









[1]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.563.
[2]Sđd, tập 12, tr.30.
[3]Sđd, tập 15, tr.392.
[4]Văn kiện Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tập 3, tr.48.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.128.


ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CON ĐƯỜNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN Ở VIỆT NAM 
Phu Quoc
Thực tế cho thấy, khi mà một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử phát triển của nhân loại, được đánh dấu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917 với xu thế dân chủ hóa ngày càng mạnh mẽ thì dân tộc Việt Nam vẫn đang chìm trong đêm dài nô lệ dưới sự áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Dân tộc không có quyền tự quyết, người dân không có quyền tự do, các mô hình và thể chế chính trị phong kiến hay tư sản đang nằm trong số các lựa chọn để thiết lập ở Việt Nam hoặc đã bị thực tiễn vượt qua, hoặc đang tỏ rõ là chế độ chính trị hiếu chiến, xâm lược, phản động, chỉ vì lợi ích của giai cấp thống trị. Do đó, trong cuộc vận động, tìm kiếm một con đường cứu nước mới cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh đã đưa đến cho nhân dân Việt Nam một con đường phát triển đúng đắn, hợp quy luật khách quan, xu thế thời đại và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân đang bị đọa đày đau khổ. Ngày nay, thực tiễn thế giới càng chứng minh, đó là con đường phát triển bền vững và có tính nhân văn cao nhất.
Mục tiêu con đường phát triển đã được Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam lựa chọn là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để đi đến mục tiêu đó chỉ có thể bằng con đường cách mạng vô sản và trên con đường đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam phải tiến hành liên tiếp hai cuộc cách mạng, đó là: Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành quyền tự quyết định, lựa chọn con đường phát triển và Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để từng bước tạo lập những tiền đề cần và đủ cho mục tiêu mọi người đều được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, có một môi trường tốt nhất để phát triển toàn diện cá nhân. Bởi lẽ, với Việt Nam - một nước không lớn, kinh tế, khoa học kỹ thuật chưa phát triển lại từng là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc thì độc lập dân tộc không thể tồn tại nếu không gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và do đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa để bảo đảm cho sự bền vững của độc lập dân tộc và từng bước giải phóng con người là tất yếu khách quan.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn thế giới hiện đại và những gì mà hơn 70 năm qua, thể chế chính trị Việt Nam mang lại cho các tầng lớp nhân dân đã khẳng định tính nhân văn và giá trị phổ quát mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Trên thực tế, nếu những ai là người có lương tâm, đạo đức, biết tôn trọng bản thân và đồng loại, không có dã tâm sống trên mồ hôi, xương máu của người khác thì chắc chắn không bao giờ người đó phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Bởi lẽ, con đường phát triển đó không tự nhiên có ở Việt Nam, mà nó là sản phẩm của một quá trình dài tìm tòi, nghiên cứu, so sánh, đối chiếu giữa các học thuyết, các thể chế chính trị và mô hình nhà nước khác nhau trên nền tảng chủ nghĩa nhân văn rộng lớn, sâu sắc của nhân cách Hồ Chí Minh - lãnh tụ chính trị; Anh hùng giải phóng dân tộc; Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước từ thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Hồ Chí Minh hiểu rõ hơn ai hết sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến khi đối đầu với hệ tư tưởng tư sản. Người nhận ra rằng, giai cấp địa chủ, phong kiến Việt Nam đã không còn giữ được địa vị và vai trò lịch sử của mình nữa. Mặt khác, do có nhiều năm hòa mình vào cuộc sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản phát triển như Pháp, Mỹ, Anh từ 1911 đến 1923 Hồ Chí Minh đã nhận rõ bản chất của chế độ chính trị tư sản. Đó là chế độ chính trị mà quyền lực thuộc về số ít, chế độ đó chẳng những đã tạo ra tiền đề làm tha hóa con người, mà bản thân nó đã và đang bộc lộ rõ sự hiếu chiến, xâm lược và phản động. Biểu hiện cụ thể là các chế độ chính trị đó đang tiến hành các hành động xâm lược, áp bức, bóc lột con người, biến các nước nghèo và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam trở thành thuộc địa, tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản với các nước thuộc địa - một mâu thuẫn mới của thời đại. Do vậy, cả thể chính trị tư sản và phong kiến đều không phải là chế độ chính trị bảo đảm được sự phát triển bền vững của nhân loại.
Trong khi đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng phẩm chất nhân văn cao cả với nhãn quan và tư duy chính trị thiên tài đã kế thừa, phát triển những tinh hoa tư tưởng của nhân loại để chỉ ra quy luật và con đường vận động phát triển đúng đắn của xã hội loài người nói chung, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói riêng. Như vậy, học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, về quy luật vận động phát triển của xã hội loài người là sự hội tụ tinh hoa trí tuệ của nhân loại, có một quá trình phát sinh, phát triển và hoàn thiện chứ hoàn toàn không phải là sản phẩm của ý chí chủ quan. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội không chỉ là khoa học mà còn được hiện thực hóa trong thực tiễn cuộc sống sau thắng lợi của Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917. Với giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả, Cách mạng Tháng Mười Nga và chế độ chính trị ra đời từ cuộc cách mạng đó đã lan tỏa, cổ vũ, khích lệ giai cấp công nhân và nhân dân lao động khắp thế giới quyết tâm đi theo con đường cách mạng vô sản, vùng lên đấu tranh giành độc lập và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua quá trình thiết lập thể chế chính trị tư sản. Từ đó, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời và trở thành một phong trào của hiện thực lịch sử.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp mới mẻ, có tính chất nhân văn sâu sắc, cho nên nó phải trải qua một quá trình dài với nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cần phải giải quyết trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Mặt khác, lý tưởng và bản chất của chủ nghĩa xã hội là bất biến, nhưng cách thức, con đường thực hiện là vạn biến ở mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau. Trên con đường cách mạng đầy mới mẻ, nhiều chông gai và sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị như con đường cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần phải có một đảng chính trị vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân; có khả năng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cái bất biến với cái vạn biến; không chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn. Một đảng như thế mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên giành thắng lợi từng bước và đi đến thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số Đảng Cộng sản chẳng những đã không làm được điều đó, mà còn, mắc phải một số sai lầm làm cho một số mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể rơi vào sơ cứng, máy móc, không phát huy được giá trị, sức sống và bản chất nhân văn, nhân đạo của mình. Điều đó dẫn đến sự xụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông ÂU làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào thoái trào. Mặc dù vậy, đó chỉ là sự sụp đổ của một số mô hình chính trị của thể chứ hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của quy luật vận động phát triển của xã hội loài người, càng không phải là sự sai lầm của học thuyết Mác - Lênin. Bởi lẽ, dù thế giới có xoay vần, biến đổi thế nào, cuối cùng chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ được xác lập, vì đó là quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một giai cấp, một nhóm hay một cá nhân nào. Chỉ có điều, nếu những người cách mạng có nhận thức đúng về quy luật đó, chủ động dọn dẹp mọi vật cản trên đường đi, tạo nên được động lực mạnh mẽ và tác động cùng chiều với xu hướng vận động của quy luật thì chủ nghĩa xã hội sẽ hiện diện sớm hơn và ngược lại.
Thực tiễn thế giới hiện nay càng khẳng định không thể có con đường nào khác để phát triển bền vững ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, chủ nghĩa tư bản vẫn đang hàng ngày, hàng giờ tạo ra các xung đột lợi ích, sử dụng thành quả lao động của nhân dân để đầu tư cho sản xuất các loại vũ khí giết người hàng loạt, buộc tất cả các nước phải lãng phí nguồn lực cho chạy đua vũ trang để tự vệ trước các hành động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó cho thấy, việc kiên định mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển là hoàn toàn đúng đắn, bảo đảm cho sự phát triển bền vững tất cả vì con người.
Là một Đảng cách mạng chân chính, ra đời từ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định mục tiêu con đường cách mạng vô sản. Vậy mà hiện nay, cùng với những thành tựu mà Đảng và nhân dân Việt Nam đã giành được trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đại bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận rõ giá trị nhân văn, nhân đạo của thể chế chính trị mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng thì cũng đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều những quan điểm, tư tưởng, luận điệu phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những phần tử đề cao chủ nghĩa cá nhân, cơ hội chính trị… họ lấy hiện tượng áp đặt vào bản chất để từ đó cho rằng, lý luận, học thuyết về chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là lỗi thời, lạc hậu, là không thể thực hiện được. Điều này hoàn toàn không mới, bởi ngay khi bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời vào năm 1848 - một bản tuyên ngôn uy hiếp trực tiếp đến địa vị thống trị và lợi ích của giai cấp tư sản thì nó đã sớm được chủ nghĩa tư bản coi đó là “bóng ma ám ảnh châu Âu”. Ở Việt Nam hiện nay, các phần từ bất mãn, cơ hội chính trị đang cố tình dựng chuyện, xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; họ lợi dụng, khoét sâu vào một số hạn chế, khuyết điểm và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phủ nhận thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam. Âm mưu đó không gì khác hơn là nhằm thiết lập lại một môi trường mà cá lớn có thể tự do nuốt cá bé; một thể chế chính trị mà những kẻ mạnh có thể tự do ức hiếp kẻ yếu.
Do vậy, những người có lương tâm và lòng tự trọng nhất định sẽ kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, dù đất nước còn khó khăn đến đâu. Bởi lẽ, cả lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh, việc lựa chọn và kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Mặc dù trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn những hạn chế nhất định và kết quả xây dựng chưa được như mong muốn. Tuy nhiên, mỗi người cần nhận rõ, những hạn chế, yếu kém đó có cả nguyên nhân khách quan, chủ quan và một trong những nguyên nhân quan trọng là một số cán bộ, đảng viên cả những người được coi là các nhà khoa học, các trí thức đã không đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân để nhìn nhận, xem xét mọi vấn đề phát sinh phát triển trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, cách nhìn của họ chưa khách quan, toàn diện và cụ thể, dẫn đến có quan điểm bất mãn, bi quan, thiếu niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, sự chống phá của các thế lực thù địch đã và đang làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng không vượt qua được chính mình, bị cám dỗ, bị mua chuộc mà hùa theo các quan điểm, tư tưởng sai trái đòi phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đòi thay đổi cương lĩnh chính trị, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; đòi thay đổi hiến pháp, thay đổi tên nước, thay đổi thể chế chính trị.
Để kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đòi mỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người Việt Nam yêu nước phải tỉnh táo, không ngừng củng cố niềm tin khoa học vào con đường phát triển của dân tộc mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn trên cơ sở không ngừng học tập, nghiên cứu lý luận chính trị để nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại, nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của các học thuyết chính trị. Lấy lợi ích quốc gia dân tộc, môi trường hòa bình, ổn định và cuộc sống bình yên của nhân dân làm chuẩn mực cho mọi ứng xử chính trị. Luôn đứng vững trên lập trường của người cộng sản chân chính để có thái độ đúng đắn nhất trước những hạn chế, khuyết điểm và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Luôn đề cao tự phê bình và phê bình, góp phần tích cực vào sự nghiệp chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Mặt khác, cần sớm nhận diện và đấu tranh kiên quyết với các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, những hành động chống phá, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc và cản trở sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...