Thứ Năm, 23 tháng 3, 2023

Phê phán luận điệu xuyên tạc chính sách đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài

 Những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, nỗ lực cao nhất nhằm tạo việc làm cho người lao động ở trong nước, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để người lao động Việt Nam có cơ hội xuất khẩu ra nước ngoài làm việc một cách hợp pháp.

Tuy nhiên, với tâm địa xấu xa, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về công tác đưa công dân Việt Nam đi lao động tại nước ngoài.

Âm mưu xuyên tạc đen tối

Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mối quan hệ kinh tế này là việc hợp tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là vấn đề không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn là xu thế chung của các quốc gia đang phát triển.

Thế nhưng, thời gian gần đây, một số thế lực thù địch, cơ hội chính trị cố tình rêu rao, xuyên tạc, đơm đặt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tổ chức phối hợp đào tạo, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hướng đến mục đích gây ra sự phân tâm, lo lắng, hoài nghi về nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với người lao động; làm giảm sự nhiệt huyết của người lao động có dự định ra nước ngoài làm việc và công dân Việt Nam đang lao động ở nước ngoài; phủ nhận mọi nỗ lực, kết quả của cơ quan chức năng Việt Nam trong công tác quản lý di cư, bảo hộ công dân và mưu đồ đen tối hơn là nhằm hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
 Ảnh minh họa: Vietnamnet.vn

Chính sách quan tâm, bảo hộ người lao động Việt Nam ở nước ngoài

Cách đây 11 năm, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 8-5-2012 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài” xác định: Việc đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nhằm giải quyết việc làm, tạo thu nhập, phân công lại lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng nguồn thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chủ trương của Nhà nước Việt Nam là không đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng mọi giá, mà phải bảo đảm hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động ra nước ngoài làm việc cũng như sau khi về nước có vị trí làm việc phù hợp. Người lao động được tự do lựa chọn hình thức làm việc phù hợp, không bị ép buộc phải làm việc trái ý muốn. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thi hành mọi biện pháp để công dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích theo pháp luật nước tiếp nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó ký kết hoặc tham gia, hoặc theo tập quán quốc tế. Khi các quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam bị xâm phạm, cơ quan đại diện có nghĩa vụ thi hành mọi biện pháp để khôi phục những quyền và lợi ích chính đáng đó. Trách nhiệm Nhà nước trong việc thực hiện mọi biện pháp cần thiết phù hợp với pháp luật sở tại, luật pháp và thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền và lợi ích của công dân Việt Nam ở nước ngoài được quy định tại hầu hết văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, như: Hiến pháp năm 2013 (Khoản 3, Điều 17), Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (Điều 5); Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 (Điều 8 và Điều 9), Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020...

Đối với tình huống cần phải bảo hộ công dân thì nhiều biện pháp nghiệp vụ đã được các cơ quan đại diện chủ động tích cực triển khai, tiến hành hiệu quả. Trong đó có các hoạt động như: Trao đổi với cơ quan chức năng nước sở tại tạo thuận lợi cho công dân Việt Nam sinh sống, học tập, làm ăn hợp pháp; hỗ trợ, giúp đỡ đối với trường hợp gặp khó khăn; vận động hội đoàn người Việt Nam hỗ trợ tích cực cho công tác bảo hộ công dân; cử cán bộ tham dự các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và yêu cầu phía người sử dụng lao động, công ty bảo hiểm bồi thường cho công dân khi gặp tai nạn lao động; đưa tin khuyến cáo công dân và cử cán bộ trực điện thoại đường dây nóng 24/7 kịp thời hỗ trợ trong những tình huống khủng hoảng.

Những năm qua, Việt Nam từng tổ chức nhiều phương án, biện pháp thiết thực trợ giúp đồng bào ở nước ngoài trước những tình thế khó khăn, trở ngại, như: Vận chuyển công dân Việt Nam trở về từ Malaysia, Trung Đông các năm 2005, 2007; giải cứu hành khách bị kẹt tại Thái Lan do khủng hoảng chính trị năm 2008; đưa hành khách ra khỏi châu Âu do núi lửa phun trào năm 2010; lập cầu hàng không sơ tán người lao động ở Libya năm 2011 và 2014... Gần đây, để bảo đảm cho người lao động không bị sập bẫy chiêu trò lừa đảo “việc nhẹ, lương cao”, các cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam đã tích cực đấu tranh có hiệu quả với tội phạm lừa đảo lao động. Trong 6 tháng đầu năm 2022, lực lượng công an, Bộ đội Biên phòng Việt Nam phối hợp với lực lượng chức năng Campuchia giải cứu hơn 250 trường hợp người lao động bị lừa sang Campuchia lao động trái phép.

Góp phần mang lại lợi ích quốc gia và giá trị cho người lao động

Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài bắt đầu được thực hiện từ những năm 80 của thế kỷ trước. Chính sách này góp phần mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc và mang lại nhiều giá trị thiết thực cho chính người lao động. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn góp phần xóa đói, giảm nghèo cho một bộ phận người lao động ở vùng khó khăn như nông thôn, miền núi và ven biển. Bên cạnh đó, chính sách thiết thực này còn đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời cũng là điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Theo thống kê của cơ quan chức năng, trong 10 năm qua (2012-2022), mỗi năm Việt Nam đã giải quyết việc làm bình quân cho khoảng 1,5-1,6 triệu lao động trong và ngoài nước, số lao động ngoài nước giải quyết được khoảng 10% số này. Riêng năm 2022 đã giải quyết khoảng 80.000 người lao động ra nước ngoài. Mỗi năm bình quân người lao động và chuyên gia gửi về nước với số tiền ước tính khoảng 10 tỷ USD.

Đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài, được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu những công nghệ tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình thành nên đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn cao. Sau khi kết thúc hợp đồng lao động có thể đạt được tối thiểu bậc thợ trung bình, phần lớn trong số họ có tay nghề vững vàng, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Từ những kết quả, lợi ích thiết thực nêu trên, càng thêm khẳng định những nỗ lực của các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và những tổ chức, cá nhân liên quan trong hoạt động đưa công dân Việt Nam đi lao động ở nước ngoài. Đây cũng là minh chứng bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc, lao động ở nước ngoài.

Nguồn: Báo QĐND

ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM THEO KIỂU “THẦY BÓI XEM VOI”

Hãng nghiên cứu và phân tích Economist Intelligence Unit (EIU-có trụ sở chính tại Vương quốc Anh) mới đây đã công bố báo cáo chỉ số dân chủ năm 2022, trong đó xếp Việt Nam vào “nhóm nước phi dân chủ, độc tài”. Sau đó vài ngày, Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch-có trụ sở tại Hoa Kỳ) cũng đưa ra báo cáo cho rằng, chính quyền Việt Nam sách nhiễu và giam giữ nhiều “nhà hoạt động” trong hai thập kỷ qua. Chỉ chờ có thế, một số báo, đài nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam lại dồn dập đưa ra cái gọi là phân tích, luận giải, góc nhìn theo kiểu “Thầy bói xem voi”.

Đầu tiên phải khẳng định, báo cáo của EIU là sai lầm và bịa đặt, đúng như đánh giá của nhiều chuyên gia nghiên cứu chính trị: “Họ chỉ thấy cây mà... cố tình không thấy rừng”. Báo cáo cũng tiếp tục ca ngợi cái gọi là thành tích “dân chủ phương Tây” trong khi hầu hết các giá trị “dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN)” bị bỏ qua. Các nước một đảng lãnh đạo hoặc Đảng Cộng sản lãnh đạo, các nước XHCN hoặc theo thiên hướng XHCN đều bị báo cáo này xếp vào nhóm điểm số dân chủ rất thấp mà điển hình như: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba...

Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác không chấp nhận việc một số quốc gia hay tổ chức quốc tế luôn tự cho mình cái quyền dùng các yêu cầu dân chủ, nhân quyền mà phương Tây tự đặt ra để đòi hỏi nước khác phải lấy đó làm tiêu chuẩn. Trong các tiêu chí để xếp hạng chỉ số dân chủ, EIU đưa ra các tiêu chí rất thiên vị kiểu “dân chủ phương Tây” như tỷ lệ tham gia chính trị, quyền tự do cá nhân, trong đó chủ đạo là vấn đề thể chế đa nguyên, đa đảng để rồi dễ dàng đi đến xếp hạng Việt Nam vào nhóm nước phi dân chủ, độc tài.

Trên thực tế, việc đưa ra các "giá trị phương Tây" cũng là khiên cưỡng. Chính tổ chức đa phương lớn nhất thế giới là Liên hợp quốc (LHQ) cũng luôn khẳng định, các nước trên thế giới ở những trình độ phát triển khác nhau nên không thể lấy giá trị, tiêu chuẩn của nước này áp đặt cho nước khác. Hiến chương LHQ cũng nhấn mạnh: “Không quốc gia nào, kể cả LHQ, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia”. Quyền con người không thể đứng một mình tách rời, nó phải được đặt trong bối cảnh lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước đó.

Điều này đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận thông qua Tuyên bố Vienna và Chương trình Hành động tại Hội nghị thế giới về nhân quyền năm 1993 tại Vienna (Áo). Tuyên bố Vienna đã khẳng định khi xem xét vấn đề nhân quyền phải luôn ghi nhớ tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo...

Dù luôn tự cho mình là dân chủ nhưng thực tế, các thiết chế dân chủ phương Tây đang áp đặt lên toàn cầu không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nó chỉ thuộc về các tập đoàn tư bản, nơi chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất và quyền lực. Tuy nhiên, EIU đã bỏ qua những yếu tố có tính lịch sử khác biệt và sự bất công hiển nhiên đang tồn tại ở chế độ tư bản khi xếp hạng.

Và chính họ, cùng với Tổ chức Theo dõi nhân quyền đưa ra các báo cáo này đang vi phạm nhân quyền thì lại tự cho mình quyền đánh giá dân chủ, nhân quyền của các nước khác. Câu chuyện ngụ ngôn về những ông thầy bói mù xem voi và thánh phán lung tung đã được tái hiện trong việc đánh giá dân chủ, nhân quyền của một số tổ chức phương Tây vừa nêu. Tuy nhiên, những ông thầy bói mù hình dung không đúng về con voi, là do họ bị mù; còn một số nhà dân chủ phương Tây năm nào cũng lăm le báo cáo nhân quyền, dân chủ, chõ miệng tanh hôi vào nội bộ nước khác, thì khác các ông thầy bói kia ở tâm địa hiểm độc.

EIU đưa ra những tiêu chí rất mù mờ, cho rằng đa nguyên, đa đảng là dân chủ, còn một đảng, nhất nguyên là mất dân chủ, độc tài, là rất thiếu căn cứ. Thực tiễn các quốc gia trên thế giới cho thấy, vấn đề một đảng hay đa đảng không nói lên được đất nước đó có dân chủ hay mất dân chủ. Có những quốc gia rất nhiều đảng phái nhưng vẫn là quốc gia dân chủ thấp, quyền con người không được bảo đảm, lợi ích chỉ nằm trong tay một bộ phận giàu có. Ngược lại, một số quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng lại là quốc gia mà người dân luôn cảm thấy hạnh phúc. Đại dịch Covid-19 đang phơi bày tất cả mặt trái, những bất công của chế độ tư bản chủ nghĩa khi mà cuộc khủng hoảng diễn ra cả về kinh tế, chính trị và y tế, xã hội. Đời sống của đa số người lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng, trong khi số lượng tỷ phú đô-la lại tăng mạnh, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn.

Là một sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hội tụ trong mình đầy đủ các yếu tố để lãnh trọn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thành công, giải phóng dân tộc, đưa đất nước tiến lên con đường XHCN, xây dựng đất nước ngày một phồn vinh.

Chỉ nói riêng về bản chất dân chủ của thể chế chính trị Việt Nam qua hơn 92 năm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thấy rõ: Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng đất nước; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trên thực tế, Đảng ta luôn nhận thức rất rõ vấn đề thực hành dân chủ, dân chủ ngay chính trong nội bộ Đảng và thực hiện tốt nhất quyền dân chủ thuộc về nhân dân. Đảng luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Thực tiễn việc xử lý hàng loạt tổ chức đảng và đảng viên có sai phạm, cùng việc ban hành những quy chế, quy định khắt khe của Đảng để mọi đảng viên phải rèn luyện, phấn đấu, tự răn mình bao năm qua đã chứng minh điều đó.

VIỆT NAM LUÔN BẢO ĐẢM SỰ ĐA DẠNG, HÒA HỢP VÀ BÌNH ĐẲNG TÔN GIÁO

 Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề. Riêng trong lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay khoảng: Phật giáo: 15,1 triệu; Công giáo: 7,1 triệu; Cao đài: 1,1 triệu; Tin lành: 1 triệu; Hồi giáo: 80.000; Phật giáo Hòa hảo: 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…).

Với chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của mọi người, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mọi người, số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự ngày càng gia tăng; quy mô hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lớn; chính quyền các cấp đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hoạt động tôn giáo có đông người dân và du khách nước ngoài tham dự... Cụ thể, người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm đăng ký với chính quyền. Tổ chức tôn giáo được hoạt động theo Hiến chương, điều lệ, được tạo điều kiện in ấn, phát hành kinh, sách tôn giáo; nâng cấp, xây mới cơ sở thờ tự; mở rộng quy mô và hình thức sinh hoạt; tăng cường, mở rộng hoạt động quốc tế… Việc công nhận tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân và sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế.

Còn đối với các nhóm người theo tôn giáo chưa được công nhận về mặt tổ chức hoặc chưa được cấp đăng ký hoạt động, chính quyền các địa phương vẫn bảo đảm tự do sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ tại gia đình, điểm nhóm đăng kí với chính quyền hoặc địa điểm hợp pháp theo quy định của Luật. Hiện nay, có hàng trăm điểm nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có cả điểm nhóm của người nước ngoài. Tính đến năm 2021, khu vực Tây Nguyên hiện có khoảng 580.000 tín đồ đạo Tin lành thuộc 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 311 chi hội, 183 nhà thờ, hơn 1.700 điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. Tại khu vực miền núi phía Bắc có khoảng 250.000 tín đồ đạo Tin lành đang sinh hoạt tại 14 chi hội và hơn 1.600 điểm nhóm, trong đó chính quyền địa phương đã cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho gần 800 điểm nhóm.

Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ, chính sách của Nhà nước Việt Nam cũng phát huy được những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp, nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước. Những năm qua, các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội hóa về y tế, giáo dục và từ thiện nhân đạo, góp phần đáng kể vào công tác an sinh xã hội, giảm gánh nặng cho Nhà nước, cụ thể: Thành lập trên 450 cơ sở y tế; gần 1.300 trường, lớp mầm non, trên 50 cơ sở dạy nghề; 800 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo đã đồng hành cùng với Chính phủ trong công tác phòng chống COVID-19 thông qua việc ủng hộ vật chất (tiền và hiện vật) với tổng giá trị hàng chục tỷ đồng. Điển hình: Giáo hội Phật giáo Việt Nam ủng hộ Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 5 phòng áp lực âm phục vụ điều trị COVID-19, trị giá 3,5 tỷ đồng; Ủy ban bác ái xã hội, Hội đồng giám mục Việt Nam hỗ trợ vùng dịch của tỉnh Vĩnh Phúc khẩu trang, nước rửa tay, vitamin C; Giáo hội Các ngày sau của Chúa Giê su Ki tô đã ủng hộ 50.000 khẩu trang trị giá 300 triệu đồng…

Báo cáo nhân quyền của Mỹ nhận định thiếu khách quan về Việt Nam Việt Nam

Lấy làm tiếc vì Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng đã bày tỏ như vậy tại buổi họp báo thường kỳ chiều 23-3 tại Hà Nội.

Tại họp báo, phản ứng trước những nhận định thiếu khách quan trong Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định:

“Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước, luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực tiễn.

Việt Nam lấy làm tiếc vì Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn có sự khác biệt để tăng cường hiểu biết và đóng góp vào sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

Bà Phạm Thu Hằng lấy làm tiếc vì Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan. Ảnh: HỒNG NGUYỄN 

* Trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc nhóm AUKUS công bố kế hoạch trang bị tàu ngầm hạt nhân cho Australia, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ: “Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới là mục tiêu chung của mọi quốc gia và các nước có trách nhiệm đóng góp vào mục tiêu này.

Năng lượng nguyên tử, hạt nhân cần được sử dụng, phát triển vì mục đích hòa bình và phát triển kinh tế-xã hội của các nước. Việc sử dụng và phát triển năng lượng nguyên tử, hạt nhân phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho con người và môi trường. Chúng tôi mong rằng các quốc gia sẽ có trách nhiệm tích cực đóng góp vào mục tiêu chung này vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới”.

* Liên quan tới câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận trước thông tin Nhật Bản muốn thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với ASEAN, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết, Việt Nam đánh giá cao những tiến triển mạnh mẽ và thực chất trong quan hệ ASEAN-Nhật Bản, đóng góp tích cực cho mục tiêu chung là hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng.

“Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước ASEAN và Nhật Bản thúc đẩy quan hệ hai bên phát triển lên tầm cao mới, hướng tới kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN-Nhật Bản trong 2023”, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh.

Nguồn: Báo QĐND

Quốc hội Việt Nam cam kết tạo khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch, thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài

Chiều 23-3, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã tiếp Đoàn Doanh nghiệp cấp cao của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN (USABC) đang thăm, làm việc tại nước ta.

Tham dự cuộc tiếp có Tổng thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường; Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà cùng đại diện Thường trực các ủy ban của Quốc hội và một số bộ, ngành liên quan.

Về phía Đoàn USABC có: Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Knapper; Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc USABC Ted Osius; Phó chủ tịch Cấp cao kiêm Giám đốc Điều hành Khu vực Michael Michalak và lãnh đạo hơn 40 tập đoàn, công ty thành viên.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá cao hoạt động hiệu quả của Cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ nói chung và USABC nói riêng, nhấn mạnh vai trò của cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ - ASEAN là đối tác và nguồn lực tin cậy trong thúc đẩy các mục tiêu và ưu tiên kinh tế chung của Việt Nam cũng như sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với nguồn vốn dồi dào, chất lượng cao, kinh nghiệm quản trị tốt, công nghệ cao, Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; mong muốn Hoa Kỳ sớm cải thiện thứ bậc trong bảng xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.

Thời gian qua Quốc hội Việt Nam đã kịp thời ban hành các Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau đại dịch nhằm nỗ lực hỗ trợ các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp Hoa Kỳ, trong việc phục hồi sau đại dịch. Nhờ đó, Việt Nam đã lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 8,02%, các cân đối vĩ mô được bảo đảm.

Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Quốc hội Việt Nam cam kết tạo khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch, thuận lợi để các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Hoa Kỳ tiếp tục hoạt động, mở rộng quy mô và phát triển lâu dài tại Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực Hoa Kỳ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu; luôn sẵn sàng lắng nghe các ý kiến, quan tâm và nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp về chính sách, pháp luật của Việt Nam.

“Không có bất cứ ý kiến nào của doanh nghiệp gửi đến Quốc hội mà không được lắng nghe, nghiên cứu và tiếp thu nghiêm túc”, Chủ tịch Quốc hội khẳng định.

Các thành viên Đoàn doanh nghiệp cấp cao USABC trân trọng cảm ơn Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dành thời gian tiếp; chúc mừng những thành tựu tuyệt vời của Việt Nam thời gian qua và đánh giá cao những quyết sách của Quốc hội Việt Nam, đặc biệt là những quyết sách trong việc thúc đẩy tiến trình phục hồi kinh tế - xã hội và tháo gỡ rất nhiều vướng mắc trong lĩnh vực y tế...

Đại diện USABC cho biết, các doanh nghiệp Hoa Kỳ có niềm tin lớn đối với Việt Nam và triển vọng phát triển mạnh mẽ của Việt Nam trong tương lai. Đánh giá Việt Nam là thị trường chiến lược trong khu vực và nhiều doanh nghiệp cam kết sẽ đầu tư lâu dài trong lĩnh vực y tế, tăng trưởng xanh, năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ môi trường, đại diện các doanh nghiệp cũng gửi đến Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ một số kiến nghị liên quan đến các lĩnh vực chuyển đổi số, năng lượng tái tạo, thuế, đấu thầu, logistics, y tế..

Chủ tịch Quốc hội cho biết, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tiến trình chuyển đổi số là vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm.

Quốc hội đã và đang xem xét, thông qua một số đạo luật đóng vai trò nền tảng nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Cùng với đó, tháng 9 tới, Quốc hội Việt Nam cũng sẽ đăng cai tổ chức Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9, trong đó sẽ tập trung thảo luận về chủ đề chuyển đổi số.

Chủ tịch Quốc hội mong USABC tiếp tục đóng góp ý kiến cho Quốc hội Việt Nam trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về chuyển đổi số.

Về chuyển đổi năng lượng, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh 2 vấn đề then chốt là tài chính xanh và công nghệ. “Một mình Việt Nam không thể làm được. Chúng ta phải có kế hoạch chuyển giao công nghệ và hoàn thiện thể chế cho chuyển đổi năng lượng. Quốc hội Việt Nam đang đặt trọng tâm xây dựng pháp luật vào hoàn thiện thể chế cho chuyển đổi năng lượng công bằng”, Chủ tịch Quốc hội nói.

Về y tế, dược phẩm, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, nhiều kiến nghị, đề xuất của USABC và các doanh nghiệp đã được Việt Nam nghiên cứu và cụ thể hóa trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai vừa qua, đặc biệt là các quy định về tự chủ đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước, về các yếu tố hình thành giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và giá khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước...

Hiện nay, Quốc hội Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi Luật Đấu thầu, trong đó, đặt yêu cầu gắt gao đối với việc rà soát, hoàn thiện các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch các hoạt động này.

Quốc hội đang chuẩn bị cho ý kiến về dự án Luật Dược (sửa đổi), nhưng Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 80 về tiếp tục thực hiện một số chính sách trong phòng, chống dịch Covid-19 và sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực. Chính phủ và Quốc hội Việt Nam sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng trong dự án Luật Dược (sửa đổi), cam kết có một dự luật tốt nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Tại cuộc tiếp, Chủ tịch Quốc hội hoan nghênh đối thoại chính sách theo hướng win-win - hai bên cùng thắng và đề nghị USABC và các doanh nghiệp thành viên thường xuyên trao đổi, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ Việt Nam về các giải pháp chính sách, pháp luật về tiếp tục hoàn thiện, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam và năng lực cạnh tranh quốc gia, cùng tháo gỡ rào cản, vướng mắc của các nhà đầu tư.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Tư, 22 tháng 3, 2023

Lại những đánh giá sai lệch về Sách trắng Tôn giáo ở Việt Nam

Nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phản động, các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam đã câu kết với các phần tử cực đoan để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, thường xuyên lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc tình hình tôn giáo, tạo ra bức tranh méo mó về vấn đề tự do tôn giáo tại nước ta.

Mới đây, ngày 9/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tôn giáo Chính phủ đã ra mắt Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam; chính sách tôn giáo ở Việt Nam; thành tựu cũng như thách thức của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.

Sau khi Bộ Thông tin và Truyền Thông, Ban Tôn giáo Chính phủ ra mắt Sách trắng, ngay lập tức một số trang báo điện tử như VOA, RFI, RFA… cùng nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống đối đã có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá một cách tiêu cực về cuốn sách này. Họ đưa ra những bài viết cho rằng, việc cho ra đời cuốn sách này là “bức bình phong” nhằm che đậy các vi phạm kéo dài tại Việt Nam, nguyên nhân đã khiến Washington đưa Hà Nội vào danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo! Những đánh giá này được dựa trên nhận định của số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo như Thích Vĩnh Phước, một thành viên thuộc tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; linh mục Đinh Hữu Thoại, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam; Lê Quang Hiển, thuộc tổ chức Phật giáo Hòa Hảo thuần túy… Các cá nhân trên đều là thành viên của tổ chức bất hợp pháp với danh xưng “Hội đồng Liên tôn Việt Nam”.       

Đặc điểm chung của các trường hợp trên là đều thuộc các phần tử chống đối, có quá trình tu tập kém, ít chăm lo cho việc đạo nên uy tín, ảnh hưởng trong giáo hội xếp hạng thấp, năng lực yếu kém, không được trọng dụng. Từ đó, số này tỏ ra bất mãn và đã ly khai khỏi các tôn giáo, tổ chức tôn giáo, sau đó liên kết lại với nhau thành lập một tổ chức bất hợp pháp mang danh nghĩa tôn giáo để phục vụ ý đồ, động cơ riêng. Cho nên, hầu hết việc làm của họ đều mang mưu đồ, lợi ích cá nhân chứ không đại diện cho bất kỳ một tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích chung của cộng đồng. Do đó, những phát ngôn, nhận định mà họ chia sẻ với phóng viên của các trang báo điện tử nêu trên cũng chỉ mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, mang tính thù địch với Việt Nam của một nhóm nhỏ có chung lợi ích. Những nhận xét, đánh giá của số cá nhân chống đối nêu trên không thể coi là “đại diện cho tiếng nói tôn giáo”, càng không có giá trị tham khảo. Thế nhưng, bấy lâu nay, phóng viên của các trang báo điện tử VOA, RFI, RFA… lại viện dẫn những nhận định thiếu cơ sở, những đánh giá xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo của các đối tượng trên.

Trong khi đó, những nội dung trong Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” và gần đây là Chỉ thị 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” cùng với hàng chục văn bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân. Nhờ đó mà số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân được đảm bảo tốt hơn, các cơ sở thờ tự ngày càng được khang trang, đẹp đẽ, quan hệ quốc tế của các tôn giáo ngày càng được mở rộng, việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam được công khai theo quy định của pháp luật...

Đặc biệt, các hoạt động tôn giáo lớn đã trở thành lễ hội của người dân Việt Nam như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3 lần đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK, trong đó năm 2019 được tổ chức tại chùa Tam Chúc (Hà Nam) với trên 1500 đại biểu quốc tế đến từ 120 quốc gia, vùng lãnh thổ cùng hàng vạn tăng, ni, phật tử về dự; các lễ hội của Tin Lành như ngày lễ 100 năm Tin Lành đến Việt Nam được tổ chức trang nghiêm. Đặc biệt là ngày Lễ Giáng sinh của người Công giáo ở khắp mọi miền đất nước cũng đã trở thành một lễ hội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân Việt Nam... Vừa qua, giáo tỉnh Hà Nội cũng đã tổ chức thành công Đại hội Giới trẻ tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng với sự tham gia của Tổng Giám mục Marak zelewki – Đặc phái viên không thường trú của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam cùng các vị lãnh đạo giáo hội và khoảng 15 nghìn giáo dân là thanh niên, học sinh, sinh viên người Công giáo... Đây chính là những minh chứng sống động, chân thực về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, trong các hội thảo quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo được tổ chức tại Việt Nam hay trong các lần đón tiếp các đoàn lâm thời, các tổ chức nhân quyền tôn giáo quốc tế vào Việt Nam tìm hiểu chính sách, pháp luật tôn giáo của Việt Nam như: Viện Can dự Toàn cầu Mỹ (IGE), Tập đoàn truyền thông (WAZ) của Đức, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF)..., Việt Nam đều chủ động cung cấp các thông tin về tình hình tự do tôn giáo và chính sách, pháp luật của tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, thẳng thắn trao đổi các vấn đề mà dư luận quốc tế quan tâm. Từ đó, giúp các tổ chức này thấy rõ thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, phong phú cũng như cho thấy chính sách, pháp luật đã đảm bảo quyền tự don tôn giáo chính đáng của nhân dân.

Nếu như thực sự khách quan thì phóng viên của VOA, RFI, RFA, BBC… cần dẫn chứng thêm những nhận định, quan điểm của những vị lãnh đạo trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân, họ mới chính là người đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo Việt Nam. Thế nhưng, bấy lâu nay, khi lấy thông tin đánh giá, các trang thông tin báo chí nói trên luôn phớt lờ và bỏ qua thực tế này và một mực trung thành với quan điểm của các đối tượng chống phá. Do đó, một lần nữa cần khẳng định, việc phê phán Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam là một chiêu trò nhằm chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hòng phủ nhận những thành quả từ những chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Rõ ràng các đối tượng trong tổ chức “Hội đồng liên tôn Việt Nam” và các trang VOA, RFI, RFA… khi phê phán về cuốn Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam thực chất là một chiêu trò để biện hộ cho những luận điệu sai trái rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo, xuyên tạc về tình hình, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, qua đó lấy cớ phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước và thành quả trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo cho người dân.

Tại buổi họp báo công bố Sách trắng, Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Tiến Trọng nêu rõ: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định cho đất nước trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, đồng thời là một nhân tố xã hội và văn hóa tích cực góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Các tôn giáo du nhập từ bên ngoài cũng có quá trình tiếp biến với văn hóa Việt, tạo ra nét riêng của tôn giáo Việt Nam. Việt Nam là đất nước ôn hòa trong quan hệ giữa các tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Việc chung sống hòa bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo và không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở Việt Nam, các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện, xóa đói giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm giải quyết. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo Hiến chương, Điều lệ và quy định pháp luật. Theo thông tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Nhà nước bảo đảm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% dân số.

Nguồn: Báo CAND

Đổi mới hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Có thể thấy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong thời đại công nghệ số hiện nay là rất khó khăn, phức tạp. Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” được hình thành trên cơ sở tổng kết thực tiễn gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nghị quyết số 35-NQ/TW nêu rõ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII. Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu sai trái, xuyên tạc không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ uy tín, hình ảnh Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

Thực tế, những quan điểm thù địch, xuyên tạc bản chất của Nhà nước Việt Nam XHCN hướng tới mục tiêu làm thay đổi bản chất dân chủ của Nhà nước, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm làm chệch hướng. Bên cạnh các quy định của pháp luật, các biện pháp quản lý không gian mạng từ cơ quan có thẩm quyền thì vai trò của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi đạo đức của con người thông qua cơ chế giám sát cũng hết sức cần thiết. Cần nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo, định hướng, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất là sức mạnh tổng hợp của các “binh chủng” công tác tư tưởng để thực hiện thắng lợi đồng thời cả hai mục tiêu: Bảo vệ, phát triển, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng mạng internet, nâng cao khả năng nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin của người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi trường mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng. Mỗi người khi sử dụng mạng internet cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện rõ âm mưu, bản chất của các thế lực thù địch để không tin, không bị lôi kéo, dẫn dắt trước các thông tin xấu, độc.

Những âm mưu, thủ đoạn phá hoại trong thời đại số

Thời đại công nghệ số 4.0 làm thay đổi tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới chung quanh. Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác; phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông qua mạng xã hội. Từ những tiến bộ về khoa học và công nghệ sẽ xuất hiện nhiều hơn một số xu thế mang tính phổ quát bên cạnh những giá trị chung, truyền thống trong quan hệ xã hội ở các quốc gia nói chung với nhiều mức độ, đặc điểm khác nhau. Đó là xu thế dân chủ hóa đi đôi với cá thể hóa; xu thế đổi mới quản lý, quản trị quốc gia và trách nhiệm giải trình (chuyển đổi hệ thống hành chính mạnh mẽ sang chính phủ điện tử; phân cấp, phân quyền, minh bạch hóa thông tin; tăng cường nguồn lực cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả); xu thế tăng cường vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các hoạt động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn công nghệ số được các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng, thực hiện tinh vi và xảo quyệt, nguy hiểm hơn.

Trong thời đại công nghệ số đang phát triển như vũ bão, các thế lực thù địch, phản động tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ nhằm tận dụng đa dạng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là các mạng xã hội, xuất bản báo chí điện tử ở nước ngoài. Tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chống phá Việt Nam (như VOA tiếng Việt, RFA, RFI, BBC Việt ngữ, HRW...) để tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, hạ bệ uy tín lãnh tụ, gây nghi kỵ, chia rẽ nội bộ; triệt để khai thác các sự kiện chính trị, ngoại giao, những vấn đề nhân sự, nội bộ với các thông tin chưa được kiểm chứng để mở các chiến dịch tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước ta.

Thời gian qua, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, hình thức thể hiện của tự do ngôn luận có sự biến đổi lớn. Internet, mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Sức lan tỏa và ảnh hưởng của nó rất mạnh mẽ và nhanh chóng, tạo được sự chú ý, quan tâm theo dõi của số đông người dân, nhất là những người có ảnh hưởng trong xã hội. Chỉ cần sở hữu phương tiện điện tử (điện thoại thông minh, laptop) có kết nối Internet, cá nhân có quyền tự do truyền đạt thông tin, ý kiến của mình đến người khác mọi nơi, mọi lúc. Tình trạng các hội, nhóm chia sẻ những thông tin tiêu cực, thông tin sai trái, tin không rõ nguồn, chưa được kiểm chứng… xuất hiện trên không gian mạng có xu hướng ngày càng gia tăng gây tác động xấu đối với người sử dụng mạng nói riêng và việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội nói chung.

Thực tế này đang đòi hỏi các cơ quan chức năng cần sớm có các biện pháp ngăn chặn hiệu quả cũng như đặt ra yêu cầu mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội phải hết sức tỉnh táo để không trở thành nạn nhân của "thế giới ảo". Thông qua các hội, nhóm, người dùng có thể tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm, đăng tải hay lan truyền thông tin, hình ảnh thông qua tài khoản cá nhân của mình. Điều này mang đến những nguy cơ khi quyền này bị lạm dụng, nhất là khi những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có quan điểm sai trái, thái độ cực đoan, có tư tưởng kỳ thị, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ dẫn đến bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động. Hoặc vì động cơ cá nhân, một số trường hợp đã đăng tải thông tin sai sự thật, xâm phạm đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Việc lợi dụng các quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng đã và đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn cho cộng đồng. Theo dữ liệu thống kê từ We are Social, tính đến tháng 1/2022, Việt Nam có 76,95 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 78,1% tổng dân số. Chỉ tính trong hai năm 2021, 2022, số người dùng mạng xã hội ở Việt Nam đã tăng 5 triệu người (6,9%). Với độ phủ sóng rộng cùng một lượng lớn thời gian hoạt động và tương tác trên không gian mạng, những gì người sử dụng thu nhận được sẽ tác động không nhỏ đến việc hình thành tư tưởng và phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống, nhất là ở nhóm đối tượng vị thành niên - lứa tuổi dễ đi theo những luồng tư tưởng mới, dễ bị tổn thương và kích động tâm lý.

Thông qua các nền tảng không gian mạng trong thời đại số, các thế lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung thật giả lẫn lộn, sai lệch để đưa lên mạng xã hội. Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng của các cơ quan của Đảng, Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin mà báo chí chính thống trong nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin; ngụy tạo các bài viết dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm… Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch, phản động, phần tử bất mãn đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân, nhất là những người có tâm lý hiếu kỳ, tò mò muốn dò tìm các thông tin không chính thống. Những cái “bẫy thông tin” mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước ngoài không phân biệt được thật giả và bị những dòng thông tin sai lệch này dẫn dắt.

Đại tướng Phan Văn Giang: Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy - học sát với thực tiễn

 Phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc với Trường Sĩ quan Lục quân 1 sáng 22-3, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: Trường Sĩ quan Lục quân 1 cần đột phá đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy - học sát với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở đơn vị và yêu cầu phát triển của Quân đội.

Buổi làm việc có sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

 Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc.

Thực hiện kết luận của Đại tướng Phan Văn Giang và nhận xét của đoàn công tác của Bộ Quốc phòng tại buổi kiểm tra đầu tháng 3-2022, Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường Sĩ quan Lục quân 1 đã nghiêm túc kiểm điểm, tổ chức rút kinh nghiệm trong toàn trường, chỉ rõ nguyên nhân, hạn chế, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp, triển khai quyết liệt, toàn diện trên các mặt công tác. Đến nay, nhà trường đã hoàn thành khắc phục 9/10 hạn chế, tồn tại và thực hiện cơ bản đầy đủ 7 nội dung chỉ đạo của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Đặc biệt, nhà trường đã tập trung đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cho các đối tượng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại; tăng thực hành, tăng thời gian huấn luyện đêm, ôn luyện, luyện tập thực hành, diễn tập và hoạt động ngoại khóa. Năm học 2022-2023, thời gian huấn luyện đêm các nội dung thực hành đạt tỷ lệ hơn 23%, gần 6% so với năm học trước; kết quả huấn luyện bơi tăng hơn 9% khá, giỏi. Cùng với đó, nhà trường đã thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo yêu cầu nhiệm vụ. Đến nay, tỷ lệ cán bộ quản lý, nhà giáo có trình độ sau đại học của nhà trường tăng hơn 2% so với đầu năm 2022.

Trong năm qua, nhà trường đã tổ chức 9 cuộc hội thảo khoa học; triển khai nghiên cứu 40 đề tài, 43 sáng kiến cải tiến, có 12 đề tài, sáng kiến đoạt giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội lần thứ 22; biên soạn 121 tài liệu, giáo trình…

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
 
<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
 Quang cảnh buổi làm việc.

Tại buổi làm việc, nhiều đại biểu đã phân tích, làm rõ những kết quả nổi bật của nhà trường trong năm qua, cũng như định hướng một số nhiệm vụ trọng tâm cần đột phá thực hiện trong thời gian tới. Đặc biệt, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương cho rằng, Trường Sĩ quan Lục quân 1 cần sớm hoàn chỉnh chuẩn đầu ra cho từng đối tượng, trên cơ sở đó điều chỉnh nội dung, chương trình đào tạo phù hợp, sát thực tế. Cùng với đó, đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá, thực hiện tốt 3 thực chất (Dạy thực chất; học thực chất; kiểm tra, đánh giá thực chất); chống bệnh thành tích, tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Triển khai thực hiện hiệu quả phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”.

Trong khi đó, nhấn mạnh về vai trò của công tác chính trị, tư tưởng, Trung tướng Trịnh Văn Quyết đề nghị Trường Sĩ quan Lục quân 1 làm tốt công tác giáo dục chính trị, phổ biến, giáo dục pháp luật, kỷ luật. Chủ động thông tin, tuyên truyền, kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận cho các đối tượng, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn trường; xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú; đẩy mạnh Phong trào Thi đua Quyết thắng gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua của các cấp, các ngành… 

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
 Thượng tướng Nguyễn Tân Cương và các đại biểu dự buổi làm việc.

Bộ trưởng Phan Văn Giang đã trao đổi thẳng thắn với Ban giám hiệu, chỉ huy các phòng, khoa, hệ, đơn vị của Trường Sĩ quan Lục quân 1 về những khó khăn, bất cập, vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác giáo dục - đào tạo; huấn luyện; việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý; hệ thống trang thiết bị, cơ sở vật chất, thao trường huấn luyện…

Định hướng, gợi mở việc thực hiện nhiệm vụ trong thời gian tới, Bộ trưởng Phan Văn Giang yêu cầu Trường Sĩ quan Lục quân 1 cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học là trung tâm, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học sát với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở đơn vị.

Đột phá chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý mẫu mực về tác phong công tác, phương pháp sư phạm, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Mỗi cán bộ, đảng viên, giảng viên là một tấm gương sáng cho học viên noi theo; gắn đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ với gửi đi đào tạo tại các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội; tổ chức đi thực tế ở các đơn vị…

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
 Trung tướng Đỗ Viết Toản, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1 báo cáo tại buổi làm việc.

Cùng với đó, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lưu ý, Trường Sĩ quan Lục quân 1 chú trọng nâng cao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, quản lý; xây dựng thao trường, bãi tập chính quy, hiện đại, bảo đảm tốt cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập. Đồng thời thường xuyên mời lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị về giảng dạy, truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn... 

Tin, ảnh: SƠN BÌNH

Nguồn: Báo QĐND

CHIÊU TRÒ, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ QUÂN ĐỘI TA THỜI GIAN QUA

Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch, nhất là các tổ chức phản động người Việt lưu vong câu kết với các phần tử chống đối, bất mãn, cơ hội, lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, các sự kiện chính trị ở trong nước và quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động chống phá nước ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Về âm mưu, thủ đoạn, chúng phát tán tài liệu, viết thư gửi các tổ chức quốc tế và cơ quan Đảng, Nhà nước; trả lời phỏng vấn đài, báo quốc tế về tình hình Việt Nam, cổ súy cho đấu tranh tự do; điều trần về tình hình tự do, dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam; giới thiệu sách, báo, hồi ký, phát tán các videoclip có nội dung xấu độc, sai sự thật, nhằm xuyên tạc tình hình chính trị, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta. Chúng cho rằng, mô hình chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay đã lỗi thời, lạc hậu cần phải xóa bỏ để xây dựng một xã hội mới, đồng thời chúng vu cáo Đảng, Nhà nước ta cấm đoán tự do, bóp nghẹt dân chủ, nhân quyền, báo chí, tôn giáo; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ, gây sức ép với Việt Nam, kích động nhân dân, nhất là giáo dân đấu tranh đòi tự do, dân chủ.

Chúng trích dẫn, cắt xén, thêm bớt những nguyên lý, lý luận nền tảng tư tưởng của Đảng để soi xét vào thực tiễn tình hình đất nước, đối lập chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Chúng triệt để lợi dụng những điểm “nóng” trên các lĩnh vực của Việt Nam, để vu cáo, thổi phồng, bóp méo, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và cá nhân các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội và Công an, nhằm xuyên tạc tình hình mọi mặt của đất nước, hướng lái những tư tưởng và hành động sai trái, chống đối, bất tuân, bạo lực và bạo động trong cộng đồng nhân dân và xã hội, từ đó lôi kéo, tập hợp những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong – ngoài nước, các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước can dự vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Về lực lượng, trong trong gian qua, nổi lên có: các nhân vật cực hữu trong các chính phủ các nước; tổ chức phản động “Việt Tân”, đảng Đại Việt ở nước ngoài câu kết với một số Linh mục phản động ở Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Tp. Hồ Chí Minh; Mạng lưới blogger Việt Nam, Liên đoàn Quốc tế vì Nhân quyền (FIDH), một số nhân vật cực hữu trong Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc; “Cộng đồng người Việt tự do ở hải ngoại”; “Hội Cựu quân nhân Quân lực VNCH”; “Hội Thanh niên Phật giáo Hòa hảo thuần túy”; “Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam thống nhất”; các đài VOA, BBC, RFI…để tăng cường chống phá trên các mặt trận hết sức quyết liệt.

Về nội dung chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận trong 10 tháng đầu năm 2021, nổi lên các vấn đề chính như: Xuyên tạc, kích động tẩy chay chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa; nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh Đảng, Nhà nước và Quân đội, đặc biệt là sự xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo trắng trợn về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, trọng tâm là Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII; xuyên tạc lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân ta; phát tán tư tưởng dân chủ tư sản, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; tuyên truyền, xuyên tạc chống phá chức năng, nhiệm vụ của quân đội và cố tình làm xấu hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân …

Về hình thức chống phá, chúng tiếp tục chống phá bằng các hình thức như:: Việt Nam Thời Báo; Blog Ðài Tiếng nói Hoa Kỳ; Dân Làm Báo; Blog RFA; Chân Trời Mới Media; Tiếng Dân; Bauxite Việt Nam…để phát tán các bài viết tuyền truyền xuyên tạc sai sự thật về Việt Nam, đồng thời đăng những vidieoclip xấu độc lên Faebook, Yuotube…, thư gửi, kiến nghị, tuyên bố, hội thảo của các tổ chức, cá nhân; trao giải thưởng của các tổ chức quốc tế, phi chính phủ và của các tổ chức phản động, đối lập; trả lời phỏng vấn, bình luận của các báo đài…

Đây là những chiêu trò không mới, nhưng nó được các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị “diễn lại” khi có một sự kiện nào đấy để lừa gạt những ai nhẹ dạ cả tin, chúng ta phải hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, vạch trần và bác bỏ những quan điểm, luận điệu này. Do đó, chúng ta cần nhận diện và có các hình thức đấu tranh sát, khao học để phản bác lại các quan điểm sai trái trên./.


Cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính chủ động trong đấu tranh với các quan điểm sai trái thù địch trong giai đoạn hiện nay

 Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ, các thế lực thù địch tăng cường móc nối, cấu kết với những phần tử cơ hội chính trị, ra sức xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc hết sức tinh vi, xảo trá hòng làm chao đảo, lung lay nhận thức, tư tưởng, niềm tin của quần chúng nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng ta. Theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc hòng làm suy giảm niềm tin, tạo ra trong nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ một “khoảng trống” về mục tiêu lý tưởng, lịch sử truyền thống và thành tựu của cách mạng. “Nội công, ngoại kích” là chiêu bài rất nham hiểm mà các thế lực thù địch phản động thường xuyên sử dụng nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Để áp dụng chiêu thức này hiệu quả, chúng tìm mọi cách tiếp cận, móc nối, lôi kéo, kích động, tiếp sức cho những phần tử thoái hóa, biến chất, bất mãn với chế độ, để sử dụng làm công cụ, tay sai, phủ nhận thành quả cách mạng, phóng đại những khuyết điểm, yếu kém nhằm tạo ra những bức xúc trong dư luận, những điểm nóng trong xã hội. Chúng coi những phần tử thoái hóa, biến chất “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là lực lượng nòng cốt đi đầu để chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Trước những diễn biến mới của tình hình và nhiệm vụ cách mạng, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, những quan điểm sai trái, thù địch ngày càng diễn biến phức tạp. Nhưng bằng sự chủ động, tích cực của toàn Đảng, toàn dân, công tác đấu tranh phản bác thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn lại trong cuộc đấu tranh này vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập. Điều này được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, chỉ rõ: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”.

Ngoài những yếu tố khách quan từ những tác động tiêu cực của tình hình thế giới và trong nước, một nguyên nhân mà mỗi chúng ta cần nhận rõ, đó là sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch thông qua đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”. Chúng thường lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” và khoét sâu những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để bóp méo, xuyên tạc tình hình; tung ra những quan điểm sai trái hòng gây ra sự hoài nghi, lung lay trong tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong khi đó, có lúc, có nơi việc nhận thức chưa đầy đủ, chưa chủ động, nhạy bén và thiếu các giải pháp phù hợp để định hướng thông tin, trên cơ sở đó tổ chức đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị.

Có thể thấy các thế lực thù địch không từ bất cứ âm mưu, thủ đoạn nào nhằm chống phá Việt Nam trên mọi lĩnh vực. Trước tình hình ấy, Ðảng ta đã xác định đấu tranh, phản bác có hiệu quả với luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên và của mọi công dân. Chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động.

Tính chủ động trước hết trong nhận thức. Hiện nay một số lượng rất lớn  các trang mạng xã hội của nhiều tổ chức, hội nhóm phản động lưu vong được chúng huy động để tuyên truyền bóp méo, xuyên tạc tình hình nhằm chống phá Việt Nam. Từ thực tế ấy, vấn đề đặt ra là chúng ta phải chủ động đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ những luận điệu xuyên tạc, những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Chỉ khi nào nhận thức rõ, được cập nhật thường xuyên về tình hình và những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; tính chất nguy hiểm, phức tạp của cuộc đấu tranh thì mọi người dân mới đề cao cảnh giác, không bị động, lúng túng trước những luận điệu và âm mưu, thủ đoạn chống phá; ý thức rõ trách nhiệm xây dựng thế trận chủ động đấu tranh.

Những năm qua, các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để khẳng định tính cách mạng khoa học của mục tiêu lý tưởng, của đường lối, chủ trương, chính sách và những thành tựu của cách mạng chưa được quan tâm đúng mức. Tính thuyết phục trong tuyên truyền đấu tranh phản bác còn hạn chế. Để khắc phục, đòi hỏi chúng ta phải chủ động hơn nữa trong tổ chức các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chính là cơ sở khoa học để chúng ta nâng cao tính thuyết phục trong phản bác các luận điệu xuyên tạc và những âm mưu, thủ đoạn chống phá.

Cùng với đó là sự chủ động của các cơ quan chức năng trong công tác theo dõi, thanh tra, kiểm tra, định hướng với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong những lĩnh vực nhạy cảm dễ bị móc nối, lôi kéo, để họ không tiếp tay cho kẻ xấu, không mắc mưu các thế lực thù địch. Sự chủ động trong quản lý, nắm bắt tình hình, phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm đấu tranh của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là các cơ quan, đơn vị chức năng cũng rất cần được quan tâm.

Chủ động đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục của các tổ chức, đoàn thể là rất cần thiết nhưng quan trọng và quyết định hơn vẫn là sự chủ động trong rèn luyện bản lĩnh chính trị, tích cực học tập nâng cao trình độ, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân. Bởi đó chính là yếu tố cơ sở nền tảng để mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân chủ động, tích cực, tự giác tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái, thù địch vốn ngày càng phức tạp, khó khăn, lâu dài và cam go.

Cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu, vô cảm là có tội với nhân dân

Hồ Chí Minh khẳng định: bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Cán bộ, đảng viên đặc biệt là những người lãnh đạo nào mắc phải bệnh này thì: có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Bệnh quan liêu không chỉ là sự sai lầm về tác phong, phương pháp công tác mà xét về bản chất là sự tha hóa quyền lực của cơ quan công quyền, là hệ quả của sự suy thoái lập trường tư tưởng, chính trị, đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh chỉ ra những biểu hiện cụ thể của bệnh quan liêu: chỉ đạo xa rời thực tế, xa quần chúng; áp dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính; chỉ biết hô hào khẩu hiệu chỉ thị, xem báo cáo, làm việc qua loa; lời nói không đi đôi với việc làm; chủ quan, tự mãn, coi thường quần chúng… Cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu: Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ.

Trên thực tế, có thể thấy hiện nay căn bệnh này diễn ra xảy ra ở hầu hết các cấp, các ngành, các địa phương, với những mức độ khác nhau. Những vụ việc kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân như việc tố cáo, khiếu nại của công dân về Khu đô thị mới Thủ Thiêm; hàng loạt dự án hiện đang “đắp chiếu” có thâm niên chục năm với hàng nghìn tỷ đồng; việc xây dựng trụ sở hành chính quá lãng phí trong khi địa phương còn nghèo hay dùng ngân sách ưu tiên phục vụ cho nhà riêng của cán bộ lãnh đạo; những câu chuyện "hành dân" của một số bộ phận trong cơ quan công quyền hoặc ứng xử không đúng với chuẩn mực của người cán bộ ở các địa phương; những đại biểu nhân dân chỉ biết “ngủ gật” trước bức xúc của dân, vấn đề cuộc sống “rất nóng” nhưng hội trường HĐND cấp tỉnh, huyện, xã thì “rất lạnh” cũng không phải hiếm gặp. Nhiều chính sách ban hành viển vông, xa rời thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trì trệ, vô trách nhiệm “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”.

Ngày 25/10/2021, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm trong đó có nhiều điểm mới so với Quy định 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011. Một trong điểm mới là Đảng làm rõ và bổ sung thêm biểu hiện căn bệnh quan liêu ở Điều 3: “Thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng”. Có thể nói, đó là sự bổ sung xác đáng từ nhận thức sâu sắc về thực trạng và tác hại của căn bệnh quan liêu, xa dân, vô cảm với dân đã tồn tại dai dẳng, thậm chí có mặt diễn biến phức tạp hơn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên - căn bệnh mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: bệnh quan liêu, xa dân là nguy cơ lớn nhất của đảng cầm quyền.

Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại và dân chủ hiện nay, việc tăng cường đối thoại với nhân dân là một trong cách hiệu quả nhất để giải quyết những điểm nóng ở cơ sở. Bộ Chính trị đã ban hành quy định số 11-QĐI/TW ngày 18/2/2019 về “Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”. Điều quan trọng hơn là từ cuộc đối thoại trực tiếp đó, các cấp ủy đảng, chính quyền cần có hành động thiết thực, cụ thể giải quyết nhu cầu chính đáng của nhân dân, tránh nói suông, hứa suông làm mất niềm tin của dân. Thực hiện các quy định trên sẽ là liều thuốc “đặc trị” căn “bệnh mãn tính” quan liêu, thờ ơ, vô cảm của cán bộ, đảng viên; xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa dân với Đảng, Đảng với dân.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...