Tự do và tự do ngôn luận
là vấn đề vừa trừu tượng, vừa cụ thể, vừa thể hiện nhận thức và hành động lý
trí, vừa bao hàm trạng thái tình cảm, cảm xúc, cảm nhận của con người trong các
mối quan hệ có tính chất lịch sử. Do đó, muốn hiểu khái niệm “tự do”, cần đặt
nó trong sự đối lập với “tất yếu”.
Hiến pháp năm 2013 thừa nhận
quyền tự do ngôn luận của công dân, khi thực hiện quyền này đang nảy sinh suy
nghĩ nhận thức ở một số người cho rằng:
tự do ngôn luận là được tự do nói năng, phát ngôn, bình luận chia sẻ,
phát tán thông tin mà không chịu bất cứ trách nhiệm hay ngăn cản nào, thậm chí
đó là những phát ngôn xuyên tạc sự thật, thông tin sai lệch, bình luận thiên lệch,
phiến diện tùy tiện... nếu ai hạn chế quyền nói năng, bình luận, phát tán thông
tin của người khác là vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân, vậy bản chất
của vấn đề ở đây là gì, thực chất nhận thức như vậy là phiến diện và không chính xác nếu không muốn
nói là sai lầm, chúng ta biết rằng trên thực tế không bao giờ có quyền tự do
tuyệt đối cả, mà nó còn bị giới hạn bởi các yếu tố như luật pháp, phong tục tập
quán, đạo đức xã hội. Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô chính phủ, tự do
kiểu hoang dã, ai cũng nói năng, phát ngôn bừa bãi, xuyên tạc sự thật, bịa đặt,
chia sẻ thông tin không kiểm chứng, bất chấp đúng sai sẽ dẫn đến tình trạng mất
kiểm soát, gây rối loạn xã hội, nhiễu loạn thông tin, có thể tạo ra khủng hoảng
thông tin xã hội, dẫn đến bất ổn định an ninh trật tự xã hội.
Trong đời sống xã hội, tất
yếu chính là môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế và môi trường văn hóa, hệ thống
giá trị đạo đức do cộng đồng tạo dựng. Theo quan niệm của triết học, nhận thức
của con người là vô hạn-nhận thức được thế giới vật chất vô hạn, nhưng đó là nhận
thức của con người triết học-con người trừu tượng, của loài người nói chung;
còn khả năng ấy tồn tại ở mỗi thế hệ, trong mỗi con người cụ thể, trong mỗi cá
nhân thì luôn có giới hạn.
Do vậy, không thể khẳng định
rằng, ở một nước có nền kinh tế giàu mạnh và xã hội phát triển ở trình độ cao
là đã có tự do ngôn luận hoàn toàn và một nước có nền kinh tế phát triển trung
bình thì còn hạn chế về tự do ngôn luận. Mọi sự ngộ nhận đều dẫn đến sai lầm và
sẽ kìm hãm sự phát triển. Đồng thời, áp đặt quan niệm tự do ngôn luận của nước
này lên nước khác là tư duy chính trị lỗi thời, cũng khó có thể chấp nhận được.
Tính chất và mức độ tự do ngôn luận cần được xem xét trong những điều kiện cụ
thể của sự phát triển; nó biểu hiện nấc thang tiến hóa của xã hội.
Tự do ngôn luận là quyền
thiêng liêng, cao cả của mỗi con người, mỗi dân tộc trong quá trình trao đổi
thông tin, tư tưởng, tình cảm cũng như chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm. Tự do
ngôn luận có phải là đích cuối cùng cần đạt tới? Không phải, tự do ngôn luận chỉ
là phương tiện, hay là phương thức; còn việc sử dụng phương tiện hay phương thức
ấy để làm gì, đạt tới cái gì mới là đích đến của tự do. Sự nhầm lẫn giữa mục
đích và phương tiện sẽ là sai lầm nghiêm trọng và sẽ gánh chịu hậu quả ngoài
mong đợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét