Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2023

Lợi dụng văn học nghệ thuật để chống phá đất nước

 Các tác phẩm văn học nghệ thuật “nhuốm màu” chính trị, “cài cắm” những tư tưởng phản động sẽ làm “vẩn đục” đời sống tinh thần của xã hội. Văn học nghệ thuật là một trong những lĩnh vực được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá đất nước.

Văn học nghệ thuật là những nhu cầu thiết yếu trong đời sống  tinh thần của con người, văn học nghệ thuật có thể len lỏi vào trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người. Nếu như đó là những thông điệp tốt đẹp sẽ truyền cảm hứng, làm cho cuộc sống tốt hơn nhưng nếu các tác phẩm văn học nghệ thuật “nhuốm màu” chính trị, “cài cắm” những tư tưởng phản động sẽ làm “vẩn đục” đời sống tinh thần của xã hội. Và cũng vì thế, văn học nghệ thuật trở thành một trong những lĩnh vực được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá đất nước.

Kêu gọi thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập”

Theo thống kê của Bộ Công an, hiện nay, ở nước ngoài có khoảng 50 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, hơn 430 tờ báo, tạp chí và trên 40 nhà xuất bản thường xuyên có nội dung tuyên truyền chống phá Việt Nam. Hằng năm, có gần 3 nghìn tài liệu chiến tranh tâm lý được đưa vào Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau. Thời gian gần đây, một số văn nghệ sĩ, trí thức bị lợi dụng, lôi kéo đã chạy trốn ra nước ngoài có những hành động phản bội Tổ quốc, viết nhiều ấn phẩm, sách báo bôi nhọ, nói xấu chế độ. Bên cạnh đó, có một số nhà văn, nhà thơ do bản lĩnh không vững vàng, dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa, sáng tác những tác phẩm văn học nghệ thuật mang nặng quan điểm bức xúc cá nhân.

Tiến sĩ nghiên cứu văn học Nguyễn Toàn Thắng cho rằng, xuất phát từ đặc điểm của trí thức văn nghệ sĩ mà cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật đang diễn ra rất gay gắt và phức tạp.

“Trí thức văn nghệ sỹ có một điểm mạnh đó là sức tưởng tượng, nhưng chính đây là điểm yếu của trí thức văn nghệ sỹ. Họ dễ dao động, đời sống tinh thần dễ bị xáo trộn. Đặc tính này khiến họ dễ bị lợi dụng, bị lôi kéo. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này vô cùng nan giải”.

Gần đây, một số văn nghệ sĩ, trí thức còn kêu gọi, hô hào ủng hộ vận động, thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập”. Với danh nghĩa là để chấn hưng nền văn học nước nhà, tổ chức này muốn thực hiện ý đồ chính trị rất rõ ràng là nhằm chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hình thành nên một tổ chức bất hợp pháp đối lập với các tổ chức của Nhà nước nhằm tập hợp những văn nghệ sĩ có tư tưởng cực đoan, bất mãn, chống đối chế độ.

Vì thế, đấu tranh trên lĩnh vực văn học nghệ thuật không chỉ đơn thuần là nhận diện ra đúng sai mà vấn đề cốt lõi nhất là phải định hướng để quần chúng thấy rõ đúng, sai. Đây là quan điểm của Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.

“Phải nhận diện cho đúng và đánh cho trúng. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng không giống đấu tranh quân sự, mà cuộc đấu tranh này, đích cuối cùng là thuyết phục, lôi kéo quần chúng về phía mình”- ông Dũng cho hay.

Thời gian vừa qua, khi mạng xã hội bùng nổ và trở nên phổ biến thì không ít văn nghệ sĩ đã sử dụng các tài khoản zalo, facebook để bình luận các vấn đề của đất nước bằng ngôn ngữ văn chương với góc nhìn một chiều, phiến diện, cực đoan. Trên trang facebook, một số văn nghệ sĩ, trí thức cũng đã đăng tải những trạng thái, những bài thơ, đoạn trích văn xuôi để bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân trước một số vụ việc ở trong nước theo chiều hướng phê phán, lên án chính quyền. Những bài thơ, đoạn văn được viết với ngôn từ hoa mỹ, nhưng lại được “cài cắm”, móc nỗi những quan điểm phản động. Vì thế, để nhận diện được những quan điểm, tư tưởng sai trái trong các tác phẩm văn học nghệ thuật chúng ta cần phải có một hệ quy chiếu như một quy chuẩn để nhìn nhận và đánh giá.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện, Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam cho rằng: “Phê phán, đấu tranh với những cái sai trái, thù địch thì mình phải có một cái chuẩn. Chuẩn ở đây là quan điểm Mác - Lê nin được vận dụng một cách sáng tạo, chuẩn ở đây là đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng thể hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng”.

Ranh giới giữa trắng đen, phải trái trong lĩnh vực văn học nghệ thuật rất khó phân định, mà đôi khi công chúng cũng chưa hẳn đã nhận ra đó là thù địch, phản động. Vì vậy, theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín, nguyên Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn, khi phát hiện thấy có những quan điểm, tư tưởng lệch lạc được lồng ghép trong các tác phẩm văn học nghệ thuật thì cơ quan chức năng, quản lý nhà nước cần có sự chủ động để trao đổi, gặp gỡ với tác giả để tìm ra tiếng nói chung, định hướng nhận thức, không nên quy kết và cô lập họ.

“Có nhiều tác giả mà thời học sinh, chúng tôi rất quý, thậm chí thuộc từng câu, từng chữ của những tác phẩm đó, của những bài thơ đó. Nhưng bây giờ thì họ lại quay ra có những ý kiến này nọ. Nếu liệt người ta vào nhóm nào đó thì có khi lại thành chuyện. Vì vậy đòi hỏi một phương pháp hết sức mềm dẻo. Quan điểm là lôi kéo người ta về phía mình, không đẩy người ta ra xa.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Lường, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, cho rằng, những sai trái, lệch lạc trong việc sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật thì có thể gặp gỡ, trao đổi để định hướng nhưng với những đối tượng cố tình lợi dụng văn học nghệ thuật để xuyên tạc lãnh tụ, bôi nhọ hình ảnh đất nước, nói xấu chế độ, xúc phạm, phí báng tiền nhân thì cần phải có chế tài xử lý nghiêm khắc.

Nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện lệch lạc, sai trái trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật trong thời gian qua không chỉ xuất phát từ nhận thức sai lầm và sự cố chấp của một số văn nghệ sĩ bất mãn với chế độ mà còn do sự móc nối, lôi kéo của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đối với một số văn nghệ sĩ. Vì vậy, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, cần nhận diện và đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái, lệch lạc trên lĩnh vực văn hóa nói chung và văn học, nghệ thuật nói riêng. Đó là cách làm cho văn học, nghệ thuật ngày càng ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của nhân dân và trở thành sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

Thế lực thù địch bôi nhọ công tác cán bộ của Đảng hòng chia rẽ, gây nhiễu loạn xã hội

VOV.VN - Xuyên tạc, bôi nhọ công tác cán bộ của Đảng, mục tiêu chính của thế lực thù địch là hòng chia rẽ, gây mâu thuẫn nội bộ và lung lạc lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước.  

Công tác cán bộ là một trong những vấn đề các thế lực thù địch thường lợi dụng để chống phá Đảng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, mỗi khi có thông báo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về xử lý kỷ luật cán bộ mắc sai phạm, là trên các trang mạng xã hội lại đầy ắp các thông tin nhiễu loạn, xuyên tạc.

Mới đây nhất, lợi dụng câu chuyện Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc từ chức vì trách nhiệm người đứng đầu khi để nhiều cán bộ, trong đó có hai Phó Thủ tướng, 3 bộ trưởng có vi phạm, khuyết điểm, gây hậu quả rất nghiêm trọng, các trang mạng phản động ngay lập tức tận dụng cơ hội này để chọc ngoáy, “lái” câu chuyện theo mục đích của họ. Chúng thậm chí còn đặt vấn đề về trách nhiệm của Tổng Bí thư, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Để nhận diện đúng những luận điệu sai trái, phóng viên VOV.VN phỏng vấn Trung tướng, Giáo sư -Tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát Nhân dân, Bộ Công an.

“Bổn cũ soạn lại” hòng làm nhiễu loạn, bất ổn xã hội

PVThưa ông, thời gian gần đây, các trang mạng phản động gia tăng chống phá, nhất là công tác nhân sự. Ông nhận định về hiện tượng này thế nào?

Trung tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: Thời gian gần đây, các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam ngày càng gia tăng, nhất là trên các trang mạng xã hội. Các thế lực thù địch liên tục tung tin thất thiệt hòng chia rẽ lòng tin, bôi nhọ uy tín và xuyên tạc tình hình Việt Nam, trong đó tập trung vào công tác nhân sự cấp cao của Đảng.

Đây là những “bổn cũ soạn lại”. Những phương thức, thủ đoạn và cách thức chống phá của các thế lực thù địch không có gì mới. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, vào những thời điểm đất nước có các sự kiện chính trị hoặc sự kiện về văn hóa, thể thao, hay sự kiện nào đó xảy ra; Đặc biệt, trong dịp Đảng và Nhà nước có sự thay đổi một số nhân sự cấp cao, các đối tượng, các thế lực thù địch, các phần tử phản động bất mãn, hoặc cơ hội chính trị lợi dụng tình hình này để tăng cường chống phá.

Mục đích cao nhất của các đối tượng này là làm nhiễu loạn, bất ổn xã hội, dẫn đến suy yếu thể chế chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, đối với đất nước và sự nghiệp cách mạng của chúng ta.

Các thế lực thù địch cũng như các đối tượng, phần tử cơ hội chính trị và phản động, chúng không bao giờ thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng CSVN đối với sự nghiệp cách mạng và thể chế chính trị. Các đối tượng này cũng không bao giờ vui mừng trước những thành công, những thành tựu của đất nước chúng ta. Vì vậy, mục tiêu không thay đổi của chúng là chống phá, làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng và sự phát triển đất nước.

Hiện nay, một trong những phương thức hiệu quả nhất của họ chính là sử dụng không gian mạng. Bởi, hiện chúng ta có gần 100 triệu dân và số người sử dụng điện thoại thông minh và các phương tiện, thiết bị, sử dụng mạng xã hội chiếm một tỷ lệ rất cao, lên đến gần 70 triệu thuê bao có sử dụng mạng xã hội. Đây chính là một kênh để các đối tượng triệt để lợi dụng truyền tải những thông tin xấu độc.

Các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, phản động đã và đang tiến hành các hoạt động phá hoại tư tưởng với các biểu hiện như: Bóp méo, phủ nhận những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội; Lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia; Xuyên tạc đời tư, bôi nhọ, nói xấu lãnh đạo Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ; xuyên tạc công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước; Tuyên truyền xuyên tạc cho rằng, Việt Nam sử dụng chống tham nhũng là phương tiện để trấn áp bất đồng chính kiến trong hàng ngũ của Đảng…

PVVì sao họ gia tăng chống phá vào thời điểm này?

Trung tướng GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: Kẻ địch và những phần tử xấu chọn thời điểm này là có sự tính toán kỹ. Đặc biệt, trong bối cảnh, Đảng và Nhà nước ta có những quyết định quan trọng để hoàn thiện nhân sự trong bộ máy cơ quan Đảng, chính quyền ở Trung ương và địa phương; có những quyết định quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, trong giải quyết các vụ án hình sự lớn... Chính vì vậy, các thế lực phản động và kẻ xấu đã đưa ra nhiều thông tin xấu, độc để chống phá.

PVNhư vậy, mỗi khi có sự kiện lớn diễn ra hay các vụ việc chúng ta xử lý cán bộ, họ thường lợi dụng để gia tăng chống phá? 

Trung tướng GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: Đúng như vậy. Nhân dân ta ngày nay rất quan tâm tới tình hình chính trị xã hội. Mỗi khi đất nước có những sự kiện lớn như Đại hội Đảng các cấp, bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, khi Đảng và Nhà nước có sự thay đổi và chuyển giao về mặt nhân sự ở Trung ương và địa phương... Mối quan tâm này không chỉ có ở các cơ quan nhà nước, trong cán bộ lãnh đạo mà còn được quan tâm nhiều ở tất cả các tầng lớp nhân dân. Điều này cũng dể hiểu khi đất nước ta phát triển, trình độ dân trí được nâng cao thì việc các tầng lớp nhân dân quan tâm tới tình hình chính trị xã hội của đất nước là một điều tất nhiên và đáng mừng.

Kẻ địch và các phần tử xấu, họ hiểu rất rõ điều này. Chính vì vậy họ tập trung với tần suất cao, đưa ra nhiều thông tin, luận điệu xấu độc trên mạng xã hội, gây mâu thuẫn nội bộ và lung lạc lòng tin của người dân với Đảng.  

Lĩnh vực mà những kẻ cơ hội và thế lực thù địch ưa thích xuyên tạc, bóp méo trước các sự kiện lớn của đất nước đó là: tung tin giả mạo, thất thiệt về công tác chuẩn bị nhân sự của Đảng và Nhà nước. Trên các trang tin hải ngoại như BBC Tiếng Việt

, VOA Tiếng Việt, Đài Châu Á Tự do RFA, mạng xã hội Facebook... các cây bút tự xưng là nhà báo, blogger tung ra rất nhiều bài viết sắp đặt đồng chí A, đồng chí B làm Chủ tịch nước; đồng chí C, D dự kiến làm Thường trực Ban bí thư, vào Bộ Chính trị, ông A, bà B là “trùm cuối" của Việt Á... Chúng đặt tiêu đề những bài viết theo kiểu lấp lửng, phủ định: như "Đảng có vì lợi ích người dân?" hòng gieo mầm mống nghi ngờ đối với người dân, cộng đồng xã hội với Đảng và Nhà nước.

Ngoài việc chúng gây chia rẽ và hoài nghi trong nội bộ, chúng dựng nên một hình ảnh, một tổ chức Đảng của chúng ta là một mớ hỗn độn, là những cá nhân tiêu cực, những người không đủ phẩm chất, năng lực và những nhóm lợi ích, chứ không phải là một tổ chức cách mạng tiên phong, có bản lĩnh, trí tuệ, có tầm nhìn, có trách nhiệm, có đạo đức, có văn minh để lãnh đạo quốc gia dân tộc tiến lên văn minh hiện đại.

Những ý kiến sắp đặt cán bộ, những danh sách nhân sự mà các đối tượng đưa ra hầu hết là đoán mò. Bởi vì, quá trình tổ chức của Đảng và Nhà nước là rất chặt chẽ, công khai minh bạch, bài bản, khoa học và tiến bộ để làm sao đạt được mục đích cao nhất là chọn được người có đức, có tài, có tầm nhìn, có trí tuệ, bản lĩnh tham gia vào việc lãnh đạo trong các tổ chức của Đảng. Qua đó, lãnh đạo sự phát triển kinh tế đất nước.

Từ những thông tin bên lề, các đối tượng tạo dựng ra những thông tin như: ai vào vị trí này, người này vào vị trí kia... Điều ấy, những người tỉnh táo dễ dàng nhận ra rằng, đây là những ý đồ, những âm mưu rất xấu và không có căn cứ. Bởi, đây chỉ là sự gây nhiễu loạn thông tin mà thôi.

PVMới đây nhất, trên một số trang mạng, sau khi Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc từ chức, họ đặt câu hỏi “Còn Tổng Bí thư, Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương Đảng thì sao?”. Hay cũng từ câu chuyện nhiều nhân sự khóa XIII phải từ chức, họ chọc vào chuyện nhân sự Đại hội XIII "vì sao được làm một cách “thận trọng, chặt chẽ, dân chủ, đúng quy trình” mà lại có kết quả như thế? Vậy theo ông mục tiêu của chúng là gì?

Trung tướng GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: Thực chất đây là các thông tin xấu, độc hòng chia rẽ, gây mâu thuẫn nội bộ và lung lạc lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước.  

Những năm gần đây, đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có những bước phát triển vượt bậc. Chỉ vài chục năm mà đất nước ta đã có những thành tựu, bộ mặt mới mà nhiều nước trên thế giới phải mất hàng trăm năm mới có được. Cũng chính trong thời kỳ phát triển “nóng” này, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi đã và đang xuất hiện những nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống mới chưa từng xảy ra trước đây như tội phạm xuyên quốc gia; dịch bệnh Covid-19 và các nguy cơ đe dọa an ninh y tế, an ninh môi trường, tài nguyên, đất đai; an ninh kinh tế, an ninh tài chính, an ninh doanh nghiệp; an ninh lương thực; an ninh năng lượng...

Trong cuộc đấu tranh phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống này, ngoài thiệt hại về vật chất, tinh thần, chúng ta còn bị thiệt hại về con người, trong đó có những cán bộ có năng lực, đã có nhiều công lao với đất nước, với Đảng và nhân dân. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước ta trong công tác cán bộ, trong đó có xử lý cán bộ là theo phân công, phân cấp thẩm quyền lãnh đạo; kỷ luật cán bộ rất nhân văn, có tình, có lý, phân minh công, tội của cán bộ rõ ràng.

Nâng cao “sức đề kháng” trước những tư tưởng sai trái, lệch lạc

PVTheo ông, mục tiêu chính của họ là gì? 

Trung tướng GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: Thực chất các hạt động tuyên truyền này của các thế lực thù địch và các phần tử xấu là nhằm gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong. Các phần tử phản động ra sức tuyên truyền các thông tin xấu, độc, các thông tin không được kiểm chứng, nhất là lợi dụng cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta để xuyên tạc là thanh trừng nội bộ, là chuẩn bị ghế nhân sự cho vị trí cao hơn… Không những thế, chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự... hòng hạ bệ uy tín của cán bộ, gây hoang mang, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân và cuối cùng tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đánh đổ vai trò lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và nền tảng cách mạng của dân tộc ta là hết sức tinh vi, phức tạp. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự nghiên cứu, học tập, trau dồi nhận thức, bản lĩnh chính trị, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 22/10/2018, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, nâng cao “sức đề kháng” trước những tư tưởng sai trái, lệch lạc, không để mình bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Từ đó, có kỹ năng nhận diện và bóc trần những âm mưu, thủ đoạn sai trái, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng để trực tiếp tuyên truyền, thực hiện đưa nghị quyết, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với Nhân dân.

Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo tại cơ sở để góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các đối tượng chống phá, những thông tin xấu độc, tuyên truyền lan tỏa những thông tin chính thống, kết quả phát triển kinh tế - xã hội, gương người tốt, việc tốt, góp phần nâng cao dân trí khiến các thế lực thù địch dần dần không còn "đất" để xuyên tạc, chống phá.

PVXin cảm ơn ông./.

Quân đội nhân dân Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, từ những bài giảng đầu tiên trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” đến trăn trở, mong muốn trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và dành nhiều tâm sức bàn về vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức; coi đó là “cái gốc” của người cách mạng.

Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán về tinh thần cách mạng triệt để, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, được Người đề cập trong rất nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói. Tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, bút danh Trần Lực, đăng trên Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản), số 12, tháng 12 - 1958 là một trong những tác phẩm tiêu biểu mà Hồ Chí Minh viết về đạo đức cách mạng và những vấn đề có tính nguyên tắc đối với công tác xây dựng Đảng, để Đảng ta xứng đáng là đạo đức, là văn minh, là đội tiên phong của giai cấp, của dân tộc,… đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, được nhân dân tin yêu, đùm bọc và nuôi dưỡng. Kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước, nghệ thuật quân sự của dân tộc, Quân đội ta đã cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, xứng đáng với lời khen tặng của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng1.


Lời khen tặng trên là sự ghi nhận về lòng tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân của Quân đội ta; là niềm tin yêu trọn vẹn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao gửi cho đội quân của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, là sự khái quát bản chất, truyền thống, cống hiến, hy sinh quên mình và cũng là sự kết tinh những giá trị cốt lõi trong những phẩm chất tiêu biểu về đạo đức cách mạng của Quân đội ta, được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ khắc ghi, học tập và gương mẫu làm theo, hình thành nên những phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một giá trị độc đáo trong thời đại mới, là minh chứng sâu sắc cho kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Phẩm chất đó được thể hiện với những đặc trưng tiêu biểu:

Một là, tận trung với nước, với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; tận hiếu với dân, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, vì nhân dân quên mình; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, quan trọng bậc nhất; biểu hiện tập trung về bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và chức năng, nhiệm vụ, đạo đức cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân2. Tận trung với nước, với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa là bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lời thề danh dự của mỗi quân nhân cách mạng.

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh, nên tận hiếu với dân là phẩm chất cơ bản, xuyên suốt trong hệ thống các phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ”; là truyền thống tốt đẹp, bổn phận, trách nhiệm, vinh dự, tự hào và là đạo đức cách mạng của người quân nhân cách mạng. Điều đó không thuần túy là thái độ, cách ứng xử của bộ đội với nhân dân mà còn là phẩm chất chính trị, đạo đức, việc làm tự giác, thường xuyên, theo đúng phương châm: gần dân, hiểu dân, trọng dân, thương dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Thực tế đã chứng minh, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội, được tôi luyện trong khói lửa của chiến tranh; đồng thời, đó cũng là sự khẳng định giá trị, sự kế thừa, phát triển cùng với sự vận động của thực tiễn và là thước đo chuẩn mực đạo đức cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Tận trung với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ, tận hiếu với nhân dân là tiêu chuẩn cốt lõi, quan trọng hàng đầu về đạo đức cách mạng “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; là tình cảm, sự tôn kính của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với những chỉ dẫn, nguyên tắc rất cơ bản về đạo đức cách mạng mà Người đã luận bàn trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”.

Hai là, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng chính trị là nội dung cơ bản cấu thành phẩm chất chính trị. Do vậy, khi nói tới bản lĩnh chính trị, trước hết là nói về sự vững vàng về tư tưởng chính trị của Quân đội ta - lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là mục tiêu, lý tưởng của Quân đội; nền tảng tư tưởng của Đảng là nền tảng tư tưởng của Quân đội. Mặt khác, “Bộ đội Cụ Hồ” là kiểu mẫu về nhân cách được hiện thực hóa một cách tự nhiên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Vì thế, Quân đội phải luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với chuẩn mực nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” và đạo đức cách mạng của người quân nhân, giá trị đó đã được bồi đắp, thử thách, rèn luyện và khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta. Đây là biểu hiện sâu sắc về đạo đức cách mạng, nhân tố quan trọng giúp cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; như Hồ Chí Minh đã dạy: “Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng3.

Tuy nhiên hiện nay, tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên là rất đáng lo ngại, đúng như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa đà vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi… Thực trạng này làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ4. Bởi vậy, xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề hết sức quan trọng, tạo nền móng vững chắc để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: Xây dựng Đảng về đạo đức được đặt ngang tầm với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Do vậy, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phải được xác định là một trong những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu trong hệ thống chuẩn mực đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói chung, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, thể hiện sâu sắc về tư tưởng chính trị trong nhân cách người cán bộ, đảng viên và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Tiêu chuẩn này đối lập với những khuynh hướng tư tưởng phức tạp, sự suy thoái về các giá trị đạo đức mà giai cấp tư sản và các thế lực thù địch cổ súy; đồng thời, tiếp tục khẳng định phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hiện thực hóa tiêu chuẩn này trong đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng trong chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” là kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nắm vững bản chất cách mạng, khoa học; trung thành, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta; tiếp thu những giá trị tiến bộ, văn minh của nhân loại trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ba là, chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nhận rõ đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc luôn có sự đan xen mang tính toàn cầu ngày càng gia tăng. Vì vậy, cần hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa đối tác và đối tượng: trong một chủ thể, có thể lúc này là đối tác, lúc khác là đối tượng, trong điều kiện nhất định chúng lại chuyển hóa lẫn nhau. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định: những lực lượng chống phá mục tiêu của cách mạng nước ta; tiến hành chiến tranh xâm lược; “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chế độ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam đều là đối tượng tác chiến của Quân đội ta. Đối với Quân đội, phải luôn thấu triệt và thực hiện nghiêm phương châm chỉ đạo: kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống. Yêu cầu cấp ủy, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn nắm chắc tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng kẻ thù trong mọi tình huống. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất cũng như các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, truyền thống và các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, Quân đội. Như vậy, nhận rõ đối tượng, đối tác; âm mưu, thủ đoạn và kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một trong những tiêu chuẩn mới của đạo đức cách mạng, chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Bốn là, có ý chí quyết chiến, quyết thắng, động cơ phấn đấu đúng đắn, tâm huyết, tận tụy, trách nhiệm cao, gắn bó xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định: ý chí quyết chiến, quyết thắng là một nét đặc trưng tiêu biểu của “Bộ đội Cụ Hồ”, được hun đúc bởi truyền thống hào hùng của dân tộc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, không ngừng được tôi luyện qua các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Dù trong hoàn cảnh nào, ý chí quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn được thể hiện sâu sắc và triệt để, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng đã trở thành truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta, là đặc trưng tiêu biểu trong đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ”. Ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân tạo nên sức mạnh để Quân đội ta chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù. Từ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của Quân đội và trong nhân cách của mỗi quân nhân đều thấm nhuần nguyên tắc “dĩ công vi thượng”; động cơ thôi thúc hành động duy nhất và vô cùng mạnh mẽ của mỗi cán bộ, chiến sĩ là vì lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Đó là kết quả giáo dục, rèn luyện của Đảng, là dấu ấn sâu đậm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình tổ chức xây dựng, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiều thang giá trị xã hội đã và đang có sự thay đổi, lợi ích vật chất ngày càng chi phối, tác động đến động cơ, mục đích hoạt động của con người; nhận thức và quan niệm giữa cống hiến, hy sinh và hưởng thụ có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng với mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội, không đặt lợi ích vật chất, lợi ích cá nhân làm điều kiện tiên quyết cho việc thực thi nhiệm vụ của mình. Đó chính là động cơ phấn đấu đúng đắn, thúc đẩy mỗi quân nhân luôn yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ, tận tâm, tận lực với nghề nghiệp; đồng cam, cộng khổ; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không để Tổ quốc bị bất ngờ trong mọi tình huống. Động cơ phấn đấu đúng đắn, tâm huyết với nghề nghiệp, tận tụy, gắn bó xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện không chỉ là biểu hiện mới trong phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng, trong giá trị nhân cách “Bộ đội cụ Hồ” đã được lớp lớp thế hệ cha anh xây đắp, trao truyền cho thế hệ ngày nay, mà còn là yêu cầu nghiêm ngặt của nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Năm là, có đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gương mẫu chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống khiêm tốn, trung thực, giản dị, chân thành của người quân nhân cách mạng là kết tinh những phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội cụ Hồ”, bản sắc văn hóa và truyền thống nhân văn, nhân ái, nghĩa tình, thủy chung của dân tộc Việt Nam, được phát triển và tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh. Nổi bật là, lối sống: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đề cao lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, nghiêm khắc với bản thân; nói đi đôi với làm; luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; không ham danh lợi, tiền tài; không kèn cựa, đố kỵ, v.v. Dân chủ, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau là nét đẹp truyền thống, văn hóa của “Bộ đội cụ Hồ”, động lực để mỗi cán bộ, chiến sĩ vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây cũng chính là nguyên tắc căn bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, xây dựng đạo đức cách mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm5. Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội ta; đồng thời là sự tuân thủ nghiêm ngặt, chính xác Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của Quân đội; mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động của Quân đội, từng đơn vị trên các lĩnh vực được chỉ huy, điều hành thống nhất, thông suốt, hiệu quả. Biểu hiện cao nhất của kỷ luật Quân đội là tự giác và nghiêm minh. Tính tự giác và sự nghiêm minh của kỷ luật Quân đội là sự thống nhất và quan hệ biện chứng với nhau. Bởi, có tự giác mới giữ nghiêm được kỷ luật; nhưng nếu chỉ nhấn mạnh đến tự giác mà không thấy tính chặt chẽ, nghiêm minh của kỷ luật thì sẽ dẫn đến tự do, tùy tiện; còn nếu coi nhẹ tính tự giác, chỉ đề cao sự nghiêm minh thì sự nghiêm minh ấy rất có thể biến thành hình thức, quan liêu, quân phiệt.

Quán triệt và thực hiện nghiêm các nguyên tắc cơ bản, những chỉ dẫn về thực hành, nêu gương về đạo đức trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” của Người, nguyện phấn đấu xứng danh “Bộ đội cụ Hồ” trong thời kỳ mới là một trong những chủ trương, biện pháp quan trọng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Phát huy truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng”, toàn quân quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mẫu mực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp. Đồng thời, xung kích trên mặt trận đấu tranh phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch; đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với các phong trào, các cuộc vận động của các cấp, các ngành, v.v. Đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, theo phương châm: hướng về cơ sở, bám cơ sở, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ, thống nhất; lựa chọn đúng, trúng khâu đột phá, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội cụ Hồ” trong tình hình mới.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam phải là một tấm gương sáng về học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang6.

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

_____________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 435.

2, 3 - Sđd, Tập 11, tr. 604, 602.

4 - Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 45

5 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 483.

6 - Sđd, Tập 11, tr. 601.

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

           Trong những năm gần đây, âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt và nguy hiểm. Một trong những biểu hiện chủ yếu là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi thay vào đó bằng hệ tư tưởng tư sản, xoá bỏ vị trí thống trị của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong Đảng và trong xã hội ta.

Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đảng ta khẳng định quan điểm chỉ đạo hàng đầu đối với quá trình cách mạng Việt Nam là: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Theo đó, cùng với quá trình nghiên cứu vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn đòi hỏi phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc hệ thống tư tưởng, lý luận này.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta không chỉ bổ sung, hoàn thiện khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” mà còn khẳng định: Tư tưởng của Người “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Như vậy, giá trị, ý nghĩa và sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh từ chỗ được minh chứng trong thực tiễn đã được Đảng đúc rút thành quy luật, thành “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam” cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, phản động phải đi liền với việc khẳng định và phát triển các giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; với việc rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, chú trọng nghiên cứu, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên những vấn đề lớn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta qua hơn 35 năm đổi mới dưới sự soi sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh là minh chứng đanh thép, sống động và thuyết phục nhất để phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, đồng thời khẳng định giá trị, tính đúng đắn, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

KẾT QUẢ TRONG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG TA

             Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước ta đã và đang diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực; nhận được sự quan tâm, ủng hộ và hưởng ứng của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân, tạo dựng được niềm tin trong Nhân dân. Tuy nhiên vẫn có không ít luận điệu, bài viết trên không gian mạng tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực và kết quả phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta. Những thủ đoạn đó không thể nào phủ nhận được sự thật là: công tác phòng chống tham nhũng của Đảng ta đang ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt, đạt được nhiều kết quả quan trọng và trở thành một xu thế không thể đảo ngược.

Để đánh lạc hướng dư luận, bôi đen và phủ nhận những kết quả mà Đảng ta đạt được, các thế lực thù địch luôn tìm cách rêu rao rằng cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là hình thức, nhằm che mắt người dân, chúng xuyên tạc và cho rằng đó là các cuộc “thanh trừng nội bộ”…

Thực tiễn cho thấy, theo báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng tiêu cực, giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, Uỷ ban kiểm tra các cấp trong cả nước đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức Đảng và gần 168.000 đảng viên; trong đó, có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý. Qua công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 975 nghìn tỷ đồng, gần 76 nghìn ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Những kết quả đạt được trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta cho thấy sự quyết tâm và quan điểm nhất quán của Đảng ta: "không có vùng cấm, không có ngoại lệ", không bao che, bất kể người đó là ai.

Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc chiến chống tham nhũng trên phạm vi cả nước, Hội nghị Trung ương 5 Khóa XIII diễn ra vào tháng 5/2022 đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở 63 tỉnh, thành phố. Sự ra đời của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã tạo sự đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, cơ sở trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Kết quả bước đầu trong hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã khẳng định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, được cán bộ, đảng viên, Nhân dân đồng tình, ủng hộ; đồng thời khẳng định quyết tâm của Đảng ta là đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm tham nhũng, tiêu cực.

Những luận điệu cho rằng công cuộc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là “cuộc chiến thanh trừng phe phái” là hoàn toàn sai trái, xuyên tạc. Cuộc chiến chống tham nhũng chắc chắn sẽ còn nhiều cam go phía trước, và hành vi tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn tồn tại, là thực tế khách quan không thể phủ nhận. Tuy nhiên, với nỗ lực, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, tình trạng tham nhũng, tiêu cực sẽ từng bước được ngăn chặn, đẩy lùi, tạo sự ổn định để đất nước phát triển vững mạnh hơn.

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIÊN CỦA ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM CÔNG BỐ NĂM 1943

          Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được công bố năm 1943, là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn và ý nghĩa lịch sử sâu sắc của Đảng ta, được coi là Tuyên ngôn của Đảng về một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Đề cương văn hóa Việt Nam là ngọn đuốc soi đường và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (ngày 24-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát định hướng của văn hóa mới bằng một luận điểm rất sâu sắc là: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Sau đó là văn hóa kháng chiến, kiến quốc, văn hóa tham gia vào đời sống mới, sửa chữa thói hư tật xấu cho cán bộ, chống tham nhũng, làm cho dân tộc Việt đoàn kết, tự cường bằng cách nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí. Tinh thần ấy trở thành đạo đức xã hội “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đã tập hợp mọi lực lượng xã hội, tôn giáo, đảng phái cho mục đích giành độc lập dân tộc, là phương châm hành động tất cả cho tiền tuyến, tiếng hát át tiếng bom, là động lực tinh thần và nguồn lực phát triển nhằm mục đích vì hòa bình, tự do, dân chủ, vì sự phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Đây không phải là văn hóa ứng dụng mà là văn hóa hành động, là lối sống của cả xã hội, là đạo đức của thời đại chứ không phải chỉ là những nghiên cứu lý thuyết xa rời thực tiễn. Cái đích của đường lối văn hóa mới đã nói lên bản chất vấn đề.

Có thể khẳng định, Đề cương về văn hóa năm 1943 là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, đề cập toàn diện và sâu sắc những vấn đề mang tính chất nền tảng về nguyên tắc, phương châm, phương hướng. Tròn 80 năm qua, bối cảnh tình hình và điều kiện cụ thể có nhiều thay đổi nhưng những nội dung cốt lõi trong Đề cương vẫn giữ nguyên giá trị.

Tiếp theo Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI được xem là những văn kiện quan trọng của Đảng về phát triển văn hóa Việt Nam. Các văn kiện này đã đề cập đến việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đồng thời cụ thể hóa 3 nguyên tắc (dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa) trong phát triển văn hóa Việt Nam của bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943. Không chỉ các nghị quyết của Đảng mà các văn kiện, chiến lược, văn bản khác của Nhà nước cũng thường xuyên đề cập đến 3 nguyên tắc này. Điều đó chứng tỏ sức sống lâu bền của Đề cương văn hóa 1943.

Bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước hôm nay, nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Văn hóa trong chính trị và kinh tế được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong phần nói về văn hóa, đã nhấn những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc... và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc... sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam…; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;... phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Đảng ta đồng thời chỉ rõ, trung tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế. Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng.

Nhằm phát huy thành tựu và khắc phục nhanh những hạn chế, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra vào tháng 11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Trong đó, Tổng Bí thư yêu cầu, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về văn hóa. Khắc phục tư tưởng “duy kinh tế”, chỉ tập trung cho kinh tế, mà ít quan tâm đến văn hóa. Hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng, đồng thời tôn vinh tài năng và cống hiến của đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại…

Trải qua 80 năm, Đề cương vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, tiếp tục soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ ĐẢNG DUY NHẤT CẦM QUYỀN VÀ LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC, CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ VÀ TOÀN XÃ HỘI

             Đảng ta ra đời ngày 3-2-1930 đã chấm dứt sự bế tắc, khủng hoảng kéo dài về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta phải sống cuộc đời lầm than, cơ cực, bị bóc lột tận xương tủy dưới chế độ thực dân, phong kiến. Dân tộc và nhân dân ta đang cần “Ngọn đuốc” soi đường, chỉ lối và dẫn dắt, để nhân dân vùng lên xóa bỏ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành lại cơm no, áo ấm. Chính lúc này Hồ Chí Minh đã đưa ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin về với dân tộc Việt nam, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân lao động để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời là kết quả từ sự cần thiết tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Chỉ sau 15 năm ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân, phát triển rộng khắp trên cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. Đặc biệt thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 làm nên kỳ tích trong lịch sử của dân tộc ta. Đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân tộc Việt Nam sang một kỷ nguyên mới - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đưa “Nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội”. Minh chứng là, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cùng với phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, Chính phủ liêm chính, hành động. Bác Hồ từng nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc… Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đảng cũng luôn xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Từ đó Đảng ra luôn quan tâm công tác xây dựng Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Các nhiệm kỳ, nhất là mấy nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta đều ban hành các nghị quyết về công tác cán bộ, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; ba Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị... Tại Đại hội XIII của Đảng, trong Báo cáo chính trị, Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN”.

Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. Đảng và Nhà nước luôn kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí... Từ đó nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp đã bị xử lý kỷ luật hoặc truy tố trước pháp luật. Điều đó càng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên những thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước luôn xuyên tạc những thành tựu của Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ, vu cáo chủ trương phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Họ rêu rao đây là sự đấu đá, thanh trừng nội bộ. Song sự thật, chân lý luôn được chứng minh và tỏa sáng trong thực tiễn cuộc sống. Đó là đông đảo nhân dân tin tưởng, hoan nghênh, ủng hộ và cùng tham gia phát hiện, tố giác; đó là các nước trên thế giới tin tưởng, công nhận và tôn trọng. Chính vì thế Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam; là niềm tin, là chỗ dựa vững chắc, là niềm tự hào của dân tộc ta, Nhân dân ta.

TÔN GIÁO LUÔN LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG DAN TỘC

         Thời gian gần đây các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh việc lợi dụng tôn giáo là một trong những mũi nhọn để công kích, chống phá Đảng, nhà nước ta. Những đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ XHCN dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò của Đảng, Nhà nước ta.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa quan tâm, chăm lo, bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt động, phát triển bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta.

Ngày 30/8, tại Hội trường Thống Nhất, TPHCM, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu: “Đất nước có phong trào gì thì các tôn giáo hưởng ứng tích cực, đóng góp hiệu quả cho phong trào đó. Đất nước có khó khăn, thách thức thì với tinh thần đại đoàn kết, tôn giáo đồng hành cùng đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đất nước có thuận lợi và thời cơ thì tôn giáo thúc đẩy mạnh mẽ để phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng và nhân dân ấm no, hạnh phúc”.

Trong giai đoạn hiện nay, tôn giáo ở Việt Nam đều có mối quan hệ quốc tế sâu sắc. Đây chính là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng, sử dụng mọi chiêu trò để vu khống Đảng, Nhà nước ta “xâm phạm quyền tự do, đàn áp tôn giáo”; từ đó, kêu gọi các tổ chức, cộng đồng quốc tế lên tiếng, can thiệp. Bằng hình thức lôi kéo, cổ súy, hậu thuẫn cho một số linh mục, chức sắc tôn giáo có nhiều tham vọng chính trị và lợi dụng đức tin của các tín đồ đã tuyên truyền, xuyên tạc hết sức phản động về Đảng, chế độ, chính quyền các cấp; ngang nhiên phát thư ngỏ trên mạng xã hội, kêu gọi, kích động một bộ phận nhân dân có đạo gây rối.

Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận là quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền bẩm sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng định rõ hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc có nhiều hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng.

Với tinh thần đoàn kết, phát huy những bài học quý về sự tham gia, chung tay của các tổ chức tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước ta luôn duy trì củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong đời sống xã hội. Tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động y tế, giáo dục, dạy nghề, an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương. Phát huy nguồn lực, thế mạnh của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong xây dựng và phát triển đất nước. Tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

CẦN HIỂU ĐÚNG BẢN CHẤT, NHẬN THỨC THẤU ĐÁO VỀ TỰ DO NGÔN LUẬN

Tự do và tự do ngôn luận là vấn đề vừa trừu tượng, vừa cụ thể, vừa thể hiện nhận thức và hành động lý trí, vừa bao hàm trạng thái tình cảm, cảm xúc, cảm nhận của con người trong các mối quan hệ có tính chất lịch sử. Do đó, muốn hiểu khái niệm “tự do”, cần đặt nó trong sự đối lập với “tất yếu”.

Hiến pháp năm 2013 thừa nhận quyền tự do ngôn luận của công dân, khi thực hiện quyền này đang nảy sinh suy nghĩ nhận thức ở một số người cho rằng:  tự do ngôn luận là được tự do nói năng, phát ngôn, bình luận chia sẻ, phát tán thông tin mà không chịu bất cứ trách nhiệm hay ngăn cản nào, thậm chí đó là những phát ngôn xuyên tạc sự thật, thông tin sai lệch, bình luận thiên lệch, phiến diện tùy tiện... nếu ai hạn chế quyền nói năng, bình luận, phát tán thông tin của người khác là vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân, vậy bản chất của vấn đề ở đây là gì, thực chất nhận thức như vậy là  phiến diện và không chính xác nếu không muốn nói là sai lầm, chúng ta biết rằng trên thực tế không bao giờ có quyền tự do tuyệt đối cả, mà nó còn bị giới hạn bởi các yếu tố như luật pháp, phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô chính phủ, tự do kiểu hoang dã, ai cũng nói năng, phát ngôn bừa bãi, xuyên tạc sự thật, bịa đặt, chia sẻ thông tin không kiểm chứng, bất chấp đúng sai sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát, gây rối loạn xã hội, nhiễu loạn thông tin, có thể tạo ra khủng hoảng thông tin xã hội, dẫn đến bất ổn định an ninh trật tự xã hội.

Trong đời sống xã hội, tất yếu chính là môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế và môi trường văn hóa, hệ thống giá trị đạo đức do cộng đồng tạo dựng. Theo quan niệm của triết học, nhận thức của con người là vô hạn-nhận thức được thế giới vật chất vô hạn, nhưng đó là nhận thức của con người triết học-con người trừu tượng, của loài người nói chung; còn khả năng ấy tồn tại ở mỗi thế hệ, trong mỗi con người cụ thể, trong mỗi cá nhân thì luôn có giới hạn.

Do vậy, không thể khẳng định rằng, ở một nước có nền kinh tế giàu mạnh và xã hội phát triển ở trình độ cao là đã có tự do ngôn luận hoàn toàn và một nước có nền kinh tế phát triển trung bình thì còn hạn chế về tự do ngôn luận. Mọi sự ngộ nhận đều dẫn đến sai lầm và sẽ kìm hãm sự phát triển. Đồng thời, áp đặt quan niệm tự do ngôn luận của nước này lên nước khác là tư duy chính trị lỗi thời, cũng khó có thể chấp nhận được. Tính chất và mức độ tự do ngôn luận cần được xem xét trong những điều kiện cụ thể của sự phát triển; nó biểu hiện nấc thang tiến hóa của xã hội.

Tự do ngôn luận là quyền thiêng liêng, cao cả của mỗi con người, mỗi dân tộc trong quá trình trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm cũng như chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm. Tự do ngôn luận có phải là đích cuối cùng cần đạt tới? Không phải, tự do ngôn luận chỉ là phương tiện, hay là phương thức; còn việc sử dụng phương tiện hay phương thức ấy để làm gì, đạt tới cái gì mới là đích đến của tự do. Sự nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện sẽ là sai lầm nghiêm trọng và sẽ gánh chịu hậu quả ngoài mong đợi.

BÁC BỎ CÁI GỌI LÀ “DANH SÁCH CẦN GIÁM SÁT ĐẶC BIỆT VỀ TỰ DO TÔN GIÁO” DO BỘ NGOẠI GIAO MỸ ĐƯA RA

         Ngày 2/12/2022 vừa qua, trên website của Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa Việt Nam vào cái gọi là “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”. Điều này gây nên những phản ứng của dư luận xã hội về sự thiếu khách quan trong nhìn nhận, đánh giá thực chất vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời thể hiện góc nhìn sai lệch của Bộ Ngoại giao Mỹ.

Theo cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam cùng 3 nước khác là Algeria, Cộng hòa Trung Phi, Comoros thuộc cái gọi là “Danh sách giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo”. Lý do phía Mỹ đưa ra là Việt Nam trong năm 2022 đã “can dự vào hay dung thứ cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”. Đồng thời với Bộ Ngoại giao Mỹ là tổ chức Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo quốc tế (USCIRF) cũng công bố báo cáo mới về “Danh sách nạn nhân tự do tôn giáo hay niềm tin”, theo đó cáo buộc Việt Nam chưa tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, đặc biệt tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân.

Trước những cáo buộc phi lý của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam đã có những phản hồi chính thức về vấn đề này. Cụ thể, ngày 15/12/2022, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định: “Việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan cũng như các thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam”. Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với tổ chức, cá nhân chức sắc, tín đồ. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (có hiệu lực thi hành năm 2018), Nghị định 162/NĐ-CP quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị quyết số 25/NQ-TƯ ngày 12/3/2003, Hội nghị Trung ương 7, Khóa IX về công tác tôn giáo, nêu 5 quan điểm về chính sách trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, tín đồ. Những quy định này đã tạo cơ sở cho những phát triển, thành tựu trên lĩnh vực tôn giáo, trong đó nhìn nhận yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo là “nhu cầu không thể thiếu của một bộ phận người dân” và “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo”; xác định tín ngưỡng, tôn giáo là nguồn lực quan trọng mà các cơ quan, ban, ngành chức năng trong hệ thống chính trị phải phát huy nguồn lực này góp phần xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng thiết chế văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, gắn tín ngưỡng, tôn giáo với đạo đức con người, văn hóa dân tộc.

Việt Nam và Mỹ đã xây dựng được cơ chế đối thoại trên cơ sở niềm tin, bình đẳng và hướng đến sự ổn định phát triển giữa hai quốc gia, dân tộc. Những năm qua, hai nước đã thường xuyên tổ chức “Đối thoại Nhân quyền thường niên Hoa Kỳ - Việt Nam” nhằm trao đổi, đối thoại giải quyết những vướng mắc, bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo. Năm 2022, hai nước đã tổ chức cuộc họp Đối thoại nhân quyền tại Mỹ thu được kết quả thành công tốt đẹp, mở ra triển vọng mới về cải thiện nhân quyền tích cực ở Việt Nam trong thời gian tới.

Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa Việt Nam vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo” năm 2022 đã phủ nhận những nỗ lực của Chính phủ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ trong tiến trình tạo niềm tin, củng cố quan hệ ngoại giao. Việc đưa ra những đánh giá, nhận định nêu trên của Bộ Ngoại giao Mỹ đã tạo thêm những cơ sở, điều kiện để các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội chính trị tuyên truyền xuyên tạc sai lệch bản chất vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Từ những thành tựu có được trong bức tranh về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là minh chứng sống động cho thấy hơn bao giờ hết tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trở thành động lực, yếu tố thúc đẩy gắn kết, đoàn kết xã hội, xây dựng xã hội mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Những cáo buộc của phía Mỹ khi đưa Việt Nam vào “danh sách cần giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo” thực sự chưa thể hiện góc độ tiếp cận tích cực, thiếu căn cứ pháp lý, đi ngược lại những cam kết mà phía Mỹ và Việt Nam đã ký kết, thỏa thuận. Hi vọng rằng trong thời gian tới, phía Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ có những đánh giá khách quan, cụ thể, sâu sát và vì lợi ích của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để đưa ra những đánh giá, quyết định hữu ích cho quan hệ giữa hai quốc gia, dân tộc.

Quyết chống "lương y rởm"

 Những năm gần đây nổi lên tình trạng nhiều đối tượng tự xưng là “lương y” tìm về các vùng quê "tư vấn sức khỏe, bán thuốc tận nhà" nhằm lừa đảo, bán thực phẩm chức năng dưới danh nghĩa thuốc chữa bệnh.

Nguy hại hơn, nhiều đối tượng đã mượn danh, giả danh để "hành nghề" bằng cách sử dụng hình ảnh, video cắt ghép của bệnh viện hay bác sĩ có uy tín để tư vấn, cung cấp dịch vụ sức khỏe, bán thuốc trực tuyến trên các nền tảng mạng xã hội. Rất nhiều người dân, nhất là người cao tuổi, đã bị các đối tượng lừa mua thuốc giả, kém chất lượng, tiền mất tật mang. Vấn nạn này còn làm tổn hại lớn tới danh dự, uy tín của ngành y và những thầy thuốc chân chính.

Trước thực trạng trên, một số bệnh viện và bác sĩ đã chủ động dành thời gian phản hồi thông tin của người dân; thông báo rộng rãi về việc không bán thuốc qua mạng xã hội; cán bộ, nhân viên của bệnh viện không tham gia các hoạt động khám, chữa bệnh, tư vấn sức khỏe không đúng chức năng, nhiệm vụ. Cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc kiểm tra, bóc gỡ hàng nghìn bài viết, trang tin quảng cáo thuốc, thực phẩm chức năng sai sự thật trên internet. Thế nhưng, vấn nạn mạo danh bệnh viện và lương y để lừa bán thuốc "rởm" vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm.

Quyết chống "lương y rởm"
 Ảnh minh họa.

Nguyên nhân là do chúng ta chưa có chế tài đủ mạnh để xử phạt, răn đe những kẻ sống "ký sinh" trên uy tín của người thầy thuốc; do các cơ quan, đơn vị liên quan đến trách nhiệm giải quyết vấn nạn này còn thờ ơ, nhẹ tay. Thực tế, có rất ít trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan đến giả mạo cán bộ ngành y. Hơn nữa, các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương chưa thực sự quyết liệt chung tay cùng ngành y tế phòng, chống vấn nạn này. Mặt khác, nhận thức của người dân về y tế, chăm sóc sức khỏe chưa đồng đều; đặc biệt, người dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn thiếu hiểu biết toàn diện về y tế, dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng.

Từ thực trạng trên, đã đến lúc các cơ quan chức năng cần rốt ráo vào cuộc ngăn chặn, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân lợi dụng hình ảnh, uy tín của các cơ sở y tế và thầy thuốc để trục lợi; xây dựng chế tài xử phạt mạnh, đủ sức răn đe, tránh tình trạng do lợi nhuận lớn, các đối tượng vi phạm sẵn sàng chịu xử phạt hành chính để tiếp tục “hành nghề”. Công tác tuyên truyền, phổ biến về y tế, sức khỏe phải được cơ quan truyền thông các cấp, các ngành, tổ chức xã hội quan tâm, đẩy mạnh, lan tỏa đến từng thôn, bản để nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân; giúp người bệnh chủ động lựa chọn các cơ sở y tế có uy tín, được cấp phép khám, chữa bệnh; tránh bị các "lương y rởm" chèo kéo dẫn đến tiền mất tật mang.

Bên cạnh việc Nhà nước tiếp tục quan tâm xây dựng, phát triển mạng lưới y tế từ Trung ương đến cơ sở cả về số lượng và chất lượng thì ngành y tế, các bệnh viện và đội ngũ y, bác sĩ cần thấy rõ trách nhiệm của mình trong nâng cao trình độ chuyên môn, y đức để các cơ sở y tế trở thành địa chỉ tin cậy của mỗi người dân. Cộng đồng đủ am hiểu, ngành y tế đủ niềm tin thì những kẻ mạo danh, sống nhờ trên danh dự, uy tín của thầy thuốc sẽ không còn đất sống.

Nguồn: Báo QĐND

Bác sĩ mũ nồi xanh kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam​ ở Nam Sudan

 Làm nhiệm vụ quốc tế xa Tổ quốc, các y, bác sĩ Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 đã tổ chức kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam với các hoạt động thiết thực và ý nghĩa, góp phần lan toả hình ảnh tốt đẹp của bác sĩ mũ nồi xanh, hình ảnh Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tại Nam Sudan…

Nhân dịp Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27-2, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã tổ chức hoạt động quân dân kết hợp (CIMIC) mang ý nghĩa nhân đạo giúp đỡ người dân tại địa bàn Bentiu (Nam Sudan).

Bác sĩ mũ nồi xanh kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam​ ở Nam Sudan
Đoàn thiện nguyện của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 tặng quà Bệnh viện đa khoa Bentiu. Ảnh: Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4

Bệnh viện đã tổ chức đoàn thiện nguyện do đồng chí Thiếu tá Lê Việt Anh, Phó giám đốc chuyên môn làm trưởng đoàn, tới trao tặng quà và khám chữa bệnh cho bệnh nhân tại Bệnh viện đa khoa Bentiu. Đoàn cũng tổ chức khám chữa bệnh, phát thuốc và tặng quà cho người dân địa phương. 

Bệnh viện đa khoa Bentiu có điều kiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tồi tàn, thiếu thốn nhiều loại dược phẩm, thiết bị y tế cần thiết trong quá trình điều trị, nên các loại thuốc thiết yếu, dung dịch khử khuẩn, thiết bị y tế, vật tư bảo đảm vệ sinh môi trường… mà bệnh viện Việt Nam trao tặng rất có ý nghĩa. 

Được biết các bác sĩ Việt Nam tổ chức khám, chữa bệnh miễn phí nên người dân ở Bentiu đã tới rất đông, số lượng vượt ngoài dự kiến. Với tinh thần “lương y như từ mẫu”, các y, bác sĩ mũ nồi xanh Việt Nam đã làm việc hết công suất để bảo đảm tất cả người dân tìm tới đều được khám bệnh. Không chỉ thăm khám cho từng bệnh nhân, các y, bác sĩ còn đưa ra những tư vấn tận tình, lời khuyên cần thiết và cấp phát thuốc cho họ.

Bác sĩ mũ nồi xanh kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam​ ở Nam Sudan
 
Bác sĩ mũ nồi xanh kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam​ ở Nam Sudan
 
Bác sĩ mũ nồi xanh kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam​ ở Nam Sudan
các y, bác sĩ khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người dân tại Bentiu. Ảnh: Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4. 

Theo Trung tá Đỗ Thị Hằng Nga, Phó giám đốc quân sự Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4, Giám đốc bệnh viện đa khoa Bentiu đã gửi lời cảm ơn tới Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 Việt Nam đã hỗ trợ, giúp đỡ bệnh viện và người dân Bentiu. Ông hy vọng bệnh viện Việt Nam sẽ có thêm các hoạt động thiện nguyện thiết thực như thế này trong thời gian tới. 

Thông qua các hoạt động CIMIC, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 ở địa bàn đã tạo được những ấn tốt đẹp đối với chính quyền và người dân địa phương. Bệnh viện cũng tiếp tục khẳng định được trình độ và năng lực chuyên môn với những kết quả tích cực trong hoạt động chuyên môn y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân viên Phái bộ. 

Mới đây, bệnh viện đã hoàn thành xuất sắc đợt kiểm tra đánh giá năng lực hoạt động của Liên hợp quốc. Đoàn kiểm tra của Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan do Đại tá Edward Nyarko, Chỉ huy trưởng Y tế  Phái bộ làm trưởng đoàn đã tới Bentiu tiến hành kiểm tra và đánh giá năng lực hoạt động của bệnh viện. Đánh giá cao năng lực thực hiện nhiệm vụ của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4, Ngài trưởng đoàn cho rằng, năng lực chuyên môn của bệnh viện ngày càng được hoàn thiện và phát triển trong thời gian nhiệm kỳ công tác. Trong chuyến kiểm tra, ông đề nghị bệnh viện chia sẻ các kinh nghiệm về điều trị, các kiến thức về huấn luyện y tế để có thể áp dụng ở nhiều bệnh viện khác trong phái bộ.

Đây là đợt kiểm tra quan trọng và toàn diện, với những tiêu chí khắt khe nhất của Liên hợp quốc đối với Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 Việt Nam nói riêng và tất cả các đơn vị tại phái bộ nói chung. Đoàn kiểm tra tập trung vào đánh giá năng lực triển khai nhiệm vụ của đơn vị trên tất cả các mặt: Chuyên môn, y tế, nhân sự, tác chiến, hậu cần kỹ thuật, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, khả năng ứng phó với các tình huống có thể xảy ra…

Trong đợt kiểm tra, bệnh viện đã thực hành xuất sắc 2 kịch bản xử lý tình huống chuyên môn y tế rất phức tạp, do chính Đại tá Edward Nyarko đặt ra.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...