Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2022

Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích biển tại cuộc đàm phán ở LHQ

Phiên đàm phán thứ năm của Hội nghị liên chính phủ về xây dựng văn kiện pháp lý quốc tế trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các vùng biển nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia (BBNJ) đã kết thúc sau hai tuần làm việc khẩn trương.

Theo TTXVN, đoàn đàm phán liên ngành của Việt Nam do Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc dẫn đầu đã tham gia phiên đàm phán, có những đề xuất, đóng góp thực chất cho dự thảo văn kiện, góp phần tích cực vào tiến trình đàm phán về các vấn đề trực tiếp liên quan quyền và lợi ích biển của Việt Nam, đồng thời bảo vệ lợi ích chung của các nước đang phát triển.

Văn kiện sẽ là cơ sở pháp lý để thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và khai thác nguồn gien biển ngoài vùng tài phán quốc gia, đồng thời bảo đảm công bằng trong chia sẻ lợi ích từ việc khai thác và sử dụng bền vững nguồn gien biển phong phú tại vùng biển nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia.

Trong bối cảnh còn tồn tại khoảng cách lớn trong khả năng tiếp cận, khai thác tài nguyên gien biển giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý toàn cầu về xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển, chia sẻ lợi ích có được từ khai thác nguồn gien biển là vô cùng cấp thiết.

Đàm phán phiên thứ năm đã đạt nhiều tiến triển lớn trên tất cả các nhóm vấn đề được thảo luận. Khung cơ bản của dự thảo văn kiện đã hình thành. Các nước đang phát triển và phát triển đã có những nhượng bộ nhất định, song chưa thể thông qua dự thảo văn kiện.

Hội nghị quyết định sẽ triệu tập phiên đàm phán tiếp theo trong thời gian sớm nhất có thể với kỳ vọng có thể kết thúc đàm phán xây dựng văn kiện về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các vùng biển nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia.

Đàm phán BBNJ cũng góp phần quan trọng trong củng cố hệ thống dựa trên UNCLOS 1982 trong quản trị các vùng biển và đại dương, bảo đảm sự phát triển bền vững cho tất cả các nước và thế hệ tương lai. 

Hoàn cảnh ra đời Bản Tuyên ngôn Độc lập

Ngày 25/8/1945, Hồ Chí Minh cùng Ủy ban Dân tộc giải phóng về đến Hà Nội. Người ở tại số nhà 48, phố Hàng Ngang của nhà tư sản dân tộc Trịnh Văn Bô. Cũng tại đây, trong những ngày tháng 8 lịch sử, Người đã viết Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tiếp tục vun đắp tình hữu nghị giữa Quân đội Việt Nam và Kazakhstan

Chiều 25-8, tại Đại sứ quán Việt Nam tại Nur-Sultan đã diễn ra buổi giao lưu hữu nghị Quân đội Việt Nam và Kazakhstan.

Tham dự buổi giao lưu về phía Việt Nam có toàn bộ các thành viên hai đội tuyển Kinh tuyến và Xạ thủ chiến thuật tham dự Army Games 2022 tại Kazakhstan. Về phía Kazakhstan có một số cựu chiến binh, dẫn đầu là Trung tướng Dzhahasaev Bulat. 

Đặc biệt, trong số các bạn bè Kazakhstan tới dự buổi giao lưu, có mặt thân nhân của cố Trung tướng Zhansen Kereev - một tướng lĩnh quân sự nổi bật người Kazakhstan trong quân đội Liên Xô trước đây, người được nhà nước Liên Xô cử sang làm cố vấn quân sự cao cấp cho Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 1981 - 1982 và được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

Trong không khí thân tình và đầm ấm, các cựu chiến binh Kazakhstan và một số cán bộ đã từng công tác tại Việt Nam đã xúc động chia sẻ những kỷ niệm về quãng thời gian sống và công tác tại Việt Nam, về thân thế và sự nghiệp, những kinh nghiệm, bài học của cố Trung tướng Kerreev trong việc xây dựng quân đội, chăm lo cho chiến sĩ, đóng góp vào tình hữu nghị giữa nhân dân và quân đội Việt Nam và Kazakhstan, sự sẻ chia, sát cánh giữa các cựu chiến binh hai nước trước đây cần tiếp tục được thế hệ trẻ tiếp tục vun đắp, củng cố và phát triển, góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước trong thời gian tới.

Phát biểu tại buổi giao lưu, Đại sứ Việt Nam tại Kazakhstan Phạm Thái Như Mai nhắc lại những ngày tháng Tám lịch sử khi nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đứng lên giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, tiền thân của nước CHXHCN Việt Nam ngày nay, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Đại sứ khẳng định nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn, chí tình của nhân dân và quân đội các nước anh em, đặc biệt là Liên Xô cũ, trong đó có nhân dân và quân đội Kazakhstan trong suốt chặng đường dài xây dựng và bảo vệ đất nước. Những câu chuyện cảm động, bổ ích về lịch sử chiến đấu sát cánh cùng nhân dân Việt Nam của những người bạn Kazakhstan trong buổi giao lưu sẽ góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam trân trọng hơn sự quý giá của hòa bình, độc lập và tự do mà chúng ta đang được tận hưởng ngày hôm nay.

Cũng nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày thành lập ngành ngoại giao, Đại sứ đánh giá cao những nhiệm vụ cao quý, đầy trọng trách của các nhà ngoại giao Việt Nam, những chiến sĩ trên mặt trận đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác, đoàn kết quốc tế cao cả giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.

* Trước đó, vào ngày 23-8, lễ bế mạc Hội thao Quân sự Quốc tế lần thứ 8 (Army Games 2022) tại Kazakhstan đã được tổ chức trọng thể tại Trung tâm Quân sự Ái quốc ở thủ đô Nur-Sultan. Trung tướng Marat Khusainov, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Kazakhstan tổng kết Hội thao Army Games-2022, chúc mừng thành công của các đội tuyển tham dự cuộc thi và nhấn mạnh, các cuộc tranh tài diễn ra gay cấn nhưng đầy tình hữu nghị.

Có 26 đội từ 15 nước tham gia thi đấu ở Army Games 2022 tại Kazakhstan với ba môn: Xạ thủ chiến thuật, Kinh tuyến và Pháo binh từ ngày 13 đến 22-8-2022. Việt Nam tham gia thi đấu hai môn Xạ thủ chiến thuật và Kinh tuyến cùng với đội tuyển của 8 nước khác và được xếp thứ tư chung cuộc.

VĨNH TRỌNG

Nguồn: Báo QĐND

Bế mạc Hội thao Quân sự quốc tế (Army Games) 2022: Đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam xếp ở vị trí thứ 5

Tối 27-8 (theo giờ địa phương), Lễ bế mạc Hội thao quân sự quốc tế - Army Games 2022 đã được tổ chức tại công viên Patriot ở ngoại ô Moscow, LB Nga.

Đoàn Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tham gia Army Games 2022 ở nước ngoài do Đại tá Tạ Quang Thảo, Phó cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam, làm Trưởng đoàn dự lễ bế mạc.

Trước đó, chiều cùng ngày đã diễn ra trận chung kết của Bảng 1 cuộc thi “Xe tăng hành tiến” với kết quả Đội tuyển Xe tăng LB Nga giành vị trí thứ nhất, Đội tuyển Belarus xếp thứ hai và đứng ở vị trí thứ ba là Đội tuyển Trung Quốc. Năm nay, Đội tuyển Xe tăng QĐND Việt Nam đạt thành tích lọt vào vòng bán kết Bảng 1 của cuộc thi.

Tại lễ bế mạc, Ban tổ chức đã trao Cúp cho Đội tuyển Xe tăng LB Nga. Các đoàn ca nhạc của Bộ Quốc phòng LB Nga cũng biểu diễn một số tiết mục văn nghệ độc đáo, trong đó nổi bật có nhóm biểu diễn nhạc Jazz.

Army Games 2022 diễn ra từ ngày 13 đến 27-8 và có 264 đội tuyển đến từ 34 quốc gia tham gia tranh tài ở 34 nội dung thi đấu. Army Games lần này được tổ chức ở 12 quốc gia, bao gồm: Nga, Algeria, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Trung Quốc, Iran, Kazakhstan, Mongolia, Uzbekistan, Venezuela và Việt Nam. Đây cũng là năm đầu tiên Army Games được tổ chức tại một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ (Venezuela). Trong khi đó, có hai quốc gia lần đầu tiên tham gia một kỳ Army Games, đó là Bolivia và Rwanda.

Kết quả toàn đoàn, LB Nga xếp ở vị trí đầu tiên, Uzbekistan xếp thứ hai; Belarus và Kazakhstan cùng xếp ở vị trí thứ ba; Trung Quốc và Iran cùng xếp vị trí thứ 4. Đoàn QĐND Việt Nam đứng ở vị trí thứ 5 toàn đoàn với 1 Huy chương vàng, 2 Huy chương bạc và 5 Huy chương đồng.

Cùng với việc đăng cai tổ chức cuộc thi “Vùng tai nạn” tại Việt Nam, QĐND Việt Nam còn cử các đội tuyển tham gia thi đấu ở một số nội dung khác như: Xe tăng hành tiến (thi đấu tại LB Nga), Đội quân văn hóa (LB Nga), Tiếp sức quân y (LB Nga), Đột phá đặc biệt (LB Nga), Môi trường an toàn (Uzbekistan), Bếp dã chiến (Uzbekistan), Kỹ năng thành thục (Belarus), Xạ thủ chiến thuật (Kazakhstan) và Kinh tuyến (Kazakhstan).

Thành tích cụ thể của các đội tuyển của QĐND Việt Nam tại Army Games 2022 như sau: Đội tuyển Vùng tai nạn (Huy chương vàng); Đội tuyển Đội quân văn hóa (Huy chương bạc); Đội tuyển Kỹ năng thành thục (đội nam giành Huy chương bạc, đội nữ giành Huy chương đồng); Đội tuyển Tiếp sức quân y (Huy chương đồng); Đội tuyển Môi trường an toàn (Huy chương đồng); Đội tuyển Bếp dã chiến (Huy chương đồng), Đội tuyển Xạ thủ chiến thuật và Đội tuyển Kinh tuyến cùng xếp ở vị trí thứ 4; Đội tuyển Xe tăng lọt vào tới vòng bán kết. Ngoài ra, trong lần đầu tiên tham gia một kỳ Army Games, Đội tuyển Đột phá đặc biệt với thành phần gồm 12 học viên quân sự đang học tập tại LB Nga đã giành Huy chương đồng.

Cũng trong thời gian diễn ra các nội dung thi đấu trong khuôn khổ Army Games 2022, Đoàn đại biểu cấp cao QĐND Việt Nam do Thượng tướng Ngô Minh Tiến, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam làm Trưởng đoàn đã đến LB Nga tham dự Diễn đàn Kỹ thuật-Quân sự quốc tế Army-2022 và Hội nghị an ninh quốc tế Moscow lần thứ 10.

VŨ HÙNG (từ Moscow, LB Nga)

Nguồn: Báo QĐND

77 năm ngoại giao Việt Nam: Tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân

Suốt 77 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu nhưng quật cường của dân tộc và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam không ngừng phát triển toàn diện, vững mạnh, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo và rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao là một mặt trận chiến lược trong hai cuộc kháng chiến và kiến quốc. Với những quyết sách mưu lược và khôn khéo, ngoại giao đã góp phần quan trọng bảo vệ chính quyền cách mạng và nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám. Cùng các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... “vừa đánh, vừa đàm”, “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, mặt trận ngoại giao đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới đối với sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta, tạo nên những thắng lợi làm rạng rỡ lịch sử dân tộc, từ đàm phán, ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 đến Hiệp định Paris năm 1973. Sau khi đất nước thống nhất, ngoại giao là mặt trận tạo lối, mở đường, từng bước phá thế bị bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ với nhiều đối tác, mở ra cục diện mới cho phát triển đất nước.

Trong hơn 35 năm đổi mới, kế thừa và vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, ngoại giao cùng các trụ cột, binh chủng đối ngoại đã đi đầu tạo dựng, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc và nâng cao vị thế quốc gia.

Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng... Với mạng lưới quan hệ đối ngoại rộng mở và ngày càng sâu sắc, môi trường hòa bình, ổn định và độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ngày càng được củng cố vững chắc; đồng thời, mở ra nhiều thị trường xuất nhập khẩu, tranh thủ nhiều nguồn vốn, công nghệ và tri thức bên ngoài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn khó khăn của đại dịch Covid-19, ngoại giao y tế và ngoại giao vaccine đã đóng góp quan trọng vào thực hiện thành công chiến lược vaccine, tạo tiền đề tiên quyết để nước ta chuyển sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, đẩy mạnh phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội và vươn lên sau đại dịch.

Việc nước ta đảm nhận nhiều trọng trách quốc tế như Chủ nhà APEC 2017, Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020-2021, cùng với ứng xử đúng đắn, có lý, có tình tại nhiều diễn đàn đa phương đã khẳng định và nâng cao hình ảnh, uy tín nước Việt Nam độc lập, tự chủ, đổi mới, yêu chuộng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, tin cậy, chân thành và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.

Ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại đã góp phần quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, thành tựu đổi mới và bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài góp phần củng cố đại đoàn kết dân tộc, huy động nhiều nguồn lực của kiều bào cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt bảo hộ công dân ta ở nước ngoài, nhất là khi xảy ra xung đột, chiến tranh, dịch bệnh trên thế giới.

Có được những thành tựu nói trên là nhờ đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước, là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các trụ cột, binh chủng đối ngoại, các ngành, các cấp. Những thành quả đó cũng là kết tinh truyền thống vẻ vang của đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, nỗ lực phấn đấu và cống hiến bền bỉ của các thế hệ cán bộ ngành ngoại giao. Chính sự nghiệp cách mạng của dân tộc đã tôi luyện ngành ngoại giao ngày càng trưởng thành và phát triển, tạo nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh.

Dưới ánh sáng đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, đối ngoại nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, gắn với thực hiện chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Là lực lượng chủ lực trên mặt trận đối ngoại của đất nước, ngành ngoại giao tiếp tục phối hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn với đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội để triển khai đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả các nhiệm vụ đối ngoại. Trong đó, trọng tâm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đi đôi với kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, tranh thủ tối đa các yếu tố quốc tế thuận lợi, “lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ”, không ngừng đổi mới, sáng tạo, tìm cách làm mới, hướng đi mới, lĩnh vực mới để mở rộng thị trường, huy động các nguồn lực bên ngoài cho thực hiện khát vọng, tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước; phát huy vai trò Việt Nam tại các cơ chế đa phương quan trọng để nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.

Trước đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, cần xây dựng ngành ngoại giao trong sạch, vững mạnh, toàn diện, hiện đại. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc tháng 12-2021: “Một nhà ngoại giao, một nhà hoạt động đối ngoại giỏi trước hết phải là một nhà chính trị giỏi”, điều cốt yếu là cần xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao luôn tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, tận tâm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vững vàng, mưu lược, có phong cách chuyên nghiệp, có trình độ đạt tới tầm khu vực và quốc tế. Muốn vậy, cần tăng cường hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngoại giao cả về bản lĩnh chính trị lẫn trình độ, năng lực.

Nhìn lại chặng đường 77 năm qua, các thế hệ cán bộ ngoại giao tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập và để lại cho nền ngoại giao nước ta một di sản tư tưởng ngoại giao đặc sắc và vô giá. Học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao của Người và phát huy truyền thống vẻ vang của ngoại giao cách mạng Việt Nam, toàn ngành ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm xây dựng ngành ngoại giao Việt Nam trong sạch, vững mạnh, toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

BÙI THANH SƠN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2022

Việt Nam phản đối tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) sử dụng bản đồ có "đường lưỡi bò" của Trung Quốc

Chiều 25/8, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, thông tin về trang facebook của tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) sử dụng bản đồ của Trung Quốc với "đường lưỡi bò" được nêu ra.

Nêu quan điểm về vấn đề này, bà Lê Thị Thu Hằng - Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam - nhấn mạnh: "Việt Nam đã nhiều lần bác bỏ cái gọi là đường chín đoạn cũng như các yêu sách biển trái với các công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982".

Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng 

Việt Nam cho rằng, mọi hình thức tuyên truyền, quảng bá, đăng tải nội dung, hình ảnh xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam đối với các vùng biển liên quan ở Biển Đông đã được xác lập phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 là vô giá trị.

"Việt Nam yêu cầu các quốc gia, các tổ chức tôn trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các vùng biển liên quan ở Biển Đông; gỡ bỏ, sửa đổi nội dung không phù hợp" - Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nêu rõ.

Theo bà Hằng, đại diện phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Giơnevơ đã trao đổi với đại diện Tổ chức khí tượng thế giới về việc này.

WMO là một cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc có trụ sở tại Thụy Sĩ. Ngày 23/8, WMO đăng bài trên facebook chính thức về tình hình khí hậu, hạn hán ở Trung Quốc, trong đó sử dụng bản đồ "đường lưỡi bò", bao gồm quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa của Việt Nam. Bên dưới bài đăng này, hàng trăm bình luận của cộng đồng mạng Việt Nam nêu ý kiến phản đối việc WMO sử dụng bản đồ này và yêu cầu gỡ bỏ.

Hình ảnh bản đồ có "đường lưỡi bò" xuất hiện trên trang web của Tổ chức Khí tượng thủy văn thế giới.

"Đường lưỡi bò" hay còn gọi "đường chín đoạn" là yêu sách mà Trung Quốc đơn phương đưa ra, chạy sát bờ biển của các nước có chung Biển Đông, có đoạn chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 50-100 km; chạy sát bãi James Shoal của Malaysia và đảo Natuna của Indonesia, đảo Luzon thuộc quần đảo Philippines và chiếm đến 80% diện tích Biển Đông. Ban đầu "đường lưỡi bò" gồm 11 đoạn, đến năm 1953 đã được điều chỉnh thành 9 đoạn, bỏ 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ.

Năm 2009, Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc phản đối việc Việt Nam và Malaysia nộp báo cáo chung về ranh giới ngoài thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, Trung Quốc đã gửi kèm một bản đồ thể hiện yêu sách "đường lưỡi bò" trên Biển Đông.

Công hàm này là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về yêu sách "đường lưỡi bò" và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố bản đồ "đường lưỡi bò" với toàn thế giới.

Yêu sách "đường lưỡi bò" phi pháp của Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối gay gắt của Việt Nam và các quốc gia, tổ chức quốc tế. Yêu sách này bị bác bỏ vì hoàn toàn không có cơ sở lịch sử, pháp lý và thực tiễn.

Năm 2016, tòa thường trực quốc tế ở Hà Lan đã ra phán quyết bác bỏ yêu sách "đường lưỡi bò" của Trung Quốc ở Biển Đông, trong khi Bắc Kinh ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết diện tích vùng biển này.

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2022

Kỷ luật tự giác là sức mạnh của Đảng

Kỷ luật của Đảng là kỷ luật dựa trên tình đồng chí, kỷ luật của những người cùng chung một lý tưởng, tự nguyện đứng trong hàng ngũ Đảng, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc. Mọi đảng viên và tổ chức đảng liên kết với nhau theo một kỷ luật chung dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, sự thống nhất chặt chẽ về chính trị, tư tưởng và tổ chức, được thể hiện tập trung trong các điều khoản của Điều lệ Đảng.

Toàn Đảng tập trung sự thống nhất để phát huy dân chủ, phát huy tính tích cực và sáng tạo của toàn thể đảng viên và các tổ chức đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật.

Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác phải mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng. Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại bản Di chúc lịch sử và dành những lời căn dặn đầu tiên cho Đảng: “Trước hết nói về Đảng... Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Rõ người, rõ trách nhiệm là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng ta. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có thực hiện nghiêm và đầy đủ những nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta mới tạo nên sức mạnh của Đảng, tạo nên khối đoàn kết thống nhất và củng cố niềm tin của Nhân dân đối Đảng.

Một số nội dung chống phá trong tâm của các thế lực thù địch

Vấn đề chính trị tư tưởng luôn là nội dung quan trọng trong nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội ta. Chính vì vậy mà trong âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch vấn đề tư tưởng, chính trị luôn là một trong những nội dung mũi nhọn mà chúng hướng tới. Do đó trong việc chống các biểu hiện “ Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” chúng ta cần nhận thức rõ các nội dung mà các thế lực thù địch tập trung chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.   

Thứ nhất, các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng hòng làm thay đổi bản chất chính trị của Đảng ta mục đích là làm thay đổi bản chất chính trị của Đảng ta. Thủ đoạn chủ yếu của chúng là xuyên tạc phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đặc biệt là các chủ trương đường lối của Đảng sau mỗi Đại hội hay hội nghị. Chúng triệt để lợi dụng việc chúng ta đang tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế để đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH để lấy đó làm các lí do nhằm tác động vào đội ngũ cán bộ, đảng viên. Qua đó thúc đẩy quá trình “ Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” làm cán bộ, đảng viên mơ hồ mục tiêu lý tưởng. Từ đó các thế lực thù địch đẩy nước ta lâm vào tình cảnh rối ren, mất ổn định chính trị- xã hội đi chệch hướng mục tiêu CNXH.

Thứ hai, các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” luôn là những chủ đề nóng được các thế lực thù địch lấy đó làm cơ sở cho các hoạt động chống phá của mình. Thủ đoạn của chúng là thông qua các báo cáo trong các hội nghị ở nước ngoài; thông qua phát tán các tài liệu, sách báo trên các phương tiện thông tin truyền thống và cả trên mạng internet để đưa các luận điệu xuyên tạc, chống phá. Chúng cũng luôn tìm mọi cách đào xới, bới móc trong việc tổ chức thực hiện các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về các vấn đề bức xúc trong xã hội để kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân nói chung và đội ngũ quân nhân nói riêng tham gia, can dự vào các vấn đề đó. Từ đó làm cho quân đội mất cảnh giác, mất phương hướng chính trị và làm suy giảm khả năng sẵn sàng chiến đấu.

Thứ ba, trước điều kiện và xu thế phát triển kinh tế của thế giới đòi hỏi mỗi quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cần có một đường lối hội nhập đúng đắn. Đó là xu thế tất yếu của thời đại. Nhưng đây cũng chính là một nội dung mà kẻ thù luôn lợi dụng đưa “bàn tay nhem nhuốc” của mình để “ nhào nặn” lại các chủ trương của Đảng. Chúng luôn lặp đi lặp lại một thứ luận điệu đã trở nên “nhàm chán” đó là “ kinh tế thị trường là sản phẩm của Chủ nghĩa Tư bản”; “ không thể dung hợp kinh tế thị trường với CNXH”… Chúng tìm đủ mọi cách để đưa thứ những tư tưởng “rẻ tiền” vào trong môi trường quân đội để đội ngũ quân nhân có nhận thức sai lệch về các đường lối của Đảng, Nhà nước. Từ đó thúc đẩy nhanh quá trình “ Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa”.

Thứ tư, các thế lực thù địch- những kẻ được Chúa trời của mình ban cho một khả năng thổi phồng thiên phú, chúng không từ bỏ hay bỏ xót một vấn đề gì trong xã hội để làm “cái bàn đạp” xuyên tạc và bóp méo. Vì vậy mà những vấn đề tham ô, tham nhũng sẽ luôn là những “quả bóng bay” để chúng tha hồ “bơm” và “thổi”. Chúng cho đó là tình trạng phổ biến, là bản chất của chế độ XHCN nhằm vẽ nên một bức tranh với những gam màu u tối về xã hội Việt Nam, ma chúng lại quên mất rẳng những “quả bóng bay” đó lại là một phần không thể thiếu trong xã hội mà chúng muốn xây dựng.

Quả là một điều nực cười và phi lý cho những kẻ mà tôi gọi là “thiên phú” ở trên, chúng đang đánh đổi một xã hội ổn định để lấy một xã hội đầy rẫy những điều bất ổn. Phải chăng những quan điểm, tư tưởng trên chỉ là những quan điểm phiến diện, lệch lạc; quan điểm của những kẻ đội lốt “ có trách nhiệm” với “vận mệnh” của quốc gia để chống lại công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Đấu tranh bác bỏ quan điểm cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay không còn phù hợp với Việt Nam”

Sau khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ cho đến nay. Các thế lực thù địch đã và đang điên cuồng chống phá các nước XHCN còn lại mà trực tiếp là chúng chống phá vào Học thuyết Mác-Lênin, chúng cho rằng: "Học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học"; “Chủ nghĩa Mác-Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù họp với Việt Nam”...

Nhưng, sự thật có phải như các thế lực thù địch chống chủ nghĩa Mác-Lênin tuyên truyền?

Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những nhà khoa học - những nhà cách mạng. Lý tưởng mà các ông theo đuổi là khát vọng của nhân loại tiến bộ - con người được giải phóng hoàn toàn khỏi mọi ách áp bức bóc lột, được ấm no, tự do, hạnh phúc. Lý luận của các ông chỉ giúp loài người lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới xã hội không còn người bóc lột người, với những lực lượng tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn và phải quyết định.

Sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và Việt Nam.

V.I.Lênin chỉ rõ: "Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác." ,"...nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ  với tinh thần cách mạng...". Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chủ nghĩa Lê-nin... không những là cái "cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản".

CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) sụp đổ không phải vì tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin không còn tính thời đại, mà là sự phá sản của một đường lối sai lầm, chẳng những sa vào quan liêu hóa, giáo điều, chủ quan, duy ý chí bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lênin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược "diễn biến hòa bình" mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng. Kẻ thù của các đảng cộng sản đã lợi dụng triệt để những sai lầm trong đường lối, những khiếm khuyết không được khắc phục kịp thời trong lãnh đạo và điều hành đất nước của các đảng ở các nước đó... để mua chuộc, kích động và cổ vũ những phần tử cơ hội bên trong, khuyến khích những hành động phản cách mạng bên ngoài. Nhưng các thế lực thù địch lại đổ tội tất cả điều đó chủ nghĩa Mác-Lênin.

V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng, thì không thể có phong trào cách mạng”; “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong soi đường thì mới làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Phát huy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, các tầng lớp Nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân xâm lược hơn nửa thế kỷ, nhưng đã không thành công. Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cũng lần lượt thất bại. Đất nước như không có đường ra.

Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, với tên anh Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm (1911-1920) bôn ba khắp các châu lục vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức”. Tiếp đến Người phải qua 10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tói sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930). Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý luận, trong tác phẩm Đường Kách mệnh xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi tiếng của Lênin trong tác phẩm “Làm gì?” và Người đặt câu hỏi: "Cách mệnh, trước hết phải có cái gì?”. Và Người trả lời rõ ràng: “Trước hết cần có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu; ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Trong bài nói chuyện với lớp bồi dưỡng đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác-Lênin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thòi phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”.

Thắng lợi của Nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ rằng, học thuyết của V.I. Lênin về cách mạng XHCN trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện nay.

Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu của gần 30 năm đổi mới mà Việt Nam đã đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin trong thới kỳ quá độ lên CNXH.

Như vậy, với NEP, V.I.Lênin đã khẳng định rằng, đi lên CNXH không phải là xóa bỏ kinh tế thị trường, mà phải sử dụng kinh tế thị trường; nhưng không phải là thị trường tự do cạnh tranh TBCN, mà có sự điều tiết của nhà nước; không phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc tôn, mà là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu V.V..

Sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, cụ thể là NEP của Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ nét trong quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Hiện nay chúng ta đã và đang thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế: chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình., độc lập dân tộc, phát triển bình đẳng, tiến bộ của các quốc gia dân tộc, nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Xét về bản chất đó chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta quan điểm của V.I. Lênin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối cảnh trong nước và quốc tế mới hiện nay.

Như vậy, với những phân tích trên đây làm sao có thế nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là “xa lạ”, là “không phù hợp” với Việt Nam được.

Lan tỏa quyết tâm phát triển công nghiệp văn hóa

Hà Nội là địa phương đầu tiên có nghị quyết về công nghiệp văn hóa. Điều đó cho thấy quyết tâm của thành phố trong việc biến những giá trị văn hóa truyền thống và các tiềm năng về cảnh quan, con người thành nguồn lực mềm, đóng góp cho sự phát triển bền vững của Thủ đô trong giai đoạn tới; đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Tinh thần quyết tâm ấy từ thành phố đã lan tỏa tới các cấp, ngành, địa phương cơ sở, tạo nên một không khí sôi nổi.

Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 22-2-2022 của Thành ủy về “Phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” ngay sau khi ban hành đã tạo nên một hiệu ứng tích cực, lan tỏa trong nhiều địa phương, doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân.

Đến nay, sau nửa năm ban hành, khái niệm về “công nghiệp văn hóa” đã trở nên quen thuộc với nhiều đơn vị, tổ chức, cá nhân. Tiềm năng, thế mạnh cũng đã được các địa phương nhận diện và cụ thể hóa bằng các chương trình, kế hoạch cụ thể.

Là quận lõi trung tâm của thành phố, với nhiều di tích, danh lam thắng cảnh, quận Hoàn Kiếm đã xác định tái thiết đô thị và phát triển không gian văn hóa sáng tạo để phát triển du lịch và góp phần phát triển công nghiệp hóa trên địa bàn.

Theo Bí thư Quận ủy Hoàn Kiếm Nguyễn Đăng Định, trong 12 lĩnh vực được Chính phủ xác định để phát triển công nghiệp văn hóa, lĩnh vực “Kiến trúc” đã được quận Hoàn Kiếm đặc biệt quan tâm và đầu tư mạnh mẽ.

“Chúng tôi cho rằng “tái thiết đô thị” là điểm tựa cho văn hóa và công nghiệp sáng tạo, kích thích du lịch, tạo danh tiếng mới cho đô thị; góp phần tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền công nghiệp văn hóa của Thủ đô nói chung và quận Hoàn Kiếm nói riêng”, ông Nguyễn Đăng Định cho biết.

Bí thư quận Hoàn Kiếm cũng cho biết thêm, để phát huy tiềm năng, thế mạnh của quận với lợi thế của các không gian kiến trúc, giá trị văn hóa khu phố cổ, khu phố cũ, khu vực hồ Hoàn Kiếm và vùng phụ cận, quận đã chủ động xây dựng nhiều chương trình, đề án, kế hoạch để triển khai và tổ chức thực hiện; tập trung đầu tư nguồn lực cho các dự án cải tạo, chỉnh trang hạ tầng đô thị; xây dựng các không gian văn hóa; tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa… Nhờ đó, diện mạo đô thị quận ngày càng khang trang, sạch đẹp, là sự kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.

Cùng với việc tái thiết đô thị, Hoàn Kiếm cũng là quận đầu tiên của Thủ đô và cả nước triển khai các không gian đi bộ trên địa bàn, tạo điểm nhấn du lịch cho khu vực trung tâm Hà Nội, đồng thời tạo không gian vui chơi, tổ chức sự kiện cho cộng đồng dân cư giao lưu giữa du khách trong và ngoài nước. Các không gian đi bộ trong thời gian qua tại quận Hoàn Kiếm đã thực sự làm gia tăng cơ hội phát triển thương mại và du lịch, kinh tế dân sinh và tăng thu ngân sách, có thêm nguồn lực để quận đầu tư phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát huy giá trị di sản văn hóa trong quá trình phát triển đô thị, Thị xã Sơn Tây đã có nhiều nỗ lực để góp phần lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa, đồng thời từng bước khai thác hiệu quả phương diện kinh tế của di sản, đóng góp tích cực vào phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn.

Đặc biệt, thị xã đã chú trọng đến việc xây dựng các tour, tuyến tham quan tại các di tích nổi tiếng của thị xã như: Thành cổ - đền Và - Làng cổ ở Đường Lâm - chùa Khai Nguyên - đền Măng - Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam - khu du lịch Đồng Mô gắn với các nhà hàng kinh doanh dịch vụ ăn uống, nghỉ dưỡng; kết nối với các khu du lịch thuộc huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất và tỉnh Vĩnh Phúc. Qua đó, đã thu hút lượng lớn khách du lịch đến địa bàn.

Năm 2022, Thị xã Sơn Tây đã tổ chức khai mạc “Năm du lịch Sơn Tây - Xứ Đoài” và khai trương phố đi bộ Thành cổ Sơn Tây. Sau gần 3 tháng triển khai, hoạt động của Tuyến phố đi bộ đã từng bước phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng xây dựng không gian sáng tạo, trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng của các huyện, thị xã xứ Đoài xưa.

Trong khi đó, huyện Gia Lâm lại chú trọng phát triển du lịch văn hóa, du lịch làng nghề truyền thống, du lịch sinh thái và trải nghiệm nông nghiệp. Huyện xác định xây dựng 3 vùng du lịch trọng điểm, xây dựng các tour du lịch gắn với các di tích lịch sử, di tích văn hóa, di tích cách mạng kháng chiến; tham quan các làng nghề truyền thống (Gốm Bát Tràng, Kim Lan; dát vàng quỳ Kiêu Kỵ; thuốc Nam, thuốc Bắc Ninh Hiệp…). Để làm được điều này, Bí thư Huyện ủy Gia Lâm Lê Anh Quân cho biết, huyện sẽ tiếp tục triển khai tu bổ tôn tạo 38 di tích lịch sử văn hóa bị xuống cấp trên nguyên tắc, thứ tự ưu tiên, triển khai 42 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng văn hóa với kinh phí gần 1.200 tỷ đồng.

Để tạo tiền đề, nền tảng cho phát triển công nghiệp văn hóa, huyện Đan Phượng đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tập trung phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh phát triển các vườn trại, trang trại nông nghiệp như: rau sạch, nho hạ đen, lan hồ điệp, “con đường bích họa”, “tuyến đê kiểu mẫu”; thôn, tổ dân phố “Sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn”.

Đồng thời, tập trung lưu giữ và phát huy giá trị của các công trình văn hóa, chú trọng tu bổ, tôn tạo 53 di tích (với tổng mức kinh phí đầu tư gần 300 tỷ đồng). Các di vật, cổ vật, tư liệu lịch sử được lập hồ sơ khoa học. Các dữ liệu về di tích được số hóa làm chất liệu kết nối, chia sẻ, quảng bá thông tin rộng rãi tới các tổ chức, cá nhân, tạo sức hấp dẫn để khách du lịch đến với Đan Phượng tìm hiểu những giá trị văn hóa. Đây là những điểm đến thu hút du khách đến với Đan Phượng gắn kết giữa xây dựng nông thôn mới với phát triển công nghiệp văn hóa.

Lãnh đạo huyện Đan Phượng cho biết: Huyện xác định công nghiệp văn hóa sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, phấn đấu đến năm 2025 ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 5%, đến năm 2030 đóng góp khoảng 10% vào giá trị sản xuất trên địa bàn và đến năm 2045 ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Từ nhận thức tới hành động phát huy tiềm năng thế mạnh tuy đã được các địa phương của Hà Nội triển khai với quyết tâm cao. Dù còn nhiều khó khăn, thách thức trong thời gian tới nhưng với sự quyết tâm, quyết liệt của các cấp, ngành, địa phương, Hà Nội sẽ tạo bước phát triển toàn diện ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô cả về quy mô, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và thị trường, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ, tỷ trọng, giá trị gia tăng cao… như Nghị quyết 09-NQ/TU của Thành ủy Hà Nội đã đề ra.

Nguồn: Báo QĐND

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp đoàn đại biểu Ban Thanh niên Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản

Chiều 24-8, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tiếp đoàn đại biểu Ban Thanh niên Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP) do Hạ nghị sĩ Norikazu Suzuki và Thượng nghị sĩ Kei Sato, Quyền Trưởng ban Thanh niên Đảng LDP làm trưởng đoàn, thăm làm việc tại Việt Nam.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chúc mừng Đảng LDP giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Thượng viện vừa qua, thể hiện người dân Nhật Bản dành sự tín nhiệm cao đối với Đảng LDP, đưa Nhật Bản tiếp tục đạt nhiều thành tựu mới. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc một lần nữa chia buồn sâu sắc với Đảng LDP và nhân dân Nhật Bản về sự ra đi của cựu Thủ tướng Abe Shinzo, một người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam, người có nhiều đóng góp to lớn thúc đẩy quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp đoàn đại biểu Ban Thanh niên Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản

Trân trọng cảm ơn Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dành thời gian tiếp, Hạ nghị sĩ Norikazu Suzuki cho biết chuyến thăm này đã nhận được sự đón tiếp nồng hậu từ phía các cơ quan chức năng của Việt Nam. Với việc từng là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản trong Chính phủ của Thủ tướng Abe Shinzo trước đây, Hạ nghị sĩ Norikazu Suzuki cho biết đã chứng kiến tình cảm thân thiết, gắn bó giữa Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và cựu Thủ tướng Abe Shinzo cũng như những đóng góp của hai nhà lãnh đạo trong phát triển mạnh mẽ quan hệ hai nước thời gian qua. Do đó thời gian tới, Hạ nghị sĩ Norikazu Suzuki và các nghị sĩ sẽ tiếp nối phát huy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước; đồng thời mong muốn tham gia tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa, thiết thực trong dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 2023. 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao các nghị sĩ trẻ Đảng LDP đã có những hiểu biết sâu sắc về quan hệ truyền thống, tình cảm tốt đẹp giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Nhật Bản; cho rằng đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục vun đắp mối quan hệ hai nước phát triển lâu dài, bền vững. Thời gian tới, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Ban Thanh niên Đảng LDP thúc đẩy hợp tác Việt Nam-Nhật Bản. Vào dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2023, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc mong muốn đón Nhà vua, Hoàng hậu và lãnh đạo cấp cao Nhật Bản thăm Việt Nam; đề nghị cơ quan chức năng hai nước tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm xứng tầm và tạo dấu ấn cho quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng; đề nghị các nghị sĩ, đại biểu hội đồng nhân dân địa phương hai nước tiếp tục thúc đẩy các hoạt động giao lưu nhân dân cả về văn hóa, du lịch. Nhân dịp này, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Nhật Bản hỗ trợ, hợp tác với Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, thúc đẩy hợp tác phục hồi kinh tế sau đại dịch, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, ODA thế hệ mới, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; phối hợp chặt chẽ thúc đẩy Nhật Bản sớm trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam thông qua triển khai hiệu quả Sáng kiến đầu tư tương lai châu Á, tư vấn, khuyến khích, vận động doanh nghiệp Nhật Bản chuyển dịch đầu tư, đa dạng hóa chuỗi cung ứng sang Việt Nam.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

Bộ mặt thật của kẻ lưu vong

 Xuất hiện trên trang mạng Doithoaionline.com, Mạc Văn Trang có bài viết: “Gương mặt chủ nghĩa xã hội của Việt Nam?”. Nội dung bài viết cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội biến dạng khiến công nhân bị bóc lột, đời sống thiếu thốn, nông dân khốn khổ trăm bề…”. Đây là luận điệu phi lý, không có cơ sở khoa học và thực tiễn, cần nhận diện, đấu tranh, phản bác.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chế độ xã hội ưu việt, vì nhân dân. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định sự nhất quán, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đem lại tự do hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đập tan ách thống trị của thực dân, đế quốc, đưa dân tộc Việt nam bước sang kỷ nguyên mới: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh được tăng cường, môi trường hòa bình ổn định, văn hóa - xã hội phát triển vượt bậc, an sinh xã hội được cải thiện. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Sức mạnh mọi mặt của đất nước được nâng lên, quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Từ những vấn đề trên cho thấy Mạc Văn Trang là kẻ có dã tâm thâm độc, cố tình xuyên tạc sự thật. Chúng ta cần hết sức cảnh giác, cần tỉnh táo, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những âm mưu, thủ đoạn phản động đó.

Việt Nam luôn luôn tích cực, chủ động nỗ lực phòng, chống mua bán người

Vẫn như hằng năm, Hoa Kỳ tự xem mình là “chuẩn mực về nhân quyền” tự cho mình quyền đưa ra các phán xét về chính trị, kinh tế-xã hội các quốc gia, đặc biệt là chủ đề nhân quyền.

Báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người trên thế giới của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (viết tắt là Báo cáo) đã xuất hiện những thông tin, những nhận định không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình và nỗ lực của Việt Nam trong công tác phòng, chống mua bán người. Đó là các thông tin, nhận định liên quan tới tình hình lao động cưỡng bức đối với trẻ em, các vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em, việc người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài...

Trước hết xin được khẳng định rằng: Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi ngược đãi, mua bán người, bắt người làm nô lệ. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ: Từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 đến 2013 đều có các quy định về quyền công dân và quyền con người được Nhà nước bảo hộ. Hiến pháp năm 2013 đã giành cả Chương II để quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Trong đó có quy định rõ việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm quyền công dân như: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 20). Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu (Điều 35). Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (Điều 37).

Để có căn cứ pháp lý cụ thể nhằm ngăn chặn, xử lý hành vi mua bán người, Việt Nam đã có Luật Phòng, chống mua bán người. Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người quy định “Các hành vi bị nghiêm cấm” bao gồm: Mua bán người; chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; môi giới để người khác thực hiện mua bán người; cản trở việc tố giác, khai báo và xử lý hành vi mua bán người; kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân...

Điều 4 về nguyên tắc phòng, chống mua bán người của Luật Phòng, chống mua bán người quy định rõ: Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi mua bán người. Giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân kịp thời, chính xác. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với nạn nhân. Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác hành vi mua bán người...

Nhà nước ta đã xây dựng và triển khai nhiều chính sách phòng, chống mua bán người. Công tác phòng, chống mua bán người là nội dung của chương trình phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và được kết hợp với việc thực hiện các chương trình khác về phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân; khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật.

Nhà nước khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm chế độ, chính sách đối với người tham gia phòng, chống mua bán người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản theo quy định của pháp luật. Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người.

Trên bình diện quốc tế, Việt Nam là thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người; tham gia Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng, chống và trừng trị việc mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Cùng với đó, Việt Nam tiếp tục triển khai có hiệu quả các hiệp định hợp tác với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới về phòng, chống mua bán người; tiếp tục nỗ lực triển khai thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế.

Triển khai Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, thời gian qua, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống mua bán người với sự vào cuộc và tập trung cao độ của tất cả các bộ, ngành và địa phương. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), các văn bản chính sách, pháp luật về phòng ngừa mua bán người, lao động cưỡng bức, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng đã được ban hành. Ngày 18-7 vừa qua, các bộ: Lao động-Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán.

Lực lượng chức năng của Việt Nam và các nước, nhất là các nước láng giềng thường xuyên phối hợp tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người. Trong 6 tháng đầu năm 2022, khắc phục những khó khăn do đại dịch Covid-19, các lực lượng chức năng của Việt Nam đã phát hiện, điều tra, khám phá 33 vụ, với 75 đối tượng phạm tội mua bán người và các tội phạm có liên quan đến mua bán người; đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát nhân dân đề nghị truy tố 17 vụ; 66 nạn nhân từ các vụ mua bán đã được tiếp nhận, xác minh, giải cứu, hỗ trợ...

Nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ về phòng, chống mua bán người, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng. Hàng trăm cán bộ của Việt Nam đã được bố trí tham gia các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn chuyên đề, chuyên sâu về pháp luật và nghiệp vụ công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm mua bán người và bảo vệ nạn nhân bị mua bán...

Trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có những thông tin, đánh giá không chính xác về việc xuất khẩu lao động của Việt Nam. Có thể thấy rằng, pháp luật, chính sách của Nhà nước ta đã quan tâm, hỗ trợ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) đã xóa bỏ các khoản phí môi giới và mở rộng phạm vi bảo vệ đối với người lao động. Cùng với đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết; tiền ăn trong thời gian thực tế học; chi phí đi lại; hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, visa, khám sức khỏe... Hỗ trợ chi phí đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề (Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9-7-2015). Đối với người lao động thuộc hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người lao động là người dân tộc thiểu số nếu có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài thì được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Còn người lao động thuộc hộ cận nghèo, người lao động là thân nhân của người có công với cách mạng được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Quỹ Quốc gia về việc làm với mức vay tối đa là 100%.

Không phủ nhận rằng, Việt Nam vẫn đang trong tình trạng thiếu việc làm. Xuất phát từ nhu cầu nôn nóng muốn đi tìm việc ở nước ngoài mà có những người dân đã mắc lừa các tổ chức, cá nhân làm ăn phi pháp. Thời gian qua, Nhà nước ta đã xử lý rất nghiêm các hành vi vi phạm luật liên quan đến việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, ngay trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã viết: “Trong năm 2020, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã thanh tra 84 doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, xử phạt 32 doanh nghiệp do vi phạm hành chính, rút giấy phép kinh doanh do vi phạm luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.

Từ những dẫn chứng nêu trên, có thể thấy rằng không ai có thể phủ nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam và những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống mua bán người tại Việt Nam. Trong những năm qua, quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ đã phát triển vượt bậc, trở thành quan hệ đối tác toàn diện, mang lại những hiệu quả thực chất. Thiết nghĩ đã đến lúc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nên chấm dứt đưa ra những báo cáo về vấn đề nhân quyền không đúng sự thật, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có Việt Nam mà nên làm những việc có ích để tiếp tục phát triển quan hệ với các quốc gia, đóng góp tích cực vào hòa bình và phát triển của nhân loại.

TS CAO ĐỨC THÁI, Giảng viên cao cấp Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn: Báo QĐND

Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới

Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc.

Đảng ta xác định: Bảo vệ chính trị nội bộ chính là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, bảo đảm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Bảo vệ chính trị nội bộ luôn là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cần kíp, cấp bách hiện nay, bởi vì: (1) Bảo vệ chính trị nội bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là mỗi khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta đều đề ra chủ trương, biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ cho phù hợp với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà nước và thành quả cách mạng; phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. (2) Thực hiện nghiêm chế độ, thủ tục, quy định, quy chế quản lý cán bộ, đảng viên trong nội bộ, giữ gìn kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nội bộ của Đảng. Đảng ta coi đây là khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc tổ chức triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. (3) Nghiên cứu, phát hiện và xử lý kịp thời những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, những đối tượng bị các tổ chức phản động móc nối, lôi kéo, mua chuộc cài cắm vào nội bộ ta. Không để sơ hở, lộ lọt, mất thông tin, bí mật quốc gia để các thế lực thù địch lợi dụng viết bài, tung tin xấu, độc, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. (4) Mấu chốt của bảo vệ chính trị nội bộ là nắm chắc tình hình chính trị nội bộ của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và tổ chức đảng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề vướng mắc, thực hiện tốt chủ trương lấy phòng ngừa, chủ động giữ vững bên trong là chính.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là “làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”. Đồng thời, xác định “tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng nắm vấn đề chính trị hiện nay. Chủ động đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, nhất là các thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, những cán bộ, đảng viên, những người lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng, internet, mạng xã hội để xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ”.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI xác định: Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; các biện pháp bảo vệ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động của Đảng, Nhà nước và quân đội. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, cài cắm, móc nối, phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội ta tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.

Phương châm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là chủ động phòng ngừa là chính, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm những vi phạm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; thận trọng đánh giá, khách quan khi giải quyết các vấn đề chính trị nội bộ. Trong xem xét lịch sử chính trị với những vấn đề chính trị hiện nay, thì xem xét vấn đề chính trị hiện nay là chính; giữa bản thân với quan hệ gia đình thì bản thân là chính; giữa quản lý đầu vào với xử lý đầu ra thì quản lý đầu vào là chính; giữa xử lý với sử dụng thì sử dụng là chính. Qua đó, giải đáp được các câu hỏi: Hiện tại người cán bộ, đảng viên như thế nào, có đủ tiêu chí, tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ, có đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới hay không?.

Trong thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương, Quân ủy Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nắm chắc tình hình, rà soát, thẩm tra vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay nên công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đề bạt cán bộ, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác nhân sự. Kết quả nổi bật của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là đã góp phần quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội cũng như củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội; cán bộ, chiến sĩ quân đội cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ vẫn còn những hạn chế nhất định cần phải tiếp tục giải quyết tốt hơn, nhất là khắc phục sự bị động, lúng túng trong rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị của các đối tượng; nắm và quản lý tình hình chính trị nội bộ sâu sát, kịp thời hơn. Thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân cần nghiêm túc hơn, không để xảy ra sơ hở, mất cảnh giác, kể cả ở cơ quan, đơn vị, vị trí trọng yếu, cơ mật. Cùng với đó, phải phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên, chặt chẽ hơn.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là tác động, ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Vì vậy, cần nghiên cứu, thực hiện các yêu cầu để góp phần: (1) Hạn chế đến mức thấp nhất những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình thế giới, khu vực đến tâm lý, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và một số tác động tiêu cực đến tình hình chính trị nội bộ. (2) Giải quyết kịp thời những vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ. (3) Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vi phạm các tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố và nâng cao uy tín; xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp, biện pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, hiểu biết về vị trí, vai trò, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba là, chấp hành nghiêm và thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ, nhất là các quy định về bảo mật, không để lộ, lọt, mất thông tin; không viết bài, đưa tin, phát ngôn sai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội và trong quân đội; thực hiện nghiêm Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28-2-2018 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về quy định những điều đảng viên không được làm. Thực hiện tốt các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm không bỏ sót những người có năng lực, trình độ trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt công tác nắm tình hình, rà soát chính trị nội bộ. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt hơn nữa việc kê khai bổ sung lý lịch đảng viên, kiểm tra thẻ đảng, hộ chiếu, các giấy tờ liên quan đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; kê khai các hoạt động đi ra nước ngoài, quan hệ với nước ngoài của cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện vi phạm và uốn nắn.

Năm là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bố trí cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh ở các cấp. Chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, đảng viên được bổ nhiệm, đề bạt, cử đi học, ra nước ngoài. Đồng thời, xem xét kỹ lưỡng về mặt chính trị, nhất là việc nhận xét, đánh giá bảo đảm của cơ quan bảo vệ an ninh theo phân cấp.

Bảo vệ chính trị nội bộ là nội dung hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Với sự quyết tâm cao, công tác bảo vệ chính trị nội bộ sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN BÁ DƯƠNG

Nguồn: Báo QĐND

Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất?-Bài 3: Những lỗ kim đủ cho voi chui lọt

Đại án ở ngành y tế, ngoại giao chưa dừng lại; sai phạm trong quản lý đất đai, quản lý tài sản công xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước, điển hình là Bình Dương, Bình Thuận, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... đã dấy lên vấn đề: Lỗi do phẩm chất cán bộ hay do cơ chế, chính sách, luật pháp? Có thể thấy, khi cán bộ thoái hóa về phẩm chất đạo đức, lại chủ ý lợi dụng sự chưa hoàn thiện của cơ chế, kẽ hở của chính sách, pháp luật để trục lợi thì con đường từ đỉnh cao quyền lực đến "xộ khám" là tất yếu. Trong tiến trình xây dựng luật pháp và chính sách, Đảng, Nhà nước đang quyết tâm để hoàn thiện các hệ thống này.

Từ kẽ hở luật pháp về đất đai...

Trong số hàng loạt cán bộ vướng vào vòng lao lý thì số có liên quan đến sai phạm trong lĩnh vực đất đai không nhỏ. Thực tế cho thấy, khoảng 70% các vụ khiếu kiện hiện nay liên quan đến đất đai, nhiều vụ có tính chất phức tạp, kéo dài. Trong số những đơn thư khiếu kiện mà chúng tôi có điều kiện tiếp cận, phần lớn có nội dung không đồng thuận trong thu hồi, đền bù, áp giá đất giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp với người bị thu hồi đất.

Luật Đất đai năm 1987 ra đời đã đóng vai trò quan trọng, thực hiện được sứ mệnh tạo ra khung khổ pháp lý hoàn thiện hơn trong lĩnh vực đất đai. Cho đến Luật Đất đai năm 2013, qua gần 9 năm thực hiện, luật đã giải quyết được nhiều tồn tại phát sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực tiễn thay đổi nhanh chóng, Luật Đất đai năm 2013 đã dần bộc lộ một số bất cập, trong đó có những kẽ hở, gây ra nhiều hệ lụy xã hội. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em, đồng chí cũng vì đất”.

Hàng loạt đại án liên quan đến đất đai ở các địa phương cho thấy lĩnh vực này đã phát hiện nhiều sai phạm, phổ biến nhất là sai phạm trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi, đền bù đất, định giá đất, đấu giá đất dẫn đến tình trạng trục lợi về đất rất lớn. Giá đất được xác định trong các trường hợp này thường thấp hơn nhiều so với giá đất trên thị trường, một mặt gây bức xúc dư luận, mặt khác đã để những kẻ cơ hội trục lợi. Các chuyên gia cho rằng, luật pháp hiện hành đang giao cho UBND cấp tỉnh, thành phố quá nhiều quyền, trong đó có quyền quyết định giá đất. Nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng điều này để thâu tóm, trục lợi đất. Thế mới có chuyện, có nơi người dân bị thu hồi đất được đền bù số tiền ít ỏi nhưng lại phải bỏ ra số tiền gấp nhiều lần số tiền được đền bù trả cho doanh nghiệp để mua lại một phần diện tích đất của mình bị thu hồi trước đó. Tất nhiên, diện tích đất ấy đã được chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất ở, đất thương mại.

Một kẽ hở khác trong luật pháp về đất đai, đó là các chế tài chưa bảo đảm cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch. Vụ việc điển hình gần đây là việc đấu giá 4 lô đất ở Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh) đã cho thấy sự nguy hiểm trong lĩnh vực này. Dư luận đi từ ngỡ ngàng đến bàng hoàng khi mức trúng đấu giá của một công ty con thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh lên tới 2,4 tỷ đồng/m2. Ngay sau đó, thị trường giá đất trên cả nước như "diễn xiếc", đẩy lên cao ngất ngưởng. Nhưng trớ trêu là, cuối cùng, cả 4 đơn vị trúng đấu giá này đều bỏ cọc và không nộp tiền sử dụng đất. Dư luận té ngửa khi biết rằng, luật pháp về vấn đề này chưa chặt chẽ. Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc từng phát biểu: “Có những trường hợp, vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nhưng vẫn phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động tiền, rồi lấy tiền đó đi buôn bán bất động sản. Như vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm là điển hình của việc làm nhiễu loạn thị trường". Đất đai bị đầu cơ hoặc lạm dụng sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế, gây tác hại khôn lường.

Nếu cú áp phe trong vụ đấu giá đất ở Thủ Thiêm trót lọt thì sự trục lợi của các nhóm lợi ích đã toan tính là rất lớn, sẽ lại có những tỷ phú đất mới xuất hiện. Một thực tế đáng suy nghĩ, đó là nhiều tỷ phú, triệu phú ở nước ta giàu có từ kinh doanh đất đai, bất động sản, hoặc khởi đầu từ lĩnh vực này. Sự giàu có từ buôn bán đất đai trên thực tế không tạo ra nhiều giá trị gia tăng về của cải vật chất như lĩnh vực sản xuất. Một hiện tượng bất thường trong xã hội, đó là rất nhiều người dân “chân đất” cũng đi buôn bán đất, đầu cơ đất. Thị trường mua bán đất ngầm hoạt động rầm rộ, lượng tiền giao dịch thực tế rất lớn nhưng số thuế Nhà nước thu được lại không phản ánh đúng thực tế.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao" cũng chỉ ra: “Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước”. Bởi thế, việc hoàn thiện thể chế, chính sách, luật pháp trong lĩnh vực đất đai vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Vấn đề nhức nhối trong quản lý tài sản công đã thường xuyên làm nóng các cuộc họp, trao đổi từ nghị trường cho đến bàn trà, quán cóc. Sở dĩ tài sản công rất được quan tâm bởi đó là nguồn lực quan trọng của quốc gia. Nhiều cán bộ biến chất, nhiều “nhóm lợi ích” đã tìm mọi cách để đục khoét. Vì sao một cá nhân như Phan Văn Anh Vũ (Vũ "nhôm") có thể lấy được mấy chục trụ sở nhà đất vốn thuộc các cơ quan nhà nước, ở các vị trí đắc địa? Vì sao trong vụ AVG (sai phạm ở Tổng công ty Viễn thông Mobifone), các đối tượng có thể chia chác được nhiều nghìn tỷ đồng bằng một hợp đồng “diễn xiếc” qua mặt các cơ quan chức năng có trách nhiệm thẩm định, giám sát? Vì sao sau cổ phần hóa, một số đất đai, nhà máy, xí nghiệp, tài sản của tập thể, sở hữu nhà nước trước đây đã rơi vào tay một vài cá nhân, trở thành của tư? Không chỉ vậy, có những tài sản nhà nước trong tổ chức, doanh nghiệp cũng bị rơi vào tay cá nhân, hoặc bị sử dụng lãng phí, bị thâu tóm với giá "bèo". Dư luận không khỏi xót xa với những dây chuyền mua sắm công nghệ cũ, lạc hậu của một số nhà máy đường, xi măng, nhà máy gang thép, đóng tàu... sau một thời gian ngắn đã phải "đắp chiếu".

Có thể nói rằng, cùng với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản pháp luật, chúng ta đã có hệ thống pháp luật quản lý tài sản công khá đầy đủ, giúp từng bước chấn chỉnh việc quản lý không chặt chẽ tài sản công. Tuy vậy, trên thực tế, tình trạng làm sai pháp luật, lợi dụng kẽ hở để lách luật vẫn rất đáng lo ngại. Điển hình là một số lĩnh vực trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị công lập; thực hiện hợp đồng BT, BOT; cơ chế quản lý, hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty, tổ chức tín dụng... Tại Hội thảo “Đổi mới quản lý tài sản công ở nước ta gắn với phòng, chống “nhóm trục lợi” được tổ chức mới đây, PGS, TS Đoàn Minh Huấn, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, nhận diện "nhóm trục lợi", những lỗ hổng trong quản lý tài sản công, đúc rút bài học kinh nghiệm và kiến nghị để hoàn thiện, bổ sung chính sách... là vấn đề khó của mọi quốc gia và là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

 Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý đã chỉ ra, trong quản lý tài sản công vẫn chưa rõ trách nhiệm của các chủ thể thực thi quyền tài sản công, gồm người định đoạt tài sản, người chiếm hữu, quản lý tài sản, người sử dụng tài sản. Cũng từ thực tế cho thấy, tình trạng người đứng đầu cơ quan, đơn vị không ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản công để tổ chức thực hiện không hiếm. Điều này dẫn đến một số nơi tài sản công bị quản lý lỏng lẻo, không rõ trách nhiệm. Những sai phạm này không được thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát kịp thời dẫn tới hậu quả xảy ra trong thời gian dài, phức tạp, rất khó khắc phục. Ngay trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn về công tác quản lý, khai thác, sử dụng quỹ nhà, đất thuộc quản lý nhà nước trên địa bàn TP Hà Nội diễn ra đầu tháng 7-2022, các đại biểu Hội đồng nhân dân TP Hà Nội đã chất vấn việc thành phố có 802/803 hợp đồng nhà chưa được gia hạn, chưa được ký và có sai phạm trong sử dụng nhà chuyên dùng. Đặc biệt, nợ nghĩa vụ tài chính của các tổ chức, cá nhân sử dụng nhà chuyên dùng trên địa bàn TP Hà Nội khoảng 1.200 tỷ đồng kéo dài nhiều năm và xu hướng ngày càng tăng. Đây cũng là thực trạng chung ở một số địa phương hiện nay.

 Cũng theo các chuyên gia, trong quản lý tài sản công, điều quan trọng là phải bằng mọi quy định pháp luật để từng bước loại bỏ hoàn toàn cơ chế “xin-cho”. Nếu đâu đó còn việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin-cho”, quan hệ thân hữu không dựa trên cơ chế thị trường và cạnh tranh công bằng thì nơi đó chắc chắn hình thành “nhóm lợi ích”, “nhóm trục lợi”. Loại bỏ dứt điểm cơ chế "xin-cho" phải bằng chế tài pháp luật chặt chẽ chứ không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, nhất là lĩnh vực quản lý tài sản công, tài chính công, chúng ta nên nghiên cứu xây dựng Luật Đăng ký tài sản. Chế tài luật để xử lý hiện tượng nhiều người đang đứng tên, chiếm, sở hữu tài sản mà có thể đó là hợp pháp hay không hợp pháp, có chứng minh được nguồn gốc hợp pháp hay không. Đó cũng là chế tài để xử lý tình trạng các đối tượng tham nhũng che giấu tài sản.

Tiên và hậu đều trách... cán bộ thoái hóa

Hơn 20 năm trước đây, đăng đàn trước Quốc hội, một vị chánh án từng phát biểu gây xôn xao dư luận, nêu ra thực trạng đáng suy ngẫm, đó là tình trạng luật pháp của chúng ta tạo ra những cách hiểu khác nhau. Ông nói điều đó nhằm cảnh báo về hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh.

Luật pháp và chính sách là xương sống trong quản trị quốc gia. Đảng, Nhà nước không bao biện và luôn nhìn thẳng vào thực tế để thấy rằng, chúng ta có hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ; có rất nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với thực tiễn, đặc biệt những chính sách về an sinh xã hội bảo đảm tốt nhất quyền con người. Dù vậy, còn những văn bản luật, những chính sách cần nghiên cứu sâu từ thực tiễn để điều chỉnh cho phù hợp, nhất là những bộ luật, chính sách có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội như đã phân tích. Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta thêm góc nhìn khách quan về các chính sách ở nhiều lĩnh vực, trong đó có chính sách công. Ở những thời điểm khó khăn nhất, về cơ bản, đội ngũ ngành y vẫn quyết tâm, làm việc hết mình, sẵn sàng xả thân nơi gian khó. Nhưng sau một thời gian dài trên tuyến đầu chống dịch, chính sách tiền lương, chế độ ưu đãi với họ không phù hợp sức lao động bỏ ra đã khiến hàng nghìn nhân viên ngành y rời hệ thống y tế công lập. Không chỉ ngành y, nhiều ngành nghề đang có những bất cập giữa lương và thu nhập, giữa lao động và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm.

Không thể phủ nhận, tiến trình từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng. Chúng ta có đủ các chế tài bao quát mọi lĩnh vực và thượng tôn pháp luật đang đóng vai trò chủ đạo trong quản lý nhà nước. Tuy vậy, cũng như bất cứ quốc gia nào, Việt Nam đang trên con đường hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, một mô hình nhà nước chưa có sẵn. Lập pháp (bao gồm cả sửa luật) phải tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ và không phải bao giờ cũng dự báo được mọi tình huống xảy ra. Hơn nữa, việc này cần thực tiễn chứng minh. Bởi thế, những khoảng trống, kẽ hở, khiếm khuyết trong quá trình thực thi pháp luật là khó tránh khỏi. Yếu tố cốt lõi chúng ta đang làm là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế-xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể tham nhũng, tiêu cực".

Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để trả lời câu hỏi "Hàng loạt “quan chức” hầu tòa thì lỗi tại phẩm chất hay cơ chế?".

Các Mác từng luận giải một cách thuyết phục: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm này đã trở thành nền tảng, cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người. Những quan chức, cán bộ sai phạm có cả nguyên nhân do phẩm chất đạo đức, cả nguyên nhân do kẽ hở về cơ chế, chính sách, pháp luật. Trong mối quan hệ này, lỗi do sự suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ mang tính quyết định. Cơ chế, chính sách, pháp luật có lỗ hổng là điều kiện để thúc đẩy họ vi phạm. Hay có thể nói, những cán bộ này là những người cơ hội chủ nghĩa. Ở một góc nhìn khác, một phần nguyên nhân dẫn tới luật pháp, chính sách của chúng ta có những kẽ hở, còn hạn chế cũng có yếu tố do chủ quan phẩm chất đạo đức của chính đội ngũ cán bộ có trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách đó. Luật pháp, chính sách cũng là do con người xây dựng nên. Loại bỏ yếu tố về trình độ, năng lực còn hạn chế khi xây dựng luật thì tình trạng xây dựng luật pháp, chính sách theo kiểu “cuốc giật vào lòng”, “lợi ích nhóm”, "cài cắm" lợi ích vào văn bản, lợi dụng cái hợp pháp để làm điều không hợp lý chưa thực sự chấm dứt.

Đi đôi với việc tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, công tác xây dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế về quản lý kinh tế-xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được chú trọng đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" tham nhũng (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2012-2022).(còn nữa)

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...