Thứ Ba, 17 tháng 5, 2022

Đảng ta luôn kiên định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và được bổ sung tại Đại hội XII của Đảng: “Tư tưởng của Người, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”. Việc khẳng định này cho thấy tầm quan trọng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị ra sức chống phá Đảng, trong đó chúng tìm mọi cách để hạ bệ nền tảng tư tưởng của Đảng; Chúng quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuân thủ đúng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không theo Chủ nghĩa Mác-Lênin”; “Con đường Bác Hồ đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội”….

Luận điệu xuyên tạc trên là vô căn cứ. Bởi lẽ, lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”, vì thế, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Cho nên, mấu chốt của cách mạng vô sản vẫn là giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, dù cho quốc gia đó đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay chưa trải qua giai đoạn này. Ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bậc nhất là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc giành lấy độc lập, quyền tự quyết dân tộc để làm cơ sở hiện thực làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng vô sản suy cho cùng cũng là vì quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; việc giải quyết vấn đề giai cấp không đứng trên lập trường lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra của cuộc cách mạng, đôi khi còn dẫn đến thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức, tiếp thu sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Người đã tích cực chuẩn bị tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành lấy độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới. Thắng lợi đó là do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó giải quyết vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp vô sản, điều này đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng thực tiễn khách quan và bảo đảm tính lịch sử cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc lựa chọn này không phải là sự ngẫu nhiên, “ăn may” mà là sự tìm tòi, phân tích thực tiễn cách mạng thấu đáo. Điều đó xuất phát từ tài năng, trí tuệ, sự nhạy bén chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cách mạng vô sản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra quy luật vận động và phát triển cách mạng Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, qua đó khắc phục được khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân tộc.

Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam đạt được đã cho thấy những điều Người khẳng định là hoàn toàn đúng đắn, “Đảng ta nhờ kết hợp được Chủ nghĩa Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”, và sự thật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nước ta bước vào giai đoạn độc lập, tư do và phát triển.

Thực tế đó cho thấy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đường, dẫn lối là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là: Người đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước giải phóng giai cấp nhưng không đối lập giữa nhiệm vụ giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc mà kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp để tiến tới giải phóng con người; Người chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vì nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước Đông Dương khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, con người mỗi nước có sự khác nhau.

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

 

Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Ngày nay, để đấu tranh với các thế lực thù địch xuyên tạc và bôi nhọ Đảng, chúng ta phải đồng thời thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng, bao gồm vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải thấy được những giới hạn lịch sử của các quan điểm lý luận, nhất là các chính sách cụ thể để không ngừng phát triển học thuyết cách mạng đó; phải nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ, viên chức nhà nước; tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về mặt tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng. Chỉ có như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.

Đấu tranh chống quan điểm tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng trong tình hình mới

Trong những năm gần đây, âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt và nguy hiểm. Một trong những biểu hiện chủ yếu là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi thay vào đó bằng hệ tư tưởng tư sản, xoá bỏ vị trí thống trị của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong Đảng và trong xã hội ta.

Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam.

Năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1]. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ngày 15-7-1969, trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô, Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng…chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”[2].

Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt “hòn đá tảng” cho những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về tinh thần xử lý mọi việc. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây để hình thành tư tưởng của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó của Người có được trước hết do Người đã nắm được bản chất, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ Luận cương chính trị 10/1930 cho đến văn kiện Đại hội VI đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta có sự bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng”. Đây là biểu hiện về nhận thức đúng đắn sâu sắc mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta.

Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội X của Đảng (4/2006) đã tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới và rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng (01/2021) đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Những biểu hiện tư tưởng cố tình tách rời, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách “ra vẻ” đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn trái với quan điểm, đường lối của Đảng ta. Chúng ta cần tiếp tục cảnh giác và đấu tranh chống các quan điểm sai trái để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.289.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.590.

Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2022

Phản bác luận điệu đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác - Lênin

Một trong những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam là xuyên tạc, đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Mục đích của chúng nhằm phá hoại, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh từ gốc rễ, qua đó tiến công trực diện vào một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và được bổ sung tại Đại hội XII của Đảng: “Tư tưởng của Người, cùng với Chủ  nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”(2). Việc khẳng định này cho thấy tầm quan trọng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó chúng tìm mọi cách để đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuân thủ đúng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không theo Chủ nghĩa Mác-Lênin”; “Con đường Bác Hồ đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội” (!). Chúng còn cố ý minh họa bằng những những sự kiện lịch sử, như: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc trước vấn đề giai cấp... nhằm củng cố những luận điệu xuyên tạc này.

Luận điệu xuyên tạc trên là vô căn cứ. Bởi lẽ, lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”, vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc(3). Cho nên, mấu chốt của cách mạng vô sản vẫn là giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, dù cho quốc gia đó đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay chưa trải qua giai đoạn này. Ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bậc nhất là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc giành lấy độc lập, quyền tự quyết dân tộc để làm cơ sở hiện thực làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng vô sản suy cho cùng cũng là vì quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; việc giải quyết vấn đề giai cấp không đứng trên lập trường lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra của cuộc cách mạng, đôi khi còn dẫn đến thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức, tiếp thu sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Người đã tích cực chuẩn bị tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành lấy độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới. Thắng lợi đó là do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó giải quyết vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp vô sản, điều này đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng thực tiễn khách quan và bảo đảm tính lịch sử cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc lựa chọn này không phải là sự ngẫu nhiên, “ăn may” mà là sự tìm tòi, phân tích thực tiễn cách mạng thấu đáo. Điều đó xuất phát từ tài năng, trí tuệ, sự nhạy bén chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi phân tích thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ, Việt Nam xuất phát từ một nước phương Đông truyền thống, nền nông nghiệp lạc hậu, hơn 90% là nông dân, sự phân hóa giai cấp chưa sâu sắc, khi thực dân Pháp xâm lược thì nhiệm vụ nổi lên hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập dân tộc, tự do cho người dân, nên Người đã phê phán thẳng thắn quan điểm phiến diện, giáo điều, rập khuôn máy móc của một số người về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (4).

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(5). Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cách mạng vô sản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra quy luật vận động và phát triển cách mạng Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, qua đó khắc phục được khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân tộc.

Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam đạt được đã cho thấy những điều Người khẳng định là hoàn toàn đúng đắn, “Đảng ta nhờ kết hợp được Chủ nghĩa Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”(6), và sự thật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nước ta bước vào giai đoạn độc lập, tư do và phát triển.

Thực tế đó cho thấy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đường, dẫn lối là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là: Người đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước giải phóng giai cấp nhưng không đối lập giữa nhiệm vụ giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc mà kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp để tiến tới giải phóng con người; Người chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vì nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước Đông Dương khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, con người mỗi nước có sự khác nhau.

Một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc khác mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn lèo lái dư luận rằng “Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với phương Tây còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam”; “bây giờ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin”(!).

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (7).

Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”(8).

Đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin là hoàn toàn sai trái, vô căn cứ, xuyên tạc lịch sử và logic vận động cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản thống nhất với nhau về mục tiêu, lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bản thân các nhà kinh điển mác-xít không đưa ra một khuôn mẫu cứng nhắc cho việc tiến hành cuộc cách mạng vô sản mà chỉ nêu ra những nguyên lý cơ bản, nên việc vận dụng những nguyên lý đó như thế nào, thành công đến đâu phụ thuộc vào tài năng của lãnh tụ phong trào cách mạng.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công những nguyên lý đó để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới, qua đó khẳng định và củng cố tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Nguồn: Báo QĐND

Vun đắp mối quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó từ lâu đời

Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia là một trong những hoạt động lớn, có ý nghĩa biểu tượng không chỉ bởi đây là lần đầu tiên sự kiện được tổ chức mà còn có ý nghĩa hơn khi năm 2022 đã được hai nước xác định là “Năm Hữu nghị Việt Nam-Campuchia, Campuchia-Việt Nam” nhằm kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (24-6-1967 / 24-6-2022) và cũng là năm kỷ niệm 45 năm “Con đường tiến tới đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot” của Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen (20-6-1977 / 20-6-2022).

Ngay từ sáng sớm, bầu không khí rộn ràng, tươi vui, thắm tình đoàn kết, hữu nghị ngập tràn cặp cửa khẩu quốc tế Hoa Lư-Trapeang Sre. Trong tiếng quân nhạc, đông đảo quần chúng nhân dân hân hoan vẫy cờ chào đón đoàn đại biểu Việt Nam do Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu và đoàn đại biểu Campuchia do Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Samdech Pichey Sena Tea Banh dẫn đầu cùng tham dự các hoạt động trong khuôn khổ Giao lưu tại huyện Snuol và huyện Lộc Ninh.

Trong những năm qua, cùng với việc không ngừng tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị hợp tác, Việt Nam và Campuchia luôn khẳng định tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau bởi biên giới, lãnh thổ luôn là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Trong khi đó, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội khu vực biên giới, tạo thuận lợi cho việc phát triển giao lưu mọi mặt giữa chính quyền và người dân hai bên biên giới cũng là vì lợi ích và phồn vinh của hai nước Việt Nam-Campuchia nói chung. Với tinh thần như vậy, việc Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh thực hiện nghi thức chào cột mốc chủ quyền, trồng cây hữu nghị và chứng kiến tuần tra chung của lực lượng bảo vệ biên giới hai nước một lần nữa góp phần nêu cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân cùng chung tay xây dựng một đường biên giới đất liền Việt Nam-Campuchia hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đúng với phương châm quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa hai nước.

Là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, cùng uống chung dòng nước mát lành của dòng sông Mê Công, hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vốn có mối quan hệ gắn bó, truyền thống, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau từ lâu đời. Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trước kia cũng như xây dựng đất nước ngày nay, hai nước luôn kề vai sát cánh bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và quý báu. Như khẳng định của Bộ trưởng Phan Văn Giang, mối quan hệ tốt đẹp ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thái thượng hoàng Norodom Sihanouk đặt nền móng và được các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp. Lịch sử đã minh chứng mối quan hệ Việt Nam-Campuchia trở thành yếu tố sống còn đối với vận mệnh của hai đất nước. “Thế hệ trẻ hai nước hôm nay may mắn được sinh ra và lớn lên khi hai đất nước được hoàn toàn giải phóng, được sống trong hòa bình, độc lập, được học tập và rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Các cháu học sinh sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước. Mong rằng các cháu sẽ luôn cố gắng học tập, rèn luyện, giành được nhiều thành tích, phấn đấu vì tương lai của đất nước Chùa Tháp tươi đẹp, và sẽ cùng với các bạn trẻ Việt Nam vun đắp, phát huy truyền thống đoàn kết gắn bó Việt Nam-Campuchia”, Bộ trưởng Phan Văn Giang phát biểu khi cùng Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh và đoàn đại biểu hai nước đến thăm Trường Tiểu học Hun Sen 2 Thnou tại huyện Snuol.

Đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh, nếu như trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, hai nước láng giềng anh em gần gũi Campuchia và Việt Nam đã từng cùng kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ thì trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp vừa qua, Chính phủ, quân đội và nhân dân hai nước tiếp tục tích cực giúp đỡ lẫn nhau thông qua sự ủng hộ về trang thiết bị y tế, cử lực lượng bác sĩ điều trị cho người dân. Quan hệ truyền thống lịch sử chiến lược đã thể hiện mong muốn phát triển mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện Campuchia-Việt Nam. “Đây là một nhân tố quan trọng vì tương lai của các cháu học sinh. Nhân dịp này, bác muốn nhắc nhở các cháu rằng hiện nay thiếu niên hai nước may mắn được sinh ra trong thời kỳ hai nước hòa bình, phát triển và mang lại cho các cháu nhiều cơ hội học tập trong và ngoài nước. Các cháu cần cố gắng học tập, rèn luyện để đạt được kết quả cao, đáp lại sự dạy dỗ của các thầy, cô giáo bởi các cháu là những mầm non trong tương lai. Bên cạnh đó, các cháu cần đoàn kết với thiếu niên Campuchia để giữ gìn, bảo vệ tình đoàn kết truyền thống giữa hai nước Việt Nam-Campuchia ngày càng bền chặt”, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh phát biểu khi cùng Bộ trưởng Phan Văn Giang và đoàn đại biểu hai nước đến thăm Trường Tiểu học Lộc Tấn A tại huyện Lộc Ninh.

Trong những năm qua, hợp tác quốc phòng song phương tiếp tục mang lại hiệu quả thiết thực và là một trong những trụ cột quan trọng, có nhiều đóng góp vào sự phát triển của mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện Việt Nam-Campuchia. Trong bối cảnh đó, Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất chính là cơ hội để lãnh đạo hai Bộ Quốc phòng gặp gỡ, chia sẻ những vấn đề cùng quan tâm, trao đổi thống nhất những định hướng lớn trong hợp tác, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác quốc phòng song phương không ngừng phát triển.

Tại cuộc hội đàm ở huyện Lộc Ninh, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh đều đánh giá, thời gian qua, vượt lên những khó khăn của dịch Covid-19 cũng như diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, mối quan hệ Việt Nam-Campuchia nói chung, hợp tác quốc phòng song phương nói riêng vẫn trên đà phát triển tốt đẹp. Hai bên tích cực triển khai hiệu quả những nội dung hợp tác đã được thống nhất tại cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng tại thủ đô Phnom Penh vào tháng 12-2021. Các hoạt động trao đổi thông tin, duy trì an ninh, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới, hỗ trợ nhau trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, hợp tác đào tạo đã được hai bên phối hợp triển khai hiệu quả, góp phần tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân và quân đội hai nước, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, chia rẽ tình đoàn kết, quan hệ gắn bó Việt Nam-Campuchia.

Về phương hướng hợp tác trong thời gian tới, hai bên thống nhất tập trung tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc phối hợp triển khai các nội dung hợp tác đã thống nhất trong Nghị định thư hợp tác quốc phòng 5 năm, Kế hoạch hợp tác thường niên; tăng cường trao đổi đoàn các cấp; Đối thoại Chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng; hợp tác giữa các quân khu, quân binh chủng, Bộ đội Biên phòng; hợp tác về công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị; ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế... Bộ trưởng Phan Văn Giang khẳng định Bộ Quốc phòng Việt Nam luôn ủng hộ Campuchia đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN 2022, đồng thời bày tỏ mong muốn lãnh đạo các cấp Campuchia tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở Campuchia có điều kiện sinh sống, làm ăn ổn định, ủng hộ và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng Việt Nam hoạt động kinh doanh thuận lợi tại Campuchia. Bộ trưởng Phan Văn Giang tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Chính phủ và Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen, Campuchia sẽ tổ chức thành công cuộc bầu cử xã, phường cũng như hoàn thành trọng trách vai trò Chủ tịch ASEAN 2022. Ngay sau hội đàm, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh đã chứng kiến Lễ ký thỏa thuận hợp tác giữa Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam và Bộ tư lệnh Hiến binh Quân đội Hoàng gia Campuchia.

Có thể nói, trong suốt chặng đường lịch sử hơn nửa thế kỷ qua, bất chấp biết bao khó khăn, thử thách với những thăng trầm, quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia đã không ngừng được vun đắp, là tài sản vô giá, thiêng liêng của hai dân tộc. Thành công của Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất tiếp tục cho thấy tình cảm gắn bó sâu nặng giữa hai dân tộc đã được gìn giữ vẹn nguyên và ngày càng khăng khít. Và như khẳng định của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh, sự kiện có ý nghĩa lịch sử này là cơ hội để quân đội và nhân dân hai nước gặp gỡ, giao lưu, hiểu biết lẫn nhau, tuyên truyền, giáo dục nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hai nước về truyền thống của mối quan hệ tốt đẹp Việt Nam-Campuchia.

Trong khuôn khổ Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh cùng đoàn đại biểu hai nước đã dự, cắt băng khánh thành Trạm Y tế quân dân y hữu nghị Việt Nam-Campuchia tại Cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư. Việc khánh thành và đưa công trình Trạm Y tế quân dân y hữu nghị Việt Nam-Campuchia vào hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân hai bên biên giới, là minh chứng cho tinh thần đoàn kết, gắn bó, không ngừng tăng cường, củng cố quan hệ Việt Nam-Campuchia.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2022

Hôm nay Thủ tướng lên đường thăm, làm việc tại Mỹ và Liên Hợp Quốc

(Dân trí) - Hôm nay (10/5), Thủ tướng Phạm Minh Chính dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam lên đường tham dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN - Mỹ; thăm, làm việc tại Mỹ và Liên Hợp Quốc, từ ngày 11-17/5.

Dự kiến, chuyên cơ chở Thủ tướng Phạm Minh Chính cất cánh rời Hà Nội đi Mỹ lúc 18h ngày 10/5. Tháp tùng Thủ tướng trong chuyến đi lần này có lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương và nhiều doanh nghiệp lớn.

Trong khuôn khổ chuyến đi, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ cùng lãnh đạo các nước ASEAN dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN - Mỹ trong hai ngày 12-13/5 tại Thủ đô Washington D.C.

Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam thăm, làm việc tại Mỹ và Liên Hợp Quốc từ ngày 11-17/5.

Chuyến đi của Thủ tướng Phạm Minh Chính nhằm khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đóng góp có trách nhiệm, chân thành của Việt Nam; khẳng định vị thế và trách nhiệm của Việt Nam trong ASEAN, thúc đẩy quan hệ ASEAN - Mỹ, thúc đẩy quan hệ ASEAN - Mỹ phát triển toàn diện, có chiều sâu.


Quan hệ Việt - Mỹ thời gian qua tiếp tục đà phát triển tích cực. Lãnh đạo hai bên duy trì tiếp xúc và điện đàm ở các cấp. Trong các trao đổi, phía Mỹ tái khẳng định cam kết ủng hộ một Việt Nam "mạnh, độc lập và thịnh vượng", tiếp tục đánh giá cao vị thế và coi trọng quan hệ với Việt Nam...

Hiện hai bên đang tích cực phối hợp thu xếp các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo hai nước thời gian tới, trong đó có chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Chính phủ dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN - Mỹ; thăm, làm việc tại Mỹ (11-17/5) cũng như chuẩn bị tổ chức các cơ chế đối thoại thường niên.

Thương mại song phương Việt - Mỹ tiếp tục tăng trưởng mạnh, tổng kim ngạch năm 2021 đạt hơn 111 tỷ USD. Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 9 của Mỹ. Tính đến tháng 3/2022, đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam đạt 10,3 tỷ USD, đứng thứ 11/141 trong số các nước và vùng lãnh thổ có FDI tại Việt Nam.

Về Hội nghị Cấp cao đặc biệt kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN - Mỹ, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, quan hệ đối thoại ASEAN - Mỹ chính thức thiết lập năm 1977 và nâng cấp lên đối tác chiến lược năm 2015.

Dự kiến, lãnh đạo các nước ASEAN và Tổng thống Mỹ sẽ cùng nhìn lại và đánh giá tổng thể chặng đường quan hệ đối tác hai bên trong 45 năm qua và đề ra những định hướng quan trọng phát triển quan hệ trong thời gian tới, đồng thời dành thời gian trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm.

Trong khuôn khổ hội nghị cấp cao đặc biệt, ASEAN và Mỹ cũng sẽ có các phiên thảo luận riêng, chuyên sâu về những nội dung hợp tác cùng quan tâm như kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác và an ninh biển, ứng phó và phục hồi sau đại dịch, ứng phó biến đổi khí hậu, năng lượng, khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng bền vững….

Dự kiến, Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN - Mỹ sẽ thông qua văn kiện tuyên bố Tầm nhìn chung, phản ánh các kết quả của hội nghị, nhấn mạnh các thành quả quan trọng đạt được trong 45 năm quan hệ ASEAN - Mỹ và khẳng định các định hướng thúc đẩy quan hệ hai bên trong thời gian tới.

Nguồn: Báo Dân trí 

Nhận thức rõ về đường lối, chính sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam

Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành chủ quyền quốc gia, cửa ngõ giao lưu quốc tế, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ biển, đảo chính là bảo vệ một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc, giữ vững chủ quyền biển, đảo sẽ góp phần giữ vững chủ quyền của đất nước. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là điều kiện, nội dung giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.

Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, do đó cần kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.

Thực tế cho thấy, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình, đó là thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao...

Điều này đã được nêu rõ trong các nghị quyết của Đảng và được chứng minh qua việc giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam, với tinh thần thượng tôn pháp luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hoà bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã ký nhiều văn bản với các nước liên quan đến biển, đảo.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, phục vụ nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.

Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn. Chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.

Do đó, cần nhận diện, đấu tranh với những chiêu trò suy diễn, phê phán đường lối đối ngoại, đường lối bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, đòi hỏi phải “chọn phe” để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Chúng ta quán triệt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết vấn đề biển, đảo, trong đó chủ quyền biển, đảo là bất biến, sách lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động phức tạp của tình hình…

Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng ta cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Mục đích của việc đấu tranh này là làm cho nhân dân Việt Nam hiểu rõ về lập trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề chủ quyền biển, đảo; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay; góp phần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.

Các thủ đoạn lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để chống phá

Những năm qua, tại Biển Đông xảy ra một số vụ việc phức tạp, có lúc diễn biến căng thẳng, trong đó có các hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền biển đảo như: Vụ việc tàu Viking 02 và tàu Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp năm 2011 và 2012; vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên Biển Đông năm 2014; sự kiện tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khảo sát trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam Biển Đông của Việt Nam (từ ngày 4/7/2019 đến ngày 24/10/2019); các hoạt động tập trận trên Biển Đông tại một số thời điểm…

Những sự việc này được các tổ chức, đối tượng phản động triệt để khai thác, nhào nặn, biến tấu thành những luận điệu xảo trá, vu cáo như “Việt Nam nhu nhược, hèn nhát”, “chính quyền Việt Nam làm ngơ về Biển Đông”… Không những thế, các thế lực xấu còn vẽ ra “thuyết âm mưu” khi cho rằng Việt Nam cần phải liên minh quân sự với những nước lớn có thực lực kinh tế, quốc phòng - an ninh mạnh thì mới đủ sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Đặc biệt, thông qua chiến lược xoay trục, đổi chiều sang châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ, việc Mỹ tăng cường hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam, nhằm nâng tầm ảnh hưởng đối với khu vực Biển Đông cũng như duy trì thế cân bằng quyền lực của Mỹ tại vùng biển này… cũng trở thành chủ đề mà các thế lực thù địch vin vào để đả phá, công kích.

Nhiều bài viết phê phán rằng, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là “tự trói mình” vì tiềm lực kinh tế, quốc phòng - an ninh Việt Nam hiện nay là quá yếu, không thể ba không, bốn không mà xoay xở được; từ đó họ vẽ ra một viễn cảnh cần phải liên minh với Mỹ thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc…

Các tổ chức, đối tượng phản động lợi dụng những diễn biến phức tạp tại Biển Đông cũng như đường lối đối ngoại, hướng giải quyết các vụ việc của Việt Nam để tìm cách chế nhạo, tái diễn nhiều chiêu trò, luận điệu xuyên tạc, suy diễn, xem đó là “ngòi nổ” để phá hoại sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đồng thời đưa ra các bài viết lấy danh nghĩa “phân tích khoa học” để nhằm kích động việc “chọn phe” trong các quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cổ súy tư tưởng bài trừ nước này, theo nước kia; cho rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước cần phải vì phe này, phe kia để chủ quyền biển, đảo không bị xâm lấn…

Một số bài viết lợi dụng vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo để quy kết rằng, khi đất nước chỉ có một đảng thì không đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, từ đó hướng lái tư tưởng đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Mặt khác, qua thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng, Nhà nước, trong đó có việc hỗ trợ ngư dân bám biển, nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng bằng lối tư duy thù địch, chống phá, số đối tượng phản động lại đưa ra những lời lẽ hết sức vô lý, cho rằng “chỉ có ngư dân bảo vệ biển, không thấy chính quyền đâu”; vu cáo chính quyền “chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, không lo bảo vệ biển, đảo, không lo cho dân”.

Họ vin vào tình hình ngư dân Việt Nam đánh bắt hải sản ở vùng biển của quốc gia khác, bị lực lượng bảo vệ pháp luật của các nước bắt giữ, xử lý để gieo rắc luận điệu “ngư dân bị bỏ rơi”! Một số bài viết lợi dụng tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển diễn biến phức tạp; việc các tàu công vụ của nước ngoài tiếp tục có hành vi xua đuổi, khống chế, thu giữ hải sản và ngư cụ của các tàu cá Việt Nam đang hoạt động bình thường ở ngoài khơi Biển Đông để đưa ra đánh giá phiến diện “lực lượng chuyên tránh thực thi pháp luật trên biển làm ngơ, không hoàn thành nhiệm vụ”.


Các đối tượng còn tiến hành phỏng vấn số chống đối, bất mãn gắn với cái mác là các “chuyên gia”, “nhà hoạch định” để đưa ra những so sánh khập khiễng, đánh giá sai lệch về năng lực, khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, kích động việc “sử dụng vũ lực” của lực lượng vũ trang trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; họ cho rằng trước những hành động gây hấn, xâm chiếm biển, đảo Tổ quốc, nếu không nổ súng là “nhu nhược, hèn nhát”!

Nguy hiểm hơn, các thế lực bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc về tình hình Biển Đông và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.

Lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo, các đối tượng chống phá thông qua các tài khoản mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong theo kiểu “nội công, ngoại kích” hòng gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta.

Đa cấp tâm linh, tà đạo trá hình

Thời gian qua, hoạt động của các tà đạo đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa và tình hình an ninh, trật tự ở một số địa phương. Một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân; thuyết giảng “kinh sách” có nội dung phê phán, đi ngược lại với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Tính đến tháng 11/2021, Việt Nam có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số cả nước; có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân là quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Nhà nước ta còn quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo;... thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc...”. Hiến pháp 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24). Đồng thời, “nghiêm cấm xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Tuy nhiên, thời gian qua, lợi dụng chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam, một số người đã đứng ra thành lập và tuyên truyền một số hình thức của tà đạo như “Long Hoa Di Lặc”, “Chân không”, “Thanh Hải Vô thượng sư”, “Hà Mòn”, “Dương Văn Mình”, “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ”…

Thời gian qua, hoạt động của các tà đạo đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, đáng chú ý hoạt động của tà đạo “Thanh Hải Vô thượng sư”, “Pháp môn diệu âm”, “Dương Văn Mình”, “tà đạo Hà Mòn”, tà đạo “Hoàng Thiên Long”… trái với phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc; tuyên truyền mê tín dị đoan; xâm hại đến tính mạng, sức khỏe; khống chế, lừa gạt người dân để trục lợi; gây mất đoàn kết trong cộng đồng dân tộc, giữa các tôn giáo, gia đình ly tán (khi bị gia đình, người thân can ngăn, đối tượng đã bỏ người thân theo tà đạo).

Các tà đạo này ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội (kích động trốn vào rừng, trốn đi nước ngoài); một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân (“tà đạo Hà Mòn”)…

Phần lớn các tà đạo ở nước ta có những cách hành đạo trái với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, nhằm mục đích gây thanh thế cá nhân, thu lợi bất chính về kinh tế. Mặt khác, gây bất ổn về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số của đất nước.

Chẳng hạn, để lôi kéo người dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, nhằm trục lợi và thanh thế cá nhân, Dương Văn Mình, quê quán huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (đã mất 12/2021), tự xưng là “chúa giáng thế”, tuyên bố rằng: “theo y cầu nguyện, không làm cũng có ăn, không học cũng biết chữ, người già sẽ lột xác, ốm đau sẽ tự khỏi”, nơi hành lễ là “nhà đòn”, dựng ở đâu tùy thích, thờ phụng con ve sầu, chim én, cóc gỗ thay vì thờ cúng tổ tiên như trước đây”.

Còn Y Gyin (sinh năm 1942, ở Sa Thầy - tỉnh Kon Tum), hành nghề cúng bái thì dựng chuyện “Đức mẹ hiển linh” trao cho sứ mệnh truyền giáo, lập ra cái gọi là “đạo Hà Mòn” lôi kéo, lừa bịp nhiều người dân thiếu hiểu biết:“Ai theo Đức mẹ thì mọi nợ nần về vật chất và tinh thần đều được xóa, kể cả nợ ngân hàng; ốm đau không cần chữa cũng khỏi bệnh; người đã theo thì không được bỏ, nếu bỏ đạo gia đình sẽ ly tán”, “Hà Mòn” mới là “tôn giáo riêng” của người DTTS ở Tây Nguyên”.

Hay như các đối tượng cầm đầu tà đạo “Giê Sùa” (Hờ Chá Sùng), tà đạo “Bà Cô Dợ” (Vừ Thị Dợ) đã tuyên truyền cho một bộ phận đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc rằng: “theo đạo “Giê sùa”, đạo “Bà Cô Dợ” khi có chiến tranh, thiên tai thì sẽ được đưa đến đất nước của Chúa sinh sống; kêu gọi người Mông phải đoàn kết để chung tay xây dựng đất nước riêng của người Mông...”. Thực chất, “Hà Mòn”, “Dương Văn Mình”, “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đều mang màu sắc của tà đạo, trái hoàn toàn với đạo lý truyền thống văn hóa dân tộc, đã bị các thế lực thù địch lợi dụng gây xáo trộn cuộc sống của người dân, gây mất an ninh, trật tự ở một số địa phương.

Từ thực tiễn hoạt động của các tà đạo trong thời gian vừa qua, có thể nhận diện các tà đạo dựa vào một số đặc điểm chủ yếu sau:

- Về người đứng đầu: Luôn tự đề cao, đánh bóng bản thân mình cho rằng bản thân họ là “phật”, “thánh”, “thần”…, nhiều người trước khi tạo dựng tà đạo hay “đạo lạ” còn mắc bệnh tâm thần hoặc từ nước ngoài tuyên truyền phát triển vào trong nước trước để tạo thanh thế. Các tà đạo thường sùng bái và thần thánh hóa người cầm đầu, khác với tôn giáo truyền thống: đối tượng sùng bái là những bậc thánh hiền, thần thánh hóa lãnh tụ, siêu trần, thoát thế…, tôn giáo truyền thống phát huy được tác dụng hướng thiện, nâng đỡ cuộc sống con người; “tà đạo” thường có tư tưởng cực đoan, chống lại hiện thực xã hội, thực hành lối sống phi pháp, quyên góp, bóp nặn tiền của người dân.

- Về lý thuyết, “giáo lý”, “giáo luật”: Chủ yếu được chắp vá, pha tạp, cải biên, xuyên tạc từ một số điều trong lý thuyết, giáo lý, giáo luật của các tôn giáo truyền thống, đã hình thành từ lâu, nên có những lời khuyên, điều răn dạy hướng thiện, giúp xoa dịu, an ủi con người về mặt tinh thần trước những bất hạnh, khó khăn gặp phải trong cuộc sống (đây là yếu tố làm cho tà đạo có thể tồn tại). Tuy nhiên, có một số tà đạo có nội dung giáo lý trái thuần phong, mỹ tục của dân tộc, phản văn hóa, phản khoa học như khuyên người ốm không dùng thuốc, chỉ cần cúng, dâng hoa, cầu nguyện, dùng “nước thánh”, “thuốc phật”…, trái với quy luật tự nhiên; lợi dụng các tà thuyết về “ngày tận thế” hoặc gắn với các nhu cầu về sức khỏe để lôi kéo, mê hoặc, khống chế quần chúng.

Điển hình như đối với tà đạo “Giê Sùa” đã và đang tác động vào vùng dân tộc Mông nước ta từ năm 2015 và tuyên truyền, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông tham gia với những nội dung khác với giáo lý, giáo luật của đạo Tin Lành. Tà đạo “Giê Sùa” gọi tên Chúa là “Giê Sùa” chứ không phải là Giêsu; coi “đạo Giê Sùa” là tôn giáo chính thống, không thừa nhận các tôn giáo khác; thay nhân vật Adam và Eva trong Kinh thánh bằng “chàng Ong” và “cô Ía”; không tổ chức lễ Giáng sinh, Phục sinh; kiêng ăn thịt lợn và loài cá không vảy. Trong các tài liệu tuyên truyền về tà đạo “Giê Sùa” ngoài nội dung bóp méo Kinh Thánh của đạo Tin Lành, những đối tượng cầm đầu, cốt cán còn tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”.

- Về mục đích hoạt động: Hầu hết các tà đạo đều có chung mục đích là phục vụ lợi ích của người cầm đầu “giáo chủ” (người sáng lập) và một số đối tượng cốt cán, tay chân của họ nhằm thu về kinh tế thông qua thu lệ phí “quy y”, bán “sắc phong”, “bùa”, bán sách, bài giảng, “thuốc chữa bệnh”... Đáng chú ý, các thế lực thù địch, phản động tạo dựng hoặc lợi dụng “tà đạo” như là công cụ để tuyên truyền, tập hợp, thu hút người vào các hoạt động chống chính quyền.

- Về nghi lễ hành đạo: Mang nặng yếu tố mê muội, mê tín dị đoan, lừa bịp, phản khoa học trái với những nghi lễ truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc hay thần thánh hóa lãnh tụ, các bậc thánh hiền, danh nhân, anh hùng dân tộc như: ép quan hệ tình dục tập thể hoặc với giáo chủ để “đắc đạo” (“tà đạo Chân không” của Lưu Văn Ty ở Hà Tĩnh khuyên tín đồ quan hệ tình dục với “người trời” là Lưu Văn Ty); hủy hoại tài sản, của cải, hủy hoại một phần cơ thể hoặc cả thân xác con người để sớm “siêu thoát” (“tà đạo Chân không” khuyên đốt bỏ một phần tài sản, đầy đọa thân xác mới “đắc đạo”; tà đạo “chặt ngón tay” do Phạm Thị Hải ở TP Hồ Chí Minh khởi xướng năm 1993 quy định người tu theo muốn thành “chính quả” phải chặt một ngón tay để bỏ đi một phần thể xác giúp siêu thoát phần hồn...); kích động tự sát để sớm về “nước trời” (như vụ hơn 50 người ở bản Pahé, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La theo tà đạo “Phạ tốc” đã tuân lệnh “giáo chủ” Cà Văn Liêng tiến hành tự sát tập thể).

- Về cách hoạt động: Thường thiên về hoạt động thực tiễn, nhưng lén lút, thường xuyên thay đổi địa điểm nhằm tránh sự phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng; lợi dụng sơ hở của pháp luật, trong công tác quản lý của chính quyền cơ sở để tuyên truyền phát triển “đạo”; tán phát tài liệu tuyên truyền ở trên mạng Internet hay ở những nơi công cộng, nơi tập trung đông dân cư; tập luyện “dưỡng sinh” ở công viên, quảng trường, vườn hoa; lợi dụng những vùng đồng bào trình độ nhận thức còn thấp, điều kiện sống, chăm sóc sức khỏe còn khó khăn để dụ dỗ, lừa bịp, khống chế, lôi kéo theo “đạo”. Điển hình như đối với tà đạo “Bà Cô Dợ” thường sử dụng các đoạn video clip quay các buổi sinh hoạt của điểm nhóm ở Mỹ và phát trực tiếp trên mạng xã hội Facebook, kênh Youtube để giới thiệu, hướng dẫn mọi người sử dụng điện thoại, máy tính bảng... kết nối Internet vào xem trực tuyến và làm theo hướng dẫn.

- Về đối tượng tin theo: Phần lớn người tin theo các tà đạo là những người gặp rủi ro, bế tắc trong cuộc sống, do ốm đau, bệnh tật, nghèo khó; những người có trình độ văn hóa thấp, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cũng có những tà đạo do biết khai thác, lợi dụng, tạo vỏ bọc xuyên tạc các sự kiện thực tế (dịch bệnh, thiên tai, hiểm họa môi trường...) để “khoác áo” cho các “tín điều” nên đã thu hút được những người trẻ tuổi ưa cái mới, kể cả những người có trình độ nhận thức và chuyên môn kỹ thuật cao, hoặc cán bộ các cơ quan chính quyền và nhất là số cán bộ nguyên là lãnh đạo các ngành, giáo sư, tiến sỹ nghỉ hưu tiếp tay cho tà đạo hoạt động.

Cũng như hoạt động bình thường khác của xã hội, mọi sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều phải trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam; nghiêm cấm bất kỳ ai lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật. Dù ở quốc gia nào, hoạt động tôn giáo đều cần phải có sự quản lý để bảo đảm hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và tuân thủ luật pháp. Không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc.

RSF lại phớt lờ sự thật

Xuyên tạc, suy diễn về tình hình tự do báo chí ở nước ta là một chiêu trò luôn được một số tổ chức, đối tượng cực đoan, thiếu thiện chí với Việt Nam sử dụng. Một trong số đó là tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF).

Ngày 3/5/2022, tổ chức RSF công bố cái gọi là “Bảng xếp hạng thường niên về tự do báo chí” xếp hạng tự do báo chí toàn cầu. Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2022 do RSF công bố xếp Việt Nam ở vị trí 174 trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các chỉ số cụ thể của Việt Nam được nêu ra gồm chỉ số chính trị ở hạng 173, chỉ số kinh tế xếp hạng 176, chỉ số lập pháp 172, chỉ số xã hội 170 và chỉ số an ninh 170.

Trong bảng xếp hạng này, RSF đã vu cáo rằng: “các phóng viên và blogger độc lập thường bị bỏ tù”. Tổ chức này còn tỏ vẻ bênh vực, cổ xúy cho một số hội nhóm, cá nhân lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để chống phá Việt Nam như “nhóm Báo sạch”, “Hiệp hội Nhà báo Độc lập Việt Nam”, ca ngợi những đối tượng như Phạm Thị Đoan Trang. Ngay sau khi công bố của RSF được đưa ra, một số tổ chức phản động, đối tượng cơ hội chính trị, những hãng truyền thông hải ngoại vốn định kiến với Việt Nam được dịp trích dẫn, bình luận kiểu “tát nước theo mưa”.

Đây không phải lần đầu tiên RSF đưa ra báo cáo dựa trên những thông tin sai sự thật, không có cơ sở và có dụng ý xấu. Những luận điệu xuyên tạc của RSF thực chất là trò “bổn cũ soạn lại”, mục đính nhằm bôi đen hiện thực, vẽ ra bức tranh tối màu về tình hình tự do báo chí để đả phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đây là một tổ chức phi chính phủ hoạt động toàn cầu, lấy Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hiệp quốc làm cơ sở để hành động. Tôn chỉ hoạt động của tổ chức này đưa ra để bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực, giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Hằng năm, vào ngày Nhân quyền thế giới, tổ chức này thường đưa ra bảng xếp hạng về tự do báo chí của các quốc gia, vùng lãnh thổ bằng cách tổng hợp các câu trả lời vào một bảng câu hỏi của RSF. Nhìn vào tôn chỉ hoạt động, cứ ngỡ RSF là một tổ chức chân chính, hoạt động vì sự tiến bộ, thúc đẩy tự do và văn minh của thế giới. Nhưng trái ngược với chủ trương của Liên hiệp quốc, nhiều năm nay, tổ chức này thường xuyên có những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận của một số nước, trong đó có Việt Nam.

Nhiều quốc gia trên thế giới cáo buộc RSF đứng đằng sau những vụ việc phức tạp, gây rối, bất ổn, kích động bạo lực. RSF tồn tại và hoạt động dựa vào một phần nguồn hỗ trợ kinh phí của một số chính giới phương Tây. Chính vì vậy, trong các bảng xếp hạng tự do báo chí hằng năm, RSF thường tuân theo sự sắp đặt một cách có chủ ý của các chính phủ quốc gia tài trợ cho tổ chức này hoạt động. Những yếu tố được tổ chức này sử dụng để đánh giá tự do của một nền báo chí thiếu tính bao trùm, không cân nhắc đến các yếu tố văn hóa, xã hội, nhận thức của từng quốc gia riêng biệt. Phần lớn những thông tin được đưa ra là không khách quan, không có hoạt động khảo sát, kiểm chứng thực chất mà đó là những đánh giá thiếu căn cứ hoặc được suy diễn, phóng đại.

Việc RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp. Chính vì vậy, tổ chức này tìm cách bênh vực cho những đối tượng khoác áo, mượn danh nhà báo như “nhóm Báo sạch”, “Hiệp hội Nhà báo Độc lập Việt Nam”... Họ cố ý khoác áo nhà báo, ca ngợi, tán dương cho những kẻ hoạt động chống phá Việt Nam.

Những thông tin mà “Bảng xếp hạng thường niên về tự do báo chí” năm 2022 của RSF là không khách quan, sai thực tế về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.

Chúng ta thấy rõ, quyền con người, quyền công dân trên lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Nhà nước ta bảo đảm, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin là những quyền cơ bản của quyền con người, của mọi công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để đảm bảo quyền tự do ngôn luận, báo chí và quyền hưởng thụ thông tin của mọi công dân được thực thi trong cuộc sống theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoàn toàn tương thích về mặt luật định đối với các văn kiện quốc tế về quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Điều 11, Luật Báo chí năm 2016 chỉ rõ quyền của công dân: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”.

Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận báo chí của công dân bao gồm: Quyền sáng tác tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý, phê phán, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức cá nhân khác. Nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí cũng được Luật Báo chí 2016 quy định: Không được đăng phát thông tin xuyên tạc, phủ nhận chính quyền nhân dân; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... Như vậy, quyền và nghĩa vụ của công dân luôn song hành, không tách rời nhau; mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận báo chí, đồng thời đều phải có nghĩa vụ thực hiện quyền ấy trong khuôn khổ pháp luật.

Tự do báo chí không thể vượt quá hạn định, không phải là tự do quá trớn, càng không phải muốn nói gì thì nói, viết gì thì viết, làm gì thì làm theo ý muốn chủ quan của chủ thể. Cũng như bất kỳ các quốc gia trên thế giới, một mặt, Nhà nước ta tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Ở Việt Nam, không ai bị xét xử, bắt giữ chỉ vì bày tỏ chính kiến hay bảo vệ nhân quyền. Chỉ có những đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, vi phạm pháp luật như tung tin giả, tin xấu độc, xuyên tạc, vu cáo hòng gây bất ổn tình hình đất nước, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang dư luận... thì bị xử lý theo pháp luật.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện Việt Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh-truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Chất lượng truy cập Internet Việt Nam cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn, một số thông số cao hơn số liệu công bố bởi các hệ thống quốc tế. Điều này phản ánh nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam phục vụ nhu cầu sử dụng Internet. Trong khi đó, sóng của các cơ quan truyền thông quốc tế lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg… dễ dàng được tiếp cận tại Việt Nam.

Rõ ràng, nội dung đánh giá của RSF vẫn tiếp tục phớt lờ thực tế về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Càng ngày, RSF càng lộ rõ bản chất định kiến với Việt Nam, cố tình phủ nhận những nỗ lực, thành tựu đạt được của Đảng, Nhà nước ta trong việc bảo đảm và tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Chặn tham nhũng, tiêu cực - vững lòng dân, thế nước

Những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đặc biệt là hoạt động của ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

 Tăng cường kiểm tra, giám sát để Đảng thêm vững mạnh

Qua đó, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, trong sạch và giữ vững nguyên tắc, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước, củng cố “thế trận lòng dân”...

Những kỳ họp thực chất

Điều rất dễ nhận thấy trong những năm gần đây là các kỳ họp của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và UBKT Trung ương được cán bộ, đảng viên và nhân dân đặc biệt quan tâm, bởi thông tin từ các kỳ họp luôn “nóng bỏng”, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng ta trong việc quyết liệt, kiên trì đấu tranh với những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, nhằm giữ vững sự thanh sạch của Đảng.

Nếu như các kỳ họp của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thường xác định quyết tâm và đưa ra những định hướng lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực, thì các kỳ họp của UBKT Trung ương kết luận rõ tính chất, mức độ, hình thức xử lý kỷ luật hoặc đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan chức năng xử lý cụ thể đối với từng tổ chức đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên có vi phạm. Kết quả kiểm tra, giám sát, xử lý các vụ việc được công bố rõ ràng, bảo đảm đúng phương châm của công tác kiểm tra là "công minh, chính xác, kịp thời".

Với quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; tiến hành một cách bài bản, từ trên xuống dưới, có trọng tâm, trọng điểm; kiên quyết xử lý kỷ luật theo đúng quan điểm “không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, không có hạ cánh an toàn”, mọi đảng viên đều bình đẳng khi xử lý kỷ luật và làm nghiêm từ trên xuống..., từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến hết năm 2021, cấp ủy và UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 87 nghìn cán bộ, đảng viên (trong đó, có hơn 3.200 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý...).

Đặc biệt, quán triệt quan điểm “Kỷ luật đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho thanh tra, điều tra, xử lý hình sự theo pháp luật”, UBKT Trung ương đã tập trung kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ án, vụ việc nổi cộm, gây bức xúc dư luận. Riêng năm 2021, UBKT Trung ương đã xử lý và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xử lý nghiêm 12 tổ chức đảng và 20 đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Theo thông tin tại cuộc họp của Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, được tổ chức ngày 27-4: Từ đầu năm 2022 đến nay, UBKT Trung ương đã khẩn trương kiểm tra, phát hiện, xử lý, kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý.

Vừa qua, việc kiểm tra, làm rõ các sai phạm, xử lý và yêu cầu xử lý trách nhiệm đối với nhiều tập thể, cá nhân sai phạm liên quan đến những vụ việc nổi cộm (như: Vi phạm trong việc quyết định giảm chấp hành hình phạt tù trước thời hạn cho Phan Sào Nam; những sai phạm trong mua sắm vật tư phục vụ phòng, chống dịch Covid-19, điển hình là vụ việc liên quan đến Công ty Việt Á; vi phạm trong việc tham mưu xây dựng thể chế, chính sách và thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước...) được dư luận rất hoan nghênh, bởi thấy rằng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ngày càng hiệu quả. Nhất là, UBKT Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý và kiến nghị xử lý được những vi phạm trong các lĩnh vực mới, khó và nhạy cảm, thể hiện rõ bản lĩnh, quyết tâm chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong những lực lượng, cơ quan có chức năng phòng, chống vi phạm, tội phạm. Vì thế, nhiều cán bộ, đảng viên và người dân đã chú tâm theo dõi, đặt niềm tin vào những kỳ họp của UBKT Trung ương.

Trên cơ sở rút kinh nghiệm những hạn chế, thiếu sót trước đây và quán triệt phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, hơn một năm qua, nhất là sau khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021 về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã có sự chuyển biến rõ nét; các quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được quan tâm xây dựng, bổ sung, hoàn thiện...

Chuyển biến rõ nhất là toàn Đảng đã từng bước khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”; tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tiêu cực, nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; chủ động dự báo những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong tình hình mới để kiểm tra trước và đề ra các chủ trương, biện pháp phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm từ xa, từ sớm, từ lúc còn manh nha... Thực tế thời gian qua, việc xử lý kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, bảo đảm thực sự không có “vùng cấm” đã góp phần giải tỏa được những bức xúc, bất bình của nhân dân và dư luận xã hội, đồng thời có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe mạnh mẽ, giúp phòng ngừa vi phạm.

Lan tỏa tinh thần chủ động kiểm tra, tăng cường giám sát (không chỉ trong Đảng mà toàn hệ thống chính trị và trong nhân dân) để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý vi phạm là điều mà cán bộ, đảng viên cùng người dân cảm nhận rất rõ. Nhiều người đã dùng câu ví “lò luôn nóng” để nói về điều này.

Tại Hội nghị toàn quốc giao ban công tác kiểm tra, giám sát quý I, triển khai nhiệm vụ quý II năm 2022 được tổ chức ngày 25-4 vừa qua, đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm UBKT Trung ương, cho biết: Trong 3 tháng đầu năm 2022, UBKT thuộc cấp ủy các địa phương, đơn vị đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 297 tổ chức đảng và 921 đảng viên. Hiện UBKT Trung ương đang có 20 đoàn kiểm tra dấu hiệu vi phạm (tăng gần 3 lần so với cùng kỳ năm 2021), đồng thời chỉ đạo cấp ủy và UBKT 63 tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với một số tổ chức đảng, đảng viên. Qua kiểm tra, đã xử lý và đề nghị xử lý kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Trong đó: Cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 32 tổ chức đảng và 1.953 đảng viên; Ban Bí thư thi hành kỷ luật 3 tổ chức đảng và 9 đảng viên; UBKT các cấp thi hành kỷ luật 26 tổ chức đảng, 1.017 đảng viên; UBKT Trung ương thi hành kỷ luật 5 tổ chức đảng và 21 đảng viên.

Thực tế đã cho thấy, hầu hết các tổ chức đảng và đảng viên sau khi được kiểm tra, giám sát đã nghiêm túc khắc phục, sửa chữa vi phạm, khuyết điểm và hậu quả gây ra; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng đã góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa...

Trước việc Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 34-KL/TW ngày 18-4-2022 về Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030, chúng tôi đã trao đổi với một số đồng chí lão thành cách mạng, cựu chiến binh, nhà khoa học... Các ý kiến đều cho rằng: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng và việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Người luôn nêu cao quyết tâm làm thanh sạch Đảng, kiên quyết loại bỏ những “con sâu mọt” làm hại Đảng, hại nhân dân, đất nước. Vì thế, việc Bộ Chính trị ban hành Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, tích cực góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là rất cần thiết; tiếp tục thực hiện quyết tâm “tuyên chiến” với những “con sâu làm rầu nồi canh” theo tinh thần “không có vùng cấm, không ai ngoại lệ” mà Trung ương, nhất là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định.

Việc thời gian qua Đảng, Nhà nước ta xử lý nghiêm tất cả những cán bộ, đảng viên có vi phạm, kể cả cán bộ cấp cao, dù đang đương chức hay nghỉ hưu, càng củng cố niềm tin của nhân dân-giữ vững “thế trận lòng dân”. Đây là cái được lớn nhất mà công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã góp phần quan trọng. Mong rằng thời gian tới, với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, Đảng tiếp tục “diệt sâu” kiên quyết và hiệu quả hơn nữa để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 xác định mục tiêu:

1. Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết, thống nhất và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, kiên quyết xử lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị.

2. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; bổ sung, hoàn thiện phương pháp, nội dung công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới.

3. Đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, nhân rộng, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm khi có vi phạm.

Nguồn: Báo QĐND

Bài 2: Hệ lụy khôn lường từ tình trạng lười học lý luận chính trị

Khi đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị sẽ dẫn đến hàng loạt hệ lụy đối với đảng cầm quyền. Bởi thế, việc học tập, trang bị lý luận chính trị (LLCT), trau dồi Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm chắc nghị quyết của Đảng có vai trò rất quan trọng.

 Nó giúp chính cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) có thế giới quan, phương pháp luận khoa học, biết dấn thân để tìm ra giải pháp tối ưu trong công việc; có bản lĩnh vững vàng để vượt qua khó khăn, những cám dỗ vật chất trong cuộc sống.

Không có lý luận như nhắm mắt mà đi

Đảng ta là đảng lãnh đạo, cầm quyền. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể”. Hay: Lãnh đạo là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội nhằm tối đa hóa nỗ lực của người khác để đạt được mục tiêu. Tựu trung, người lãnh đạo phải là người dẫn đường, người mở đường. Đảng ta cũng không có mục đích nào khác là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Mục đích đó cũng là bản chất, là đặc trưng của chế độ được xây dựng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng cũng được xây dựng trên nền tảng lý luận đó vận dụng vào thực tiễn của đất nước. Điều đương nhiên, nếu CB, ĐV không nắm được LLCT, không hiểu biết về nền tảng tư tưởng ấy thì họ không thể lãnh đạo được ai. Việc lười học LLCT có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, đó là đảng viên mất phương hướng, rất dễ rơi vào tình trạng thực hiện sai đường lối của Đảng; nói và viết không đúng nghị quyết của Đảng, vi phạm nguyên tắc Đảng; dễ bị kẻ thù lôi kéo, mua chuộc. Một hậu quả nữa của tình trạng “mù lý luận” đó là làm bừa, làm ẩu, bất chấp quy luật khách quan dẫn đến thất bại.

Vì không học LLCT, không hiểu nền tảng tư tưởng của Đảng nên chính đảng viên cũng không có khả năng bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Trong một tập thể, nếu các đảng viên nắm chắc lý luận, hiểu nguyên lý, nguyên tắc của Đảng thì người đứng đầu rất khó có thể làm sai, khó có thể tự tung tự tác, hành động vô nguyên tắc. Hàng loạt CB, ĐV bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ủy ban kiểm tra các cấp xử lý kỷ luật thời gian qua đã chỉ ra nguyên nhân, đó là tình trạng thực hiện không đúng nghị quyết của tổ chức đảng, vi phạm nguyên tắc Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây thực sự là vấn đề lớn của Đảng.

Ở một khía cạnh khác, mục tiêu xuyên suốt mà các thế lực thù địch, phản động đang thực hiện là nhằm xóa bỏ chế độ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để làm điều đó, chúng không loại trừ bất kỳ thủ đoạn nào nhằm tấn công, xuyên tạc, bịa đặt hòng làm sụp đổ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng muốn làm cho hệ tư tưởng ấy trở nên giáo điều, xa lạ, không còn sức sống. Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng ấy, vũ khí của những người cộng sản chính là LLCT sắc bén. Nếu mỗi CB, ĐV, những người được xem là đầu tàu để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng lại lười học LLCT thì làm sao có thể bảo vệ được? Không có kiến thức, không có bản lĩnh thì không thể giữ vững được trận địa tư tưởng, thành quả cách mạng, những giá trị cốt lõi của văn hóa Đảng. Dù có trung thành bao nhiêu nhưng không hiểu bản chất, không có lý luận soi đường thì cũng chỉ như một người đi trong đêm tối. Sự lầm đường lạc lối trong lãnh đạo không khác gì sự phá hoại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”; “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”. Cách mạng luôn vận động biến đổi không ngừng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc còn nhiều thử thách, cam go. Nếu không có lý luận, nếu lý luận không trở thành lực lượng vật chất thấm sâu trong mỗi CB, ĐV thì sự nghiệp ấy khó có thể thành công. PGS, TS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, luận giải: Nền tảng tư tưởng chính là phương tiện, là ánh sáng, là trí tuệ soi đường cho Đảng lãnh đạo đưa đất nước đi lên.

Lịch sử hơn 100 năm từ khi đất nước chìm trong bóng đêm nô lệ đến nay đã hoàn toàn đủ cơ sở cả về lý luận và thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn, tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn và sự trường tồn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ách đô hộ của thực dân, đế quốc, dân tộc ta khi đó không thiếu những anh hùng, không thiếu những cuộc khởi nghĩa, phong trào cách mạng với mong muốn giải phóng dân tộc. Nhưng tựu trung, tất cả đều thất bại vì không có đường lối đúng, không có lý luận dẫn đường. Chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh tiếp cận, thấy được ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu, có được hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa vào cách mạng Việt Nam, với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo dân tộc thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Nhưng đó là một hành trình tiếp thu lý luận, đưa lý luận vào thực tiễn không hề đơn giản, không hề có sẵn. Người chiến sĩ cách mạng vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã phải nếm mật nằm gai, tắm mình trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, tận mắt chứng kiến những đọa đầy đau khổ nhất của kiếp cần lao, tiếp cận được với ánh sáng chân trời từ Chủ nghĩa Mác-Lênin mới đưa lại sự thành công đó. Chính Mác, Ăngghen, Lênin, những chiến sĩ cộng sản của phong trào công nhân quốc tế đã phải lăn lộn, chịu biết bao khổ cực trong phong trào công nhân, trong thảm cảnh bị đàn áp, bóc lột đến tận xương, tận tủy mới đúc rút được hệ tư tưởng lý luận có ý nghĩa vạch thời đại ấy. Nó hoàn toàn không là lý thuyết sách vở, kinh viện mà thấm đẫm hiện thực. Và luận giải như Các Mác, lý luận ấy đã biến thành lực lượng vật chất chứ không chỉ là lý luận đơn thuần. Mác đã rút ra rằng: "Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng một khi lý luận đã được thấm sâu vào quần chúng thì nó sẽ trở thành lực lượng vật chất vô địch".

Chỉ những người không hiểu biết thấu đáo mới tìm cách đổ lỗi, cho rằng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là do Chủ nghĩa Mác-Lênin sai lầm, là không phù hợp, rồi vin vào đó để cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Thực tế không phải như vậy. Chính điều này đã chứng minh, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản, đảng viên ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã coi thường lý luận Mác-Lênin, tiếp thu giáo điều, nửa vời, xa rời những nguyên tắc căn bản của lý luận Mác-Lênin, nhất là những nguyên tắc lịch sử-cụ thể, nguyên tắc thực tiễn và sự thiếu thích ứng với những thay đổi thường xuyên của đời sống chính trị-xã hội đã dẫn đến sự sụp đổ đau đớn đó. Những lãnh đạo, đảng viên làm băng hoại một chế độ tốt đẹp ấy sẽ luôn bị lịch sử điểm tên. Một mô hình nhà nước cụ thể không toàn vẹn do áp dụng không đúng lý luận mác-xít về nhà nước, về xây dựng chế độ, về đảng cầm quyền chứ không phải là sự sai lầm của một học thuyết khoa học, không phải sai lầm của lý luận mác-xít. Cũng chính sự kiện đó đã là lời cảnh tỉnh xương máu cho tất cả chúng ta. Những CB, ĐV hôm nay trong sự nghiệp bảo vệ thành trì XHCN nếu coi thường, xa rời bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nếu vận dụng nó một cách máy móc, nếu không chịu tìm tòi, nghiên cứu, đúc rút, tổng kết và phát triển hệ lý luận ấy cho phù hợp với sự vận động không ngừng của thực tiễn thì rất dễ dẫn đến phải trả giá bằng sự thất bại. Cho đến hôm nay, các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Những CB, ĐV chân chính, những người dân đã được hưởng thành quả, điều tốt đẹp của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu vẫn luôn tiếc nuối, hoài niệm về một xã hội tốt đẹp, thực sự vì con người. Họ đã cảm nhận rõ hơn ai hết những giá trị nhân văn về quyền con người, về sự đáp ứng các nhu cầu chính đáng cả vật chất, tinh thần mà chế độ XHCN mang lại. Sức sống của lý luận mác-xít vẫn đang chứng minh tính cách mạng và khoa học, tính thời đại và tương lai ở các nước XHCN đang theo hệ lý luận, tư tưởng ấy. Đó là các nước như: Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... PGS, TS Trần Đình Huỳnh cho rằng, phải luôn luôn bảo vệ “đầu não” và “trái tim” của Đảng theo tư tưởng của Các Mác. “Đầu não” ở đây được hiểu chính là lý luận, là ánh sáng chỉ đường của Đảng; còn bảo vệ “trái tim” của Đảng chính là giữ cho mỗi đảng viên, mỗi người làm cách mạng luôn giữ được sự nhiệt tình, tâm huyết, giữ được động cơ vì cách mạng, nhân dân.

Nhân loại tiến bộ luôn ghi nhận đóng góp vĩ đại của Các Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh... những người đã đặt nền tảng và vận dụng nó vào trong thực tiễn cho sự ra đời của một chế độ nhà nước XHCN tiến bộ, thực sự vì con người. Ngày nay, các nhà lý luận Mác-xít vẫn được đánh giá là những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử loài người.

Năm 1999, Đại học Cambridge (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ, kết quả là Các Mác đứng đầu. Tháng 7-2005, với câu hỏi tương tự, trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình In Our Time trên kênh Radio 4 của Đài BBC, thính giả vẫn chọn Mác đứng đầu danh sách là nhà tư tưởng ưa thích của họ. Nhiều cuộc khảo sát, đánh giá, các hội thảo lớn giai đoạn hiện nay ở chính các nước tư bản chủ nghĩa vẫn luôn dành cho Mác sự trân trọng bởi những ảnh hưởng to lớn của ông với nhân loại. (còn nữa)

Nguồn: báo QĐND

Bài 1: Khi “kim chỉ nam” bị cất trong tủ kính

 LTS: Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là:

 “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị (LLCT); lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Trước bối cảnh thời cuộc, nhiệm vụ thời kỳ mới, đòi hỏi cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) cần xác định thái độ, động cơ đúng đắn để việc học tập LLCT trở thành nhu cầu thiết thân.

Tình trạng lười học LLCT diễn ra ở không ít CB, ĐV, trong chính một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Có những người coi thường lý luận, cho đó là lý thuyết suông, là giáo điều, rằng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn sức sống. Họ đã hiểu được gì từ lý luận?

Cách giải thích ngụy biện

Chúng tôi đã làm một trắc nghiệm nhỏ dành cho một số đảng viên, đó là trả lời câu hỏi: “Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là gì?”. Khá bất ngờ khi nhiều đảng viên không trả lời đúng câu hỏi này. Thậm chí, một số đảng viên "không có khái niệm" thế nào là nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng... Một trong những nhiệm vụ quan trọng của đảng viên là: “Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng...”. Với vai trò cốt yếu đã được xác định, vậy nhưng chính một số đảng viên lại không hiểu, không rõ về nền tảng tư tưởng của Đảng thì họ sẽ bảo vệ Đảng ra sao? Đảng viên lãnh đạo quần chúng thực hiện xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản bằng cách nào? Phải chăng họ chỉ lãnh đạo bằng mệnh lệnh mà thiếu hẳn sự thuyết phục; bằng chủ nghĩa kinh nghiệm mà không có đường lối, không có mục tiêu, lý tưởng? Thực trạng này có chung một nguyên nhân, đó là do CB, ĐV lười học LLCT, lười học Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng, lười đọc sách lý luận, lười đọc báo Đảng...

Nhiều người đổ lỗi cho khách quan, rằng nhiều việc chuyên môn, do các mối quan hệ chi phối khiến họ không có thời gian cho việc học LLCT. Sự giải thích đó không thuyết phục. Việc học LLCT nếu là nhu cầu tự thân thì có thể học, tìm hiểu mọi lúc, mọi nơi, tận dụng những khoảng thời gian trong chính công việc chuyên môn của mình. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, chính Các Mác, Lênin, Hồ Chí Minh, các nhà cách mạng Việt Nam đã tận dụng mọi cơ hội, dù trong tù ngục hay ở những thời khắc "ngàn cân treo sợi tóc", bị các thế lực truy lùng bắt bớ, những lúc công việc bộn bề, họ vẫn dành thời gian để học tập, nghiên cứu, phát triển và vận dụng lý luận vào thực tiễn đấu tranh cách mạng. Thậm chí trước họng súng kẻ thù, những chiến sĩ cách mạng kiên trung vẫn nhìn thấy "mặt trời chân lý", vẫn tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng chủ nghĩa xã hội, cách mạng sẽ thành công bởi hành trang lý luận họ được học, được trang bị. Và cuối cùng, họ đã đúng. Cách mạng đã thành công. Bởi thế, nếu ai đó giải thích vì công việc chuyên môn khiến họ không có thời gian học LLCT thì chỉ là một sự ngụy biện.

Tình trạng một số CB, ĐV nhận thức chưa đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của học tập LLCT đang là một thực tế. Trong khi lười học lý luận nhưng một số người lại rất cơ hội, quá khích khi tiếp cận các thông tin được coi là độc, lạ trên mạng xã hội. Và do không có thế giới quan, phương pháp luận khoa học nên một số người dễ nhìn nhận vấn đề sai lệch, dễ bị sa vào bẫy “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch chống phá chế độ cài vào. Có kẻ đã hùa theo việc "quay xe" công kích hệ tư tưởng Mác-Lênin, cho rằng đó là một viễn cảnh không có hồi kết. Cũng có người đã lợi dụng vị trí của mình trong công tác tuyên truyền, phổ biến LLCT để phê phán, tỏ thái độ bất mãn, chê bai lý luận, chê bai xã hội, chê bai chế độ trong khi mình là người đang ăn cơm, mặc áo của chế độ. Một số CB, ĐV phát ngôn văng mạng trên internet, không chỉ vi phạm những điều đảng viên không được làm mà còn vi phạm pháp luật. Hiện tượng mà Đảng đã cảnh báo, đó là chủ nghĩa cơ hội đang xuất hiện. Những người này bề ngoài thì nói theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng thực chất là lợi dụng để chui sâu, leo cao vào Đảng để thăng quan tiến chức, để trục lợi.

Chính do thiếu kiến thức lý luận mà một số CB, ĐV có biểu hiện coi thường LLCT. Bởi thế, ngay cả khi được cử đi đào tạo thì cũng có người chỉ học đối phó, miễn cưỡng, "đánh trống ghi tên" cho đủ tiêu chí để được đề bạt, bổ nhiệm. Hiện tượng CB, ĐV học không đi đôi với hành, học lý luận nhưng không áp dụng vào thực tiễn, không vận dụng kiến thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo không hiếm.

Ngày 5-5 cũng là ngày sinh của Các Mác. Trong cuộc đời mình, ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng tri thức lý luận đồ sộ và phong phú trên nhiều lĩnh vực. Dù ra đời từ thế kỷ 19, những tác phẩm lý luận của Mác đến nay vẫn là những cuốn sách gối đầu giường của các đảng viên các đảng cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa và vẫn luôn khẳng định ảnh hưởng to lớn trong lòng xã hội tư bản, điển hình là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” và bộ "Tư bản” do Mác lao tâm khổ tứ để viết nên.

Gốc có vững, cây mới bền

Có nhiều lăng kính để lý giải về tình trạng lười học, ngại học LLCT của CB, ĐV. Nguyên nhân từ phía người học chưa có nhận thức, động cơ đúng dẫn đến ngại học, học đối phó; từ phía một bộ phận người truyền thụ (người dạy) chưa thực sự nhiệt huyết, phương pháp còn khô cứng, đơn điệu; chương trình học tập LLCT còn một số bất cập... Trong khi đó, tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả cũng ảnh hưởng đến thái độ, động cơ của người học.

Nhìn nhận từ góc độ chủ quan của chính CB, ĐV cho thấy, sự mất gốc, hổng kiến thức LLCT ngay từ nền tảng ban đầu là một trong những nguyên nhân khiến CB, ĐV nhận thức chưa đúng về việc học tập LLCT. Theo một trình tự logic, đảng viên phải bắt đầu được bồi dưỡng LLCT từ khi là đoàn viên, là sinh viên chứ không chờ đến lúc là đảng viên mới bồi dưỡng. Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị của Đảng. Bởi thế, việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, lòng yêu nước, nuôi hoài bão, khát vọng... phải được quan tâm từ sớm. Trong khi thực tế nhiều tổ chức đoàn chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Qua khảo sát của nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân (Đức Tuấn-Huyền Trang) đầu năm 2022: Ở nhiều cơ sở đoàn, thanh niên cứ đến tuổi là được cho đi học lớp tìm hiểu về Đoàn Thanh niên ít buổi, sau đó được yêu cầu viết bài thu hoạch mang tính hình thức và tiến hành kết nạp. Trong khi đó, hình thức đào tạo khô khan, cứng nhắc, nội dung học tập chỉ dừng ở việc nêu định nghĩa tổ chức đoàn mà thiếu đi cơ sở thực tiễn nên không cuốn hút, không giúp thanh niên nắm được những vấn đề cơ bản như mục tiêu, lý tưởng, trách nhiệm khi tham gia tổ chức đoàn. Thậm chí khi được hỏi, một đoàn viên ở Bắc Ninh cho biết: “Tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên đã 5 năm. Lúc đó, tôi học lớp 9 hay lớp 10 gì đó. Vì không còn ai nên tôi được huy động vào Đoàn”. Nhiều bạn trẻ khi được hỏi, họ không hiểu mục tiêu, lý tưởng vào Đoàn để làm gì. Cho nên khi trở thành đảng viên, họ đã bước đầu hổng kiến thức lý luận. 

Ở bậc đại học, độ tuổi được đánh giá là quan trọng nhất, ngấm, thấm nhất những kiến thức được trang bị của người học, những chương trình đào tạo trong nước đều đã đưa vào các môn LLCT nhằm đặt nền móng cho việc xây dựng lập trường, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng cho sinh viên, đoàn viên, thanh niên. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, có cả việc chưa coi trọng các môn lý luận nên chương trình đào tạo dành cho các môn lý luận Mác-Lênin như: Triết học, Kinh tế-chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều sự thay đổi, cắt xén nội dung, chương trình, lý luận bị mất tính logic, trở nên khô cứng, khiến sinh viên không hứng thú và có tư tưởng coi nhẹ việc học các môn này. Hậu quả là họ hổng kiến thức, thậm chí mất gốc dẫn tới ngại học, lười học. Tháng 12-2021, nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân (Hoàng Hoàng-Thu Hà) đã tiến hành khảo sát với 3.020 sinh viên trên cả nước. Trả lời câu hỏi về lợi ích của các môn LLCT, hầu hết sinh viên sau khi học xong đều thể hiện nhận thức tích cực về lợi ích của các môn học đối với bản thân. Song, nghịch lý là khi được hỏi về mức độ yêu thích với từng môn học cụ thể, câu trả lời “Bình thường” chiếm tỷ lệ hơn 50%. Điều này cũng đặt ra vấn đề rất đáng suy nghĩ về thái độ, động cơ học tập LLCT của người học và phương pháp truyền thụ của người dạy.

Đất nước mở cửa, hội nhập mạnh mẽ. Tuy vậy, sự tác động của kinh tế thị trường, lối sống tư bản, quá đề cao lợi ích vật chất, hưởng thụ khiến nhiều CB, ĐV không còn quan tâm đến yếu tố chính trị tinh thần, lợi ích cộng đồng, giá trị tốt đẹp trong xã hội. Một số CB, ĐV xa lạ với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, xóa nhòa vấn đề giai cấp, dân tộc. Có những đảng viên không quan tâm đến đời sống chính trị của đất nước, dẫn tới không quan tâm đến việc học tập, nâng cao trình độ LLCT. Họ chỉ coi đó là tiêu chí bổ sung, hợp thức để được thăng tiến. Nhận thức như vậy khiến CB, ĐV trở nên bàng quan, thờ ơ với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; không quan tâm đến phát triển, bổ sung, tổng kết lý luận, vận dụng lý luận vào thực tiễn như bản chất của lý luận đã chỉ ra.

Trong khảo sát tổng hợp những cuốn sách, tài liệu mà sinh viên Mỹ bắt buộc phải đọc trong hơn một triệu bài giảng năm 2016, "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" của Các Mác đã bỏ xa các cuốn sách phía sau để trở thành tài liệu được giáo viên Mỹ giảng dạy rộng rãi nhất, cả về số bài giảng lẫn tần suất được giảng dạy. "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" được sử dụng làm tài liệu giảng dạy về lý thuyết xã hội, trong khi về chuyên ngành kinh tế, bộ "Tư bản” của Mác phân tích về sự vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng luôn được đưa vào giảng dạy. (còn nữa)

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...