Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

Việt Nam tích cực hợp tác, nỗ lực cùng cộng đồng quốc tế ứng phó biến đổi khí hậu

Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp ông Alok Kumar Sharma, Bộ trưởng Chính phủ Anh, Chủ tịch Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).

Chiều 14/2, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp ông Alok Kumar Sharma, Bộ trưởng Chính phủ Anh, Chủ tịch Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) đang có chuyến thăm làm việc tại Việt Nam nhằm thúc đẩy việc triển khai kết quả Hội nghị.

Tại buổi tiếp, Thủ tướng hoan nghênh Bộ trưởng, Chủ tịch COP26 đã chọn Việt Nam là một trong những điểm đến của chuyến công du châu Á; chúc mừng và đánh giá cao vai trò của Vương quốc Anh và cá nhân Bộ trưởng đối với thành công của Hội nghị COP26. Hội nghị đã mở ra một giai đoạn mới trong nỗ lực toàn cầu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, với sự đồng thuận quốc tế cùng hành động để đưa phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ.

Thủ tướng bày tỏ sự vui mừng trước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và toàn diện của quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam-Anh trong thời gian vừa qua, sự phối hợp triển khai hiệu quả giữa hai Bên đối với các cơ chế hợp tác về kinh tế, chính trị-ngoại giao, khai thác lợi ích từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Anh, đồng thời cảm ơn Vương quốc Anh và nhất là Công ty AstraZeneca đã hỗ trợ kịp thời vaccine, thiết bị y tế cho Việt Nam để ứng phó với dịch Covid-19.

Trao đổi về việc triển khai các kết quả Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ cho biết, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhưng trọng tâm, cấp bách. Với cách tiếp cận toàn cầu, toàn dân và hành động nhanh chóng, mạnh mẽ, tổng thể, toàn diện, Việt Nam tích cực, chủ động tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và coi đây là cơ hội để chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn, carbon thấp.

Thủ tướng nêu rõ tinh thần hợp tác trên cơ sở tình cảm, chân thành, tin cậy, tôn trọng, bình đẳng và các bên đều có lợi, hợp tác từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ tới khó, từ nhỏ tới lớn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không cầu toàn, không nóng vội.

Ngay sau COP26, Việt Nam đã nghiêm túc và nhanh chóng triển khai cam kết của mình thông qua việc thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban.

Việt Nam đang tiếp tục tích cực để sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan, dùng một luật để sửa nhiều luật; nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch, biện pháp, lộ trình cụ thể; rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch có liên quan; huy động nguồn lực đầu tư cho hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu… để thực hiện các cam kết này. Trong lĩnh vực năng lượng, Việt Nam đang rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, thúc đẩy phát triển mạnh các nguồn năng lượng điện tái tạo, chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch một cách phù hợp, bền vững, bảo đảm công bằng. công lý.

Thủ tướng tin tưởng Việt Nam sẽ có đủ hành lang pháp lý cần thiết để thực hiện tốt các cam kết đã đưa ra tại COP26, vấn đề còn lại là huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện với nhu cầu tài chính rất lớn; đề nghị ông Alok Kumar Sharma, với tư cách là Chủ tịch COP26, sẽ tiếp tục quan tâm thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với Vương quốc Anh và các đối tác phát triển trong hỗ trợ chuyên môn, công nghệ, năng lực, tài chính để Việt Nam thực hiện các cam kết, các Sáng kiến toàn cầu về giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển bền vững, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. 

Thủ tướng đề nghị Chủ tịch COP26 hỗ trợ Việt Nam kết nối với các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng có khả năng cung cấp hỗ trợ tài chính, tín dụng cho Việt Nam tương tự mô hình “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng” mà Vương quốc Anh cùng với Pháp, Đức, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã ký kết với Nam Phi. Thủ tướng cũng đề nghị hỗ trợ Việt Nam thành lập thị trường carbon trong nước kết nối với thị trường quốc tế; thành lập Trung tâm năng lượng tái tạo nhằm đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm pháp luật, quản trị quốc gia; hỗ trợ kỹ thuật giúp Việt Nam nội luật hóa các cam kết tại COP26; đánh giá hiện trạng phát thải khí nhà kính của các doanh nghiệp, cơ sở phát thải tại Việt Nam; chuyển giao công nghệ hoặc kết nối với các doanh nghiệp có công nghệ xử lý pin mặt trời sau khi hết hạn sử dụng; đánh giá tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam…

Ông Alok Kumar Sharma chia sẻ cảm nhận về sự thay đổi rất lớn ở Việt Nam sau chuyến thăm hồi tháng 5/2021, chúc mừng những kết quả của Việt Nam trong phòng, chống dịch. Các đối tác phát triển cũng ghi nhận Việt Nam đã đạt được thành tựu lớn trong triển khai chiến dịch tiêm chủng vaccine.

Bộ trưởng, Chủ tịch COP26 đánh giá cao những cam kết mạnh mẽ và vai trò dẫn dắt của Việt Nam trong khu vực, đóng góp quan trọng vào thành công chung của Hội nghị COP26 và Thỏa thuận Khí hậu Glasgow; hoan nghênh quan điểm tiếp cận, các hành động nhanh chóng, toàn diện của Việt Nam, những nỗ lực của Chính phủ, Thủ tướng và các bộ ngành để bảo đảm các cam kết được triển khai trong thực tế. 

Bộ trưởng khẳng định sẵn sàng tích cực hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam để hỗ trợ triển khai các cam kết, nhấn mạnh quá trình chuyển đổi năng lượng là chìa khóa cho các cam kết khí hậu của Việt Nam bởi 70% lượng khí thải của Việt Nam là từ ngành năng lượng. Vương quốc Anh sẽ nỗ lực hỗ trợ Việt Nam tiếp cận và huy động các nguồn tài chính cần thiết trong quá trình này. 

Nguồn: Báo QĐND

Sự thực về “tín ngưỡng Dương Văn Mình”

Ngay từ khi thành lập, Dương Văn Mình đã núp bóng tín ngưỡng, tôn giáo; tuyên truyền, tập hợp quần chúng, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông; khuyếch trương tên, tuổi, âm mưu lợi dụng ly khai, tự trị thành lập “Nhà nước Mông” do Dương Văn Mình làm thủ lĩnh.

“Tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình” do Dương Văn Mình (SN 1961) còn có tên gọi khác Dương Súng Mình, Giàng Sống Minh, nguyên quán ở xã Thượng Thôn, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng thành lập. Trước khi chết (cuối năm 2021), đối tượng sinh sống ở tại xã Yên Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.

Ngay từ khi thành lập, Dương Văn Mình đã lợi dụng vấn đề tín ngưỡng tôn giáo để tuyên truyền nhằm tập hợp quần chúng, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông với ý đồ ly khai, tự trị, lập “Nhà nước Mông” do Dương Văn Mình đứng đầu.

Để thực hiện ý đồ, Dương Văn Mình cùng số đối tượng cốt cán đã lập ra “Tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình” núp bóng dưới vỏ bọc tôn giáo, móc nối, liên hệ, tìm kiếm, hỗ trợ, hậu thuẫn của một số cá nhân, tổ chức phản động; tổ chức quốc tế thiếu thiện cảm với Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo; tuyên truyền luận điệu “Dương Văn Mình sẽ làm Chúa, Vua của người Mông”. Trước tình hình trên, chính quyền các địa phương đã kiên trì tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân không tin, không nghe theo “Tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Minh”, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tuân thủ các quy định của pháp luật.

Thế nhưng khi chính quyền tiến hành cưỡng chế, tháo dỡ “nhà đòn” (nhà chứa đồ tang); giải tán việc tổ chức “Tết chung”, sinh nhật Dương Văn Mình, lễ kỷ niệm “Ngày thành lập tổ chức Dương Văn Minh”…, thì số đối tượng cốt cán, quá khích kích động, xúi giục người dân tập trung đông người gây cản trở an ninh trật tự (ANTT), lấn lướt, chống đối chính quyền cơ sở, ngăn cấm không cho con, em đi học, không nhận hỗ trợ xoá đói, giảm nghèo, lôi kéo khiếu kiện, tái dựng “nhà đòn”; không tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII; Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp 2013 cho đến nay…. Không dừng lại ở đó, để gây áp lực, đòi yêu sách với chính quyền, các đối tượng còn thu, truyền tải qua mạng xã hội và cung cấp cho bên ngoài sử dụng vũ cáo chính sách, pháp luật của ta nhằm đòi yêu sách

Địa bàn tổ chức Dương Văn Mình hoạt động phần lớn ở các tỉnh phía Bắc, nơi cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn... Khi Dương Văn Mình chết, các đối tượng vẫn tiếp tục lợi dụng các hoạt động tôn giáo nhằm “thần thánh hóa, tôn vinh Dương Văn Mình”; đồng thời tìm chọn, tiến cử người thay thế để lãnh đạo tổ chức”.

Nhìn vào bản lý lịch của Dương Văn Mình có thể thấy được ông ta là người như thế nào?.  Vào năm 1989, sau khi bị ảnh hưởng luận điệu tuyên truyền (đài FEBC phát băng tiếng Mông từ Phillipines) về “Vàng Chứ”, ngày 1/8/1989, đối tượng tuyên truyền cho số cốt cán tích cực, cho rằng “Chúa Jesu nhập vào Dương Văn Mình, vua, chúa của người Mông” và lan rộng luận điệu ra khắp các địa bàn có đông bao Mông sinh sống ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai.

Đối tượng mà Dương Văn Mình nhằm vào là những người dân hiền lành, nhẹ dạ cả tin ở các tỉnh miền núi phía bắc. Bị những lời nói u mê lôi kéo, không ít người dân tộc Mông nhẹ dạ, cả tin đã bỏ việc làm ăn, bán tài sản để nộp tiền cho đối tượng... Khi còn sống, cuộc sống của Dương Văn Mình và các đối tượng cộm cán trong ổ nhóm rất vương giả, trong khi những người tin và theo “Tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình” thì đa phần có cuộc sống rất khó khăn. Một số người dân khi đã tham gia thì bị mất hết nhà cửa, rơi vào cảnh ngộ khó khăn do đã nộp tiền cho các đối tượng chân rết đã tố cáo với cơ quan chức năng.

Vào năm 1990, Dương Văn Mình bị cơ quan Cảnh sát điều tra bắt giữ và truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân và hành nghề mê tín dị đoan gây hậu quả nghiêm trọng”. Với hành vi phạm tội trên, đối tượng đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang tuyên án 5 năm tù giam. Song bản án trên không làm đối tượng thay đổi bản chất, không ăn năn, hối cải, sửa chữa tiến bộ. Sau khi ra tù, Dương Văn Mình vẫn tiếp tục hoạt động tuyên truyền. Năm 1995, Dương Văn Mình bỏ trốn khỏi địa phương; đối tượng sau đó đã ra mắt cái gọi là “tín ngưỡng Dương Văn Mình”, tự phong làm “Giáo chủ”. Đối tượng sau đó còn yêu cầu chính quyền địa phương công nhận “Tín ngưỡng Dương Văn Mình là tín ngưỡng của người Mông”.

Cuối năm 2021, Dương Văn Mình chết do bệnh tật. Hơn 30 năm qua, đến nay có lẽ người dân sẽ hiểu hơn về bản chất của Dương Văn Mình...

Đã xác định được nghi phạm đe dọa bắn hạ máy bay Vietnam Airlines

Theo một nguồn tin cho hay, cơ quan chức năng Nhật Bản đã xác định được đối tượng dọa bắn máy bay Vietnam Airlines khi qua Vịnh Tokyo trên đường về Việt Nam.

Theo đó, nghi phạm là một người đàn ông Nhật Bản. Đối tượng này theo dõi thông tin chuyến bay được đăng tải công khai trên mạng và phát sinh hành động đe dọa an ninh an toàn. Trong toàn bộ vụ việc, đối tượng thực hiện hành vi đe dọa một mình, không có đồng phạm.

“Qua thẩm vấn cho thấy nghi phạm khai báo có hành vi đe dọa bắn hạ máy bay của Việt Nam nhưng không có động cơ, không có mục đích”, nguồn tin cho hay.

Trước đó, ngày 5/1/2022, chuyến bay VN5311 sử dụng máy bay B787-868 từ Narita - Nhật Bản về Hà Nội (NRT-HAN) đã bị đe doạ.

Đáng chú ý, thông tin ban đầu ghi nhận được là người này có những biểu hiện về vấn đề thần kinh không bình thường. Việc đe dọa an ninh an toàn được xác định là có nhưng không nguy hiểm.

Hiện nay, cơ quan chức năng Nhật Bản vẫn đang tiếp tục xác minh làm rõ vụ việc và chưa có kết luận chính thức.

Trước đó, ngày 5/1/2022, chuyến bay VN5311 sử dụng máy bay B787-868 từ Narita - Nhật Bản về Hà Nội (NRT-HAN), khởi hành lúc 10h30 (giờ địa phương) gồm 15 thành viên tổ bay (12 tiếp viên và 3 phi công), trong đó có 2 cơ trưởng cùng 47 hành khách.

Khoảng 11h10' (giờ địa phương), chi nhánh VNA tại Nhật Bản nhận được 1 cuộc điện thoại từ đối tượng giọng nam giới tự xưng là người Mỹ, nói tiếng Nhật. Đối tượng này đe doạ “chuyến bay VN5311 tốt nhất là quay lại Narita, nếu không sẽ bị bắn hạ khi bay qua Vịnh Tokyo”.

Thời điểm này, chuyến bay VN5311 bay được khoảng 40 phút và chuẩn bị bay qua Vịnh Tokyo. Ngay sau khi nhận cuộc điện thoại đe dọa nêu trên, Chi nhánh Vietnam Airlines tại Nhật Bản báo cáo nhanh vụ việc về Vietnam Airlines. Doanh nghiệp này sau đó báo cáo vụ việc cho Nhà chức trách Nhật Bản, Cục Hàng không Việt Nam và các cơ quan chức năng của Bộ Công an, đồng thời triệu tập cuộc họp của Ủy ban Khẩn nguy và Tiểu ban chỉ đạo phòng chống khủng bố của doanh nghiệp.

Nguồn: Báo CAND

Hà Nội bác thông tin học sinh tạm dừng đến trường từ 17/2

Ngày 14/2, trên một số diễn đàn mạng xã hội lan truyền văn bản tờ trình của Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Hà Nội về việc cho học sinh tạm dừng đến trường từ 17/2. Tuy nhiên, lãnh đạo Sở GD&ĐT xác nhận, văn bản này ban hành từ năm 2021 và thông tin cho học sinh Hà Nội tạm dừng đến trường từ ngày 17/2 là không chính xác.

Theo Sở GD&ĐT Hà Nội, hiện nay, học sinh Hà Nội từ lớp 7 đến lớp 12 ở 12 quận nội thành và học sinh từ tiểu học đến cấp THPT của 18 huyện, thị xã trên địa bàn vẫn đang học trực tiếp ở trường bình thường.

Theo Sở GD&ĐT Hà Nội, văn bản lan truyền trên mạng về việc học sinh tạm dừng đến trường từ ngày 17/2 được ban hành từ năm 2021.

Nhằm đảm bảo việc học trực tiếp ở các trường diễn ra an toàn, mới đây Sở GD&ĐT Hà Nội có văn bản gửi các phòng giáo dục và đào tạo quận, huyện, thị xã, các nhà trường lưu ý một số nội dung khi tổ chức dạy và học trực tiếp.

Sở GD&ĐT Hà Nội yêu cầu các nhà trường rà soát, điều chỉnh kế hoạch giáo dục cho phù hợp với thực tiễn; sắp xếp lại chương trình, kế hoạch dạy học theo nội dung điều chỉnh, tinh giản và bảo đảm thích ứng; đánh giá, phân loại kết quả học trực tuyến, học qua truyền hình của học sinh. Căn cứ kết quả rà soát việc học tập online (trực tuyến), học qua truyền hình, nhà trường tổ chức ôn tập, củng cố, bổ sung nội dung kiến thức phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh.

Trước đó, ông Trần Thế Cương, Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội cũng cho biết: Sau khi học sinh lớp 1 đến lớp 6 tại 18 huyện, thị xã đi học trực tiếp, Sở GD&ĐT Hà Nội sẽ đánh giá sơ bộ, đồng thời căn cứ tình hình dịch bệnh để xây dựng lộ trình cho học sinh các khối lớp còn lại đi học trực tiếp. Nếu các điều kiện bảo đảm an toàn, Sở GD&ĐT Hà Nội dự kiến sẽ báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của UBND thành phố cho phép học sinh từ lớp 1 đến lớp 6 tại 12 quận nội thành đi học trực tiếp từ ngày 21/2.

Nguồn: Báo CAND

Việc khó, có Bộ đội Cụ Hồ

Đặc trưng cơ bản đầu tiên của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được khái quát trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương (sau đây gọi là Nghị quyết 847), nêu rõ một thành tố quan trọng và nổi bật: “Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao”.

Không chỉ là sự khẳng định một đặc trưng đã được chứng minh qua thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, mà nghị quyết còn nhấn mạnh một phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ cần được gìn giữ, phát huy trong giai đoạn cách mạng mới.

Có thể khẳng định, trong lịch sử, hiếm có quân đội nào trên thế giới luôn gắn bó máu thịt, không ngại hy sinh, gian khổ, sẵn sàng xả thân bảo vệ nhân dân trong mọi điều kiện, hoàn cảnh như Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Điều đó được hình thành ngay từ những ngày đầu thành lập, xây đắp nên truyền thống cao đẹp của Quân đội ta trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người trực tiếp sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện QĐND Việt Nam đã khái quát: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đức hy sinh, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ của Bộ đội Cụ Hồ được khẳng định rõ ràng, dứt khoát ngay ở lời thề thứ nhất trong ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của QĐND Việt Nam: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít... Tinh thần hy sinh, quên mình, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ trở thành sức mạnh của đội quân bách chiến, bách thắng và là niềm tự hào, kiêu hãnh của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng cũng như quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta khẳng định, một trong những điểm cốt lõi, đặc trưng làm nên giá trị, phẩm chất, nhân cách Bộ đội Cụ Hồ là đức hy sinh, tinh thần vượt qua mọi gian khó, dám xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Phẩm chất cao quý đó vừa là hạt nhân, vừa là tiêu điểm soi rọi vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Bộ đội Cụ Hồ, trở thành một giá trị văn hóa tinh thần bền vững của QĐND Việt Nam, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một trong những chuẩn mực cao quý nhất của Bộ đội Cụ Hồ.    

Sinh ra trong khói lửa chiến tranh, Bộ đội Cụ Hồ đã tạc vào lịch sử dân tộc một tượng đài tuyệt đẹp về đức hy sinh, tinh thần vượt khó và dám nhận nhiệm vụ khó. Đức hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được khẳng định ngay trong quá trình thực hiện các chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Cán bộ, chiến sĩ đồng lòng, không ngại khó khăn, thử thách, hiểm nguy, khi có lệnh là lên đường, sẵn sàng xông pha vào những nơi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều đồng chí sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí chấp nhận đánh đổi cả tính mạng của mình để huấn luyện giỏi, SSCĐ cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; không quản ngại khó khăn, gian khổ để cứu giúp nhân dân; vượt qua nguy hiểm, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh... Đó là sự kế thừa và phát huy đức hy sinh, tinh thần vượt khó, tiên phong làm nhiệm vụ khó của Bộ đội Cụ Hồ trong thời bình.

Rõ ràng, càng trong gian khổ, ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao của Bộ đội Cụ Hồ càng tỏa sáng, góp phần bồi dưỡng nhận thức, tư tưởng, tình cảm, khơi dậy và nhân lên mặt tích cực trong nhân dân. Tuy nhiên, những phẩm chất đó không phải là sản phẩm tự phát, bất biến, mà là kết quả tất yếu của quá trình lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện không ngừng và luôn vận động, phát triển phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội cũng như yêu cầu xây dựng quân đội qua từng giai đoạn cách mạng.  

Trong tình hình hiện nay, khi nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, chúng ta đang phải đối mặt với không ít thách thức từ tác động của mặt trái kinh tế thị trường; tình trạng tham nhũng, lãng phí, thực dụng, phi đạo đức, phản văn hóa... Thách thức gay gắt là, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội, hòng làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, niềm tin vào Đảng, chế độ trong mỗi cán bộ, chiến sĩ. Nghị quyết 847 chỉ rõ: Còn một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức chưa sâu sắc, trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ chưa cao; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, băn khoăn dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình... Thực trạng trên chi phối không nhỏ đến việc rèn luyện, giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và quân đội. Bởi vậy, việc tiếp tục phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, trong đó tiếp tục đề cao tinh thần dám chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, là một trong những mục tiêu mà Nghị quyết 847 đặt ra trước yêu cầu xây dựng quân đội trong điều kiện mới.

Đề cập đến những giải pháp liên quan, nghị quyết của Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: Tăng cường công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng; đề cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo; phát huy vai trò các tổ chức, lực lượng trong phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, thực sự là tấm gương mẫu mực; thực hiện tốt cơ chế, chính sách, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội...

Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó quân đội đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, việc giữ gìn, khơi gợi, phát huy phẩm chất quý báu: "Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao" càng có giá trị thực tiễn to lớn. Để quán triệt và thực hiện hiệu quả các giải pháp mà Nghị quyết 847 nêu ra, trước tiên, công tác tuyên truyền, giáo dục của các cơ quan, đơn vị phải tập trung làm rõ nội hàm của những phẩm chất quý báu đó, đồng thời đi sâu phân tích những yếu tố tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ để có biện pháp ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín quân đội, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ. Việc làm này phải được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều biện pháp, hình thức, phương tiện, nhất là hệ thống thông tin đại chúng; gắn công tác tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, xây dựng lề lối, tác phong khoa học, bám sát cơ sở, địa bàn. Từ nhận thức đúng, đề cao ý thức trách nhiệm của các cấp ủy và mọi cán bộ, đảng viên trong phấn đấu, rèn luyện theo phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, nhất là những việc khó, việc mới, nhiệm vụ hiểm nguy.

Trong giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, Nghị quyết 847 xác định: Thực sự mẫu mực về phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không tham vọng quyền lực, tham nhũng, lãng phí, cơ hội, cửa quyền, tư duy nhiệm kỳ; luôn đề cao trách nhiệm, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo nền tảng vững chắc cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghị quyết. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp đóng vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, xây dựng đơn vị và rèn luyện phẩm chất, nhân cách của bộ đội. Cán bộ, đảng viên tốt sẽ là tấm gương sáng để mọi người học tập, noi theo, nhất là những việc mới, việc khó, đòi hỏi ý chí, nghị lực cao. Có như vậy, bộ đội mới yên tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy, cán bộ chủ trì và uy tín của cán bộ, đảng viên, ra sức phấn đấu, rèn luyện, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Cùng với tích cực đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xuyên tạc phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, việc thực hiện tốt cơ chế, chính sách, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội và kịp thời đóng vai trò hết sức quan trọng để khích lệ tinh thần tận hiến, tiên phong nhận nhiệm vụ khó của mọi cán bộ, chiến sĩ. Các cơ quan, đơn vị cần quán triệt sâu sắc và thực hiện sáng tạo, phù hợp giải pháp mà nghị quyết đã chỉ trong việc chủ động nghiên cứu, đề xuất việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với quân đội và hậu phương quân đội; chính sách tuyển dụng, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; chính sách đãi ngộ, nhất là lực lượng làm nhiệm vụ đặc biệt, nơi biên giới, biển, đảo...

“Việc khó, có Bộ đội Cụ Hồ”-lời khen ngợi đầy trân trọng của nhân dân dành cho những cống hiến, hy sinh trong những ngày chung tay với đồng bào vượt khó trong đại dịch và nhiều thử thách, hiểm nguy, cũng là việc làm, phẩm chất được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng minh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp mà Nghị quyết 847 đề ra, tinh thần chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao nói riêng, phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ nói chung sẽ tiếp tục được phát huy và tỏa sáng.

Nguồn: báo QĐND

Việt Nam luôn nỗ lực để bảo đảm nhân quyền cho mọi người dân

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục tiêu phấn đấu”; “Phát triển con người toàn diện và xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Quyền con người được khẳng định trong bản Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1992 và 2013. Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 Điều. Trong đó, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có điều luật nhiều nhất, gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49).

Để có cơ sở pháp lý thúc đẩy và bảo vệ, bảo đảm quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Tính từ năm 2014 đến nay, Quốc hội nước ta đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hơn 100 văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp 2013. Trong số đó có những luật cơ bản, quan trọng như: Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, Luật Trưng cầu dân ý 2015, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016, Luật Trẻ em 2016, Luật Báo chí 2016, Luật Tiếp cận thông tin 2016, Luật An ninh mạng 2018, Luật Đặc xá 2018… Việc hoàn thiện khung pháp luật về quyền con người, quyền công dân nói trên đã phản ánh đúng bản chất của chế độ ta, đó là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tăng cường cơ chế dân chủ, công khai để mọi cá nhân trong xã hội đều có thể tham gia xây dựng, quản lý xã hội, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, cũng như tạo ra khuôn khổ pháp lý để các cơ quan nhà nước hoạt động tốt hơn, phục vụ tốt hơn nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân.

Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác ban hành. So với nhiều nước trong khu vực và các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên các công ước quốc tế về quyền con người. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Việt Nam đã phê chuẩn hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế về nhân quyền. Việt Nam luôn khẳng định trên thực tế là thành viên nỗ lực tham gia các công ước quốc tế với tinh thần, trách nhiệm cao nhất, được nhiều tổ chức quốc tế, các quốc gia đánh giá cao.

Mặc dù nước ta đang gặp không ít những trở ngại, thách thức do thiên tai, dịch bệnh và từ sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị nhưng vấn đề nhân quyền của Việt Nam luôn được thực thi trên thực tế. Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và vững chắc về nhân quyền. Điều đó không chỉ thể hiện ở những nỗ lực của chúng ta trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà còn được thể hiện ở việc bảo đảm quyền còn người, quyền công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đánh giá về nhân quyền cần phải đảm bảo cách nhìn khách quan, toàn diện, không thể phán theo kiểu “thầy bói xem voi”, không thể lấy một số vụ việc tiêu cực, những hiện tượng sai lệch mà quy chụp thành bản chất. Những thông tin để làm căn cứ đánh giá, báo cáo, xếp loại nhân quyền Việt Nam của một số tổ chức quốc tế thiếu thiện chí đều khai thác từ số đối tượng thù địch, phản động, bất mãn, cơ hội chính trị, số này luôn có những hành động hủy hoại mọi nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong vấn đề nhân quyền. Khi không có bất kỳ các hoạt động khảo sát, trải nghiệm vấn đề nhân quyền của một quốc gia thì mọi đánh giá về nhân quyền của quốc gia đó đều mang tính chủ quan, thiếu tính thực tiễn, sai lệch. Mặt khác, không thể mượn danh nhân quyền để tung hô cho lối sống tự do “vô pháp” để biện minh việc làm sai trái, quay lưng lại Tổ quốc, dân tộc.

Vẫn chiêu bài cũ rích: “chọc gậy bánh xe” của các thế lực phản động khi xuyên tạc, bôi nhọ Quân đội

Gần đây, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam một số quân nhân thuộc cơ quan, vị trong Quân đội để điều tra những vi phạm pháp luật trong quá trình công tác về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là việc xử lý cần thiết nhằm giữ gìn kỷ cương phép nước, kỷ luật quân đội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng vụ việc trên để xuyên tạc, bôi nhọ quân đội. Hành vi đen tối đó chính là chiêu bài cũ rích: “chọc gậy bánh xe” của các thế lực phản động.

Lợi dụng sự việc trên lập tức được một số trang mạng xã hội xuyên tạc, “chọc gậy bánh xe”, tạo dựng mâu thuẫn nội bộ với những luận điệu phản động, suy diễn. Từ những hiện tượng đơn lẻ, hành vi vi phạm của một số cá nhân..., các thế lực thù địch xuyên tạc thực tiễn, hướng lái sang luận điệu xưa cũ khi “khuyến cáo” Đảng và Nhà nước “xem lại” chủ trương quân đội làm kinh tế... Nghiêm trọng hơn, từ những hiện tượng nêu trên, một số trang thông tin điện tử, facebook bới móc, thêm thắt, dắt dây, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Bộ Quốc phòng.

Những luận điệu xuyên tạc, gây kích động lần này cũng chỉ là “bổn cũ soạn lại”, không khác nhiều so với những lần trước mỗi khi Đảng, Nhà nước, quân đội phát giác và thực hiện quy trình tố tụng với các cán bộ vi pháp pháp luật. Lần này, vẫn với chiêu thức cũ, chúng đã biến những sự việc cụ thể và sai phạm của các cá nhân, để xuyên tạc, phủ nhận chủ trương đúng đắn trong tham gia xây dựng kinh tế của doanh nghiệp quân đội và bôi nhọ lãnh đạo cấp cao. Từ đó, hạ thấp uy tín của quân đội, phá hoại sức mạnh, chỗ dựa của Đảng, Nhà nước và nhân dân, công phá vào “thành trì của niềm tin”. Luận điệu thâm độc ấy cần được vạch trần, làm rõ và “bài trừ” ngay tức khắc!

Cảnh giác với các luận điệu tuyên truyền kêu gọi xóa bỏ Điều 117, bộ luật hình sự!

Trong những năm qua, các đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước ta không ngừng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền đòi xóa bỏ Điều 117, Bộ luật hình sự để đạt được các mục tiêu, ý đồ nhằm phá vỡ quy tắc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, thúc đẩy hoạt động lợi dụng “quyền tự do ngôn luận” để tuyên truyền chống phá chế độ, tạo tiền đề, điều kiện để chuyển hóa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các luận điệu tuyên truyền kêu gọi xóa bỏ Điều 117, Bộ luật hình sự trong thời gian qua được các đối tượng phản động, chống đối tuyên truyền rộng khắp, đặc biệt là trên không gian mạng xuất hiện nhiều thông tin tuyên truyền, đưa ra các lý lẽ yêu cầu Việt Nam xóa bỏ điều luật này. Đài RFA (Đài Á Châu Tự do) dẫn lời của Ủy ban Bảo vệ nhà báo (CPJ) cùng một số đối tượng chống đối trong nước vu cáo rằng Điều 117, Bộ luật hình sự là “mơ hồ, dập tắt tiếng nói trái chiều”.  Trước đó, diễn đàn “Văn Việt” cũng đã đăng tải một bức thư của nhóm hành nghề luật sư ở hải ngoại kêu gọi hủy bỏ Điều 117, Bộ luật hình sự với nội dung qui kết rằng: “Điều 117 vi phạm Hiến pháp và đang sử dụng như là một phương tiện trấn áp nhằm phục vụ cho mục tiêu chính trị dưới danh nghĩa luật pháp quốc gia…”. Chúng kêu gọi xóa bỏ Điều 117, Bộ luật hình sự với luận điệu “Điều 117 là hạn chế và cản trở quyền công dân qui định tại điều 25 Hiến pháp…”.

Điều 117, Bộ luật hình sự quy định: “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung từ Điều 88 Bộ luật hình sự năm 1999 với một số điểm mới về tên điều luật, nội dung điều luật theo hướng qui định cụ thể hơn và mở rộng phạm vi khách quan của tội này. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Bộ luật hình sự nói chung, Điều 88 của Bộ luật hình sự cũ nói riêng nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn, các mặt khách quan trong công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Trước đó, Điều 88 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng là điều luật mà các đối tượng chống phá Nhà nước ra sức tuyên truyền, yêu cầu xóa bỏ. Sau khi điều luật này được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo Điều 117, Bộ luật hình sự 2015 thì các phần tử chống đối cũng không từ bỏ âm mưu, mà tiếp tục “bài ca” kêu gọi xóa bỏ nhằm đạt được âm mưu, ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước với mục tiêu xóa bỏ vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế cho thấy, mọi hoạt động tuyên truyền, kêu gọi xóa bỏ Điều 117, Bộ luật hình sự của các đối tượng phản động, chống phá là một đòi hỏi phi lý, đi ngược lại với lợi ích chung của toàn xã hội. Phải khẳng định rằng, Điều 117, Bộ luật hình sự nói riêng, Bộ luật hình sự nói chung được ban hành hoàn toàn hợp hiến, không vi hiến như các đối tượng chống đối vẫn tuyên truyền, xuyên tạc. Việc thảo luận, lấy ý kiến trước khi ban hành điều luật này dựa trên các căn cứ, cơ sở ý kiến đóng góp của các cơ quan, ban, ngành, của toàn xã hội và tuân theo một quy trình rất chặt chẽ, đồng thời nhận được sự đồng thuận của toàn xã hội, ngoại trừ các đối tượng có mục đích, ý đồ xấu. Các dấu hiệu, hành vi liệt kê trong Điều 117, Bộ luật hình sự đe dọa đến an ninh quốc gia, chế độ và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, việc ban hành điều luật này là hoàn toàn phù hợp với các quy định của Hiến pháp.

Mỗi công dân Việt Nam, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hãy cảnh giác trước các luận điệu tuyên truyền kêu gọi xóa bỏ Điều 117, Bộ luật hình sự của các thế lực thù địch, phản động đối với Đảng, nhà nước ta.

Cảnh giác trước luận điệu vu cáo “tự do báo chí”

Trong những năm qua, một số tổ chức có quan điểm, tư tưởng chống phá Việt Nam như:  Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ), Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ngôi nhà tự do (Freedom House), Đài Á châu tự do (RFA)... đăng tải nhiều bài viết, hình ảnh xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí”, vi phạm quyền con người, quyền tự do ngôn luận đã được nêu trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.

Thủ đoạn của luận điệu này thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, lợi dụng vào vấn đề tự do báo chí, những điểm khác nhau trong quy định của luật pháp Việt Nam và các nước để xuyên tạc. Từ đó nhằm làm mất niềm tin vào nền báo chí, những thông tin, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà báo chí chuyển tải. Thứ hai, cố tình đánh đồng hiện tượng để quy kết thành bản chất. Lấy sự việc một số đối tượng tự xưng là “nhà báo độc lập”, “nhà báo tự do”, blocger… vi phạm pháp luật Việt Nam để quy kết thành bản chất là Việt Nam không có tự do báo chí. Thứ ba, kích động, cổ súy, bảo trợ cho những đối tượng lợi dụng tự do báo chí nói trên để chống phá Việt Nam. Thứ tư, lợi dụng vấn đề tự do báo chí để công kích, lấy đó như một cái cớ để tổ chức phản động và tổ chức khác vốn có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với Việt Nam báo cáo, suy diễn, xuyên tạc, làm méo mó hình ảnh đất nước, con người, tình hình Việt Nam, từ đó gây sức ép lên nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao của Việt Nam.

Đằng sau luận điệu xuyên tạc Việt Nam không có tự do báo chí là ý đồ sâu xa cố tình phê phán thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hệ thống chính trị trong đời sống xã hội ở Việt Nam; cố tình ca ngợi, cổ súy, hướng lái, thúc đẩy cái gọi là giá trị “tự do, dân chủ, nhân quyền” phương Tây. Do đó, vấn đề “tự do báo chí” cần được hiểu đúng và nhận diện rõ âm mưu, ý đồ xấu để lên án, đấu tranh.

Chúng ta cần khẳng định rằng, tự do báo chí là quyền tự do cơ bản, thiêng liêng, biểu hiện cho sự tiến bộ, phát triển của xã hội. Mặt khác cũng cần hiểu tự do báo chí không phải là tự do chung chung, tự do vô bờ bến, tự do không có giới hạn mà bao giờ nó cũng phải gắn và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vấn đề có tính nguyên tắc trong tư tưởng lập pháp được mọi quốc gia thừa nhận, vận dụng, thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật là tự do luôn gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ. Trong khuôn khổ, quy tắc ấy, tự do báo chí được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ; báo chí sẽ thực hiện tốt vai trò của mình, tạo môi trường thông tin lành mạnh, là phương tiện hữu hiệu thúc đẩy phát triển xã hội, phục vụ mục tiêu tốt đẹp cho con người.

Thực tế, tự do báo chí ở phương Tây mà một số đối tượng ca ngợi, cổ súy có phải là thứ tự do không giới hạn, nằm ngoài khuôn khổ pháp luật? Theo Hiến pháp Hoa Kỳ (năm 1791) thì Quốc hội Mỹ không được phép ban hành bất cứ văn bản nào hạn chế tự do ngôn luận và báo chí. Nhưng theo nhiều văn bản pháp luật khác, ví dụ đạo luật năm 1798 thì sẽ là tội phạm nếu viết, in, phát biểu và phổ biến những văn bản sai sự thật, cố ý xúc phạm hay chống lại chính quyền. Hay như ở Ðức, các quy định cụ thể về tự do báo chí thuộc thẩm quyền của các tiểu bang. Ví như, Luật Báo chí ở tiểu bang Bavaria ghi rõ: “Chống lại các loại văn chương bẩn thỉu và độc hại là nhiệm vụ của Nhà nước và các cơ quan địa phương. Sự hưởng thụ tự do cho mỗi người đều phụ thuộc vào việc tất cả mọi người thực hiện nghĩa vụ trung thành với nhân dân, Hiến pháp, Nhà nước và luật pháp”. Ðức còn có lực lượng của các cơ quan nhà nước theo dõi sách báo, tin tức do các cá nhân và tổ chức phát tán trên mạng để thu thập tin tức và bằng chứng, khi cần thiết sẽ phục vụ cho các thủ tục xét xử hình sự… Như vậy, tự do báo chí ở phương Tây hay bất cứ quốc gia nào cũng không nằm ngoài khuôn khổ pháp luật. Hiểu tự do ngôn luận, tự do báo chí như vậy sẽ giúp nhìn nhận, đánh giá khách quan về tự do báo chí ở Việt Nam.

Thực tiễn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao là tình hình nhân quyền ở Việt Nam nói chung, tự do ngôn luận, báo chí nói riêng đã liên tục phát triển. Tuy nhiên, bất chấp thực tế đó, các thế lực thù địch, phản động vẫn coi đây là một chiêu bài để chống phá Việt Nam. Vì vậy, mỗi công dân Việt Nam, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hãy nêu cao cảnh giác trước luận điệu vu cáo “Tự do báo chí” của các thế lực thù địch, phản động đối với Đảng, nhà nước ta.

Các giải pháp đấu tranh phòng, chống thủ đoạn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vsững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trước hết là đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước bên cạnh mặt thuận lợi, thời cơ, cũng có nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Chúng ta đứng trước nhiều vấn đề mới phải xử lý, nhiều việc hết sức phức tạp phải giải quyết. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, hơn bao giờ hết, phải quán triệt và thực hiện tốt các vấn đề căn cốt sau:

Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh, phản bác thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách, lâu dài, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực xây dựng nội bộ vững mạnh, để không có ai dao động trước những thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. 

 Thứ hai, luôn coi trọng và thực hiện thường xuyên việc bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên. Những cán bộ có biểu hiện đặc quyền, đặc lợi, xa hoa, trụy lạc đều bị xử lý nghiêm khắc, thích đáng. Những kết quả đạt được trong công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng thời gian qua đã thể hiện rõ tính quyết liệt, thường xuyên và “không có vùng cấm”. Đại hội XIII của Đảng xác định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” . Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Thứ ba, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh “phải nhốt quyền lực vào lồng cơ chế, pháp luật”. Theo đó, Cương lĩnh, Điều lệ, kỷ luật Đảng; Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; sự tín nhiệm của nhân dân là những yếu tố quyết định đến chất lượng giám sát quyền lực, khắc phục những biểu hiện tha hóa, lộng quyền, củng cố và phát huy vai trò, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Xét trên phương diện thực tiễn, phần lớn đội ngũ cán bộ đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước luôn giữ vững tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; cống hiến trí tuệ, tài năng và nhiệt huyết, đóng góp xứng đáng vào “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” của đất nước. Vì thế, không thể “lấy ví dụ” một số trường hợp suy thoái, sai phạm đã bị xử lý kỷ luật, truy tố để coi là “cái phổ biến” và “là bản chất” của Đảng ta.

Thứ tư, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ, nghị quyết, quy định của Đảng và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với sai phạm. Kiên quyết không để các thế lực thù địch lợi dụng những sơ hở trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng đề chống phá. Đồng thời, tăng cường đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, nhất là âm mưu, thủ đoạn lôi kéo cán bộ, đảng viên và nhân dân để gieo rắc sự hoài nghi về vai trò và khả năng lãnh đạo của Đảng ta. Lãnh đạo, chỉ đạo các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện tốt chức năng tuyên truyền, giáo dục, định hướng về tư tưởng chính trị, hướng dẫn hành động đúng.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát huy những thành quả cách mạng đã đạt được; tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn, không quá say sưa với thắng lợi, ngủ quên trên vòng nguyệt quế. Trước mắt, và coi đây là giải pháp chiến lược, chủ đạo nhất để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.

Với niềm phấn khởi, tự hào, chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất định sẽ hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, trong đó có nhiệm vụ chính trị trọng tâm và có ý nghĩa trọng đại hiện nay là tổ chức thực hiện có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và vi phạm Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” .

Đấu tranh, bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên; trong đó, cấp ủy và tổ chức Đảng các cấp giữ vai trò nòng cốt.

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẪN LÀ LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ DUY NHẤT CÓ ĐỦ KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC ĐI TỪ THẮNG LỢI NÀY ĐẾN THẮNG LỢI KHÁC.

Dù có “lắm mưu nhiều kế” thế nào đi chăng nữa, thì các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị cũng không thể bác bỏ được một sự thật hiển nhiên là: Không ai hết, và hơn tất cả lực lượng chính trị nào khác, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong bài “Kiểm điểm công việc của Đảng” từ hơn 73 năm trước (tháng 1-1949) đã khẳng định: “... Đảng ta là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng ở nước ta”.

Tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2020), trong bài phát biểu, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng một lần nữa tiếp tục khẳng định: “thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Mặt khác, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân.Thực tiễn đó đã khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” . 

Như vậy, chúng ta phải khẳng định rằng, kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng ta vẫn là một tổ chức lãnh đạo duy nhất được đại đa số nhân dân tuyệt đối tin tưởng. Vượt qua những khó khăn, thử thách, thẳng thắn chỉ ra và thật thà sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế, quyết tâm một lòng vì dân, vì nước, Đảng đã lãnh đạo đưa đất nước tiến lên, gặt hái nhiều thành tựu quan trọng. Những thành công bước đầu trong công cuộc đổi mới và hội nhập, sự ghi nhận, tôn trọng, khâm phục về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới đối với Việt Nam - một đất nước từng “không có tên trên bản đồ thế giới”, đời sống nhân dân có những phát triển vượt bậc cả về vật chất và tinh thần... là những minh chứng rõ nhất, đúng nhất, khách quan nhất về vai trò lãnh đạo sáng suốt và tất yếu của Đảng ta.

Điều nguy hiểm từ những luận điệu trên nằm ở chỗ, chúng làm cho một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ và những người thiếu thông tin chính xác về tình hình đất nước, vì mơ hồ và thiếu ý thức nên vô tình “tiếp tay” cho sự vu khống xuyên tạc, vì thiếu bản lĩnh và nhạy cảm chính trị nên dễ “a dua”, đặc biệt, vì thiếu niềm tin và sức đề kháng nên dễ bị nhiễm “căn bệnh hoài nghi, phủ nhận”.  Về vấn đề này, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, đó là cách nhìn nhận, đánh giá thiếu khách quan, đầy thiên kiến: “Còn anh em ngoài Đảng nghi ngờ Đảng thì có một phần. Khuyết điểm là: thấy cây nhưng không thấy rừng. Thấy đảng viên như vậy thì tưởng Đảng cũng như vậy” . Đây đều là những vấn đề không mới nhưng hết sức nguy hiểm nếu như chúng ta không chủ động nhận diện và vạch trần, bác bỏ.

Nhận diện những thủ đoạn phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam

Trong lịch sử phát triển của dân tộc ta, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930) là sự kiện chính trị quan trọng đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Từ đó đến nay, với 92 năm đồng hành cùng dân tộc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được thực tiễn lịch sử khẳng định, ghi nhận và quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Nhưng vẫn xuất hiện sự vu khống, chống đối của các thế lực thù địch, những tiếng nói lạc lõng xuyên tạc với các thủ đoạn hết sức tinh vi cần phải bị vạch trần, bác bỏ...

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng – Thủ đoạn không mới nhưng rất nguy hiểm

Không khó để nhận ra những thủ đoạn của những kẻ chống phá, bất mãn với chiêu trò không mới nhưng hết sức nguy hiểm, thâm độc như: tìm mọi cách bôi nhọ, hạ thấp và tiến tới phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới đến nay. Chúng rêu rao: Thành tựu của đổi mới là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, “là ăn may”. Chúng còn nói xằng rằng, những thành tựu đổi mới nếu có cuối cùng cũng chỉ “chui vào túi của bọn độc tài”, còn nhân dân thì không được thụ hưởng điều gì... Chúng xảo quyệt “lập lờ đánh lận con đen” - đưa ra những hạn chế, khiếm khuyết liên quan đến quá trình lãnh đạo của Đảng, nêu ra những bất cập, khó khăn trong công cuộc đổi mới đất nước... để rồi quy kết, chụp mũ, la lối lên rằng tham nhũng là bản chất của chế độ ta, sự tồn tại của Đảng là căn nguyên dẫn đến mọi trì trệ, yếu kém, sai lầm; muốn đất nước phát triển thì phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng...

Đặc biệt, trong tình hình mới khi mà toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, quyết tâm phòng chống dịch bệnh Covid – 19, chuẩn bị mọi mặt vui Xuân, đón Tết Nhâm Dần, kỷ niệm 92 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam… Thế nhưng các thế lực thù địch, bọn cơ hội chính trị với những chiêu trò lặp đi lặp lại “đến hẹn lại lên”, tung ra những luận điệu xằng bậy, hằn học. Lợi dụng mạng xã hội, chúng lồng ghép “thêm râu thêm ria” bằng những thông tin, hình ảnh “nửa thật nửa giả”... Dù có “đổi mới” bằng hình thức này hay hình thức khác, dù có “cách tân” tinh vi, tiểu xảo đến đâu, thì những “lý lẽ” chúng đưa ra vẫn chỉ là những “âm mưu, thủ đoạn” đã từng “diễn” trong nhiều năm qua, như: Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và xã hội phát triển phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; chỉ có “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mới triệt tiêu được căn nguyên gây ra tham nhũng, tiêu cực; “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sứ mệnh lịch sử”, “không còn đủ khả năng để độc quyền lãnh đạo đất nước”; muốn đất nước phát triển thì phải bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa, đổi bổ sung năm 2013)… Đây là những mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch hiện nay, chúng ta cần phải vạch trần, bác bỏ.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...