Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

Tăng cường hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Lao động Thụy Sĩ

Ngày 27/11, theo giờ địa phương, tại thành phố Bern, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Liên bang Thụy Sĩ của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, đồng chí Nguyễn Thị Hoàng Vân, Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương đã có buổi tiếp ông Alexandre Eniline, đồng Chủ tịch Đảng Lao động Thụy Sĩ và các thành viên Ban Lãnh đạo của Đảng.

Tại buổi tiếp, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi đảng, mỗi nước; chia sẻ kinh nghiệm trong công tác phát triển đảng viên, đặc biệt là đảng viên trẻ và trao đổi về những biện pháp tăng cường hợp tác giữa hai đảng trong thời gian tới.

Đồng chí Nguyễn Thị Hoàng Vân chúc mừng Đảng Lao động Thụy Sĩ đã tổ chức thành công Đại hội toàn quốc; bày tỏ cảm ơn Đảng bạn luôn đoàn kết, ủng hộ Việt Nam trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước; góp phần tích cực thúc đẩy quan hệ giữa hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Thụy Sĩ phát triển tốt đẹp. Đồng chí đề nghị Đảng Lao động Thụy Sĩ tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ và tiếp tục ủng hộ lập trường của Việt Nam trong các vấn đề khu vực và quốc tế, phối hợp trên các diễn đàn đa phương chính đảng.

Ông Alexandre Eniline và các thành viên trong đoàn khẳng định Đảng Lao động Thụy Sĩ hết sức coi trọng quan hệ hợp tác với Đảng Cộng sản Việt Nam, bày tỏ khâm phục trước những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công cuộc Đổi mới, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, đánh giá cao quan hệ tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam - Thụy Sĩ.

Hai bên thống nhất triển khai nhiều biện pháp nhằm tăng cường hợp tác giữa hai Đảng trong thời gian tới vì lợi ích của nhân dân hai nước.

Nguồn: Báo Nhân Dân

Thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - LB Nga

Hôm nay (29-11), Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Liên bang (LB) Nga theo lời mời của Tổng thống LB Nga Vladimir Putin. 

Chuyến thăm chính thức LB Nga đầu tiên của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trên cương vị mới, từ ngày 29-11 đến 2-12, diễn ra trong bối cảnh hai nước đang kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược (2001-2021).

Lịch sử cho thấy mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô và với LB Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và sự biến động của thời đại. Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 30-1-1950, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước sau này.

Thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - LB Nga

Quan hệ hai nước bước vào giai đoạn phát triển mới sau khi ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và LB Nga ngày 16-6-1994. Khuôn khổ quan hệ Việt Nam-LB Nga trong thế kỷ 21 đã được chính thức hóa bằng việc ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược nhân dịp Tổng thống V.Putin thăm Việt Nam (từ ngày 28-2 đến 2-3-2001). Ngày 27-7-2012, hai nước ra Tuyên bố chung về tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. 

Trong những năm qua, trao đổi đoàn cấp cao diễn ra thường xuyên, tạo động lực mạnh mẽ cho việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và LB Nga, trong đó có thể kể đến chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống V.Putin (năm 2001, 2006, 2013), của Thủ tướng D.Medvedev (năm 2012, 2015, 2018); các chuyến thăm LB Nga của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (năm 2014, 2018), của Thủ tướng (nay là Chủ tịch nước) Nguyễn Xuân Phúc (năm 2016, 2019).

Từ năm 2020, mặc dù đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, các cuộc tiếp xúc cấp cao giữa các lãnh đạo chủ chốt của hai nước vẫn được duy trì thường xuyên thông qua điện đàm, hội nghị trực tuyến, như: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng điện đàm với Tổng thống V.Putin (tháng 4-2021), Phó chủ tịch Hội đồng an ninh Nga, Chủ tịch Đảng nước Nga thống nhất D.Medvedev (tháng 2-2021); Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc điện đàm với Tổng thống V.Putin (tháng 9-2021); Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ điện đàm với Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga Valentina Matvienko (tháng 6-2021).

Bên cạnh đó, hai bên duy trì nhiều cơ chế phối hợp và đối thoại như Đối thoại chiến lược Ngoại giao-Quốc phòng-An ninh thường niên cấp Thứ trưởng thường trực Ngoại giao; Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng Quốc phòng... Hai bên đồng quan điểm về nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, phối hợp chặt chẽ và ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế, như: Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN...

Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam-LB Nga thời gian qua phát triển năng động, nhất là khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu có hiệu lực từ tháng 10-2016. Kim ngạch thương mại song phương năm 2020 đạt gần 4,85 tỷ USD, tăng gần 9% so với năm 2019.

Trong 9 tháng đầu năm 2021, kim ngạch thương mại song phương đạt 3,6 tỷ USD, tăng gần 5% so với cùng kỳ năm 2020. Về đầu tư, tính đến tháng 4-2021, LB Nga đứng thứ 25 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 144 dự án và tổng số vốn đăng ký khoảng 944 triệu USD.

Bên cạnh việc triển khai những dự án trong các lĩnh vực hợp tác truyền thống như năng lượng, dầu khí, hai bên đang mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực mới mà Nga có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu như khoa học công nghệ cao và nghiên cứu khoa học, thúc đẩy các dự án trọng điểm, khuyến khích và tạo điều kiện cho các liên doanh Việt-Nga cũng như doanh nghiệp hai nước đầu tư vào mỗi nước.

Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát cho đến nay, hai nước phối hợp chặt chẽ trong ứng phó dịch bệnh, đặc biệt trong cung ứng và chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine ngừa Covid-19 trong giai đoạn hiện nay, bắt đầu triển khai các hợp đồng cung cấp vaccine Sputnik V của Nga cho Việt Nam và hợp tác sản xuất vaccine Nga tại Việt Nam. 

Hợp tác giáo dục-đào tạo tiếp tục là điểm sáng trong quan hệ hai nước. Trước đây, Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo gần 40.000 cán bộ và chuyên gia giỏi thuộc nhiều chuyên ngành. Hiện nay, LB Nga tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực.

Từ năm 2019, LB Nga đã tăng số học bổng cho Việt Nam lên khoảng 1.000 suất/năm. Hiện có khoảng hơn 5.000 sinh viên Việt Nam du học tại Nga. Các hoạt động giao lưu văn hóa được tổ chức thường xuyên, góp phần tăng cường hiểu biết, hữu nghị giữa nhân dân hai nước. 

Cùng với sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-LB Nga, quan hệ quốc phòng song phương tiếp tục được củng cố và tăng cường theo tinh thần “tin cậy, thiết thực, toàn diện, hiệu quả”.

Việt Nam và LB Nga duy trì Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kỹ thuật quân sự cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Hai bên đã tiến hành Đối thoại chiến lược Quốc phòng cấp Thứ trưởng, gần đây nhất diễn ra vào tháng 12-2019. Hai bên tiếp tục ủng hộ và tích cực tham gia các hoạt động đa phương quốc tế do Bộ Quốc phòng hai nước tổ chức, nhất là trong khuôn khổ Hội thao Quân sự quốc tế (Army Games).

Do yếu tố lịch sử, cộng đồng người Việt Nam đã tồn tại và làm ăn, sinh sống tại LB Nga 3 thập kỷ. Với số lượng khoảng 60.000-80.000 người, cộng đồng người Việt Nam tại LB Nga có những đóng góp đáng kể cho đất nước, luôn đi đầu trong các hoạt động từ thiện. Họ chính là những cầu nối quan trọng, thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam-LB Nga phát triển trên mọi lĩnh vực. 

Trong bối cảnh quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh mẽ, chúng ta tin tưởng rằng, chuyến thăm chính thức LB Nga của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc sẽ thành công tốt đẹp, góp phần thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hai nước trong nhiều lĩnh vực hợp tác, như: Chính trị, thương mại-đầu tư, quốc phòng-an ninh, giáo dục-đào tạo, văn hóa, du lịch... đồng thời khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam coi LB Nga là đối tác ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại.

Nguồn: Báo QĐND

Phát huy những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách đỏi mới của Hồ Chí Minh

Hiện nay đất nước ta chuẩn bị bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với thời cơ, vận hội lớn đan xen với không ít khó khăn, thách thức. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững  hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Với giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta trên con đường đổi mới. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo và phát huy những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới của Người.

Thứ nhất, kiên định, vững vàng và không ngừng sáng tạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu đân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Muốn đổi mới thắng lợi, phải kiên định lý tưởng độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng; kiên định đường lối đổi mới. Kiên định, vững vàng, không dao động, đổi mới không đổi mầu, nhưng không giáo điều, bảo thủ mà phải không ngừng sáng tạo. Kết hợp tổng kết sâu sắc, toàn diện thực tiễn đổi mới của đất nước với nắm bắt, dự báo chính xác những chuyển biến mau lẹ của thời cuộc, những xu hướng phát triển mới của thế giới, cập nhật những tri thức mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những bài học thành công của các nước phù hợp với điều kiện nước ta, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, làm cho đường lối đổi mới phản ánh, giải quyết đúng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đất nước, đồng thời phù hợp với xu thế thời đại. Đổi mới không ngừng, đổi mới sáng tạo, đổi mới vững chắc - đó chính là kế thừa, phát triển tư tưởng đổi mới, biện chứng đổi mới Hồ Chí Minh trong bối cảnh lịch sử mới.

Thứ hai, nền tảng đạo đức của đổi mới là lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân, hạnh phúc của con người. Lấy độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và sự giàu mạnh của quốc gia làm mục đích trên hết, trước hết; lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người Việt Nam làm đạo lý đổi mới. Nhân dân là chủ thể của đổi mới và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới; con người là mục tiêu và động lực của đổi mới. Đó chính là bản chất nhân đạo, nhân văn của đổi mới theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đó cũng là giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt của đổi mới. Thoát ly nền tảng đạo đức thì đổi mới không còn ý nghĩa gì.

Thứ ba, đổi mới, phát triển là một quy luật vận động khách quan của lịch sử, là nhu cầu, khát vọng của nhân loại. Toàn cầu hóa và sự phát triển bùng nổ công nghệ thông tin cùng hệ thống kết cấu hạ tầng toàn cầu làm cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tùy thuộc lẫn nhau; hợp tác và hội nhập quốc tế trở thành một xu thế lớn không thể đảo ngược. Tư tưởng và sự chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, về việc tăng cường hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi… còn nguyên vẹn giá trị định hướng con đường đổi mới.

Tranh thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan trọng, song Hồ Chí Minh luôn căn dặn, nguồn lực nội sinh là quyết định, ngoại lực phải kết hợp với nội lực để nhân lên sức mạnh tổng hợp quốc gia; hợp tác, hội nhập nhưng phải giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính.

Thứ tư, đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, muốn giành thắng lợi, Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo phải tự đổi mới, nêu gương đổi mới, trước hết là đổi mới phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân. Hồ Chí Minh là tấm gương lớn, truyền lại bài học lớn về phong cách đổi mới: nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh dạn sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với thực tiễn.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thống nhất với nhau, kết tinh thành lý luận - thực hành đổi mới. “Cống hiến lý luận của Hồ Chí Minh vừa có tính thời sự thiết thực, đáp ứng nhu cầu đương thời của cách mạng, vừa có giá trị lâu dài, là những gợi ý quan trọng và nguồn cảm hứng cho các thế hệ cách mạng về sau. Được hiểu và vận dụng một cách sáng tạo hệ thống luận điểm lý luận của Hồ Chí Minh có khả năng thích hợp với những diễn biến mới hiện nay của lịch sử, sống và phát huy tác dụng lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới”.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh

Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), sau đó được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là: “Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Đời sống mới” (1947), “Dân vận”  (1949), đặc biệt trong bản “Di chúc” thiêng liêng (1965 - 1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc Người đi xa. Từ các các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới.

Trước hết, theo Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường kách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Người nhấn mạnh đó “là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.

Thứ hai, triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý; “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Thứ ba, đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những bước đi thích hợp. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, thực hiện chắc chắn.

Thứ tư, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển; cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.

Thứ năm, sức mạnh của đổi mới là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân; phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước dân chủ.

Thứ sáu, Đảng là linh hồn của đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam và thế giới, bổ sung những tư liệu, vấn đề mà các nhà kinh điển “ở thời mình không thể có được” để đề ra và thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Hồ Chí Minh chỉ dạy: Thế giới ngày ngày đổi mới, xã hội ngày một phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy, cán bộ, đảng viên không thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành động cũng phải phát triển”, “phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

Trải qua hơn 31 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đồng thời với việc kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đặc biệt chú trọng kế thừa, cụ thể hóa tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và văn kiện các đại hội Đảng, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các nhiệm kỳ từ năm 1986 đến nay. Đường lối đổi mới của Đảng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã minh chứng hùng hồn, nếu muốn thích ứng và đối phó mạnh mẽ với những vấn đề mà chủ nghĩa xã hội đang gặp phải, chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát triển những phẩm chất đã thể hiện trong suốt cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài của Người.

Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Hơn 91 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong tiến trình ấy, trên tinh thần “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nguyên tắc hiệp thương dân chủ được coi là “chìa khóa vạn năng” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực tế, các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng do Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Trong đó, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành đùm lá rách, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống dịch bệnh Covid-19, tội phạm, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác cùng với cuộc vận động xã hội, các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”… không chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng mà còn góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó, động lực chủ yếu để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Để khối đại đoàn kết dân tộc được bền chặt, đạt được sự đồng thuận xã hội, đòi hỏi mọi thành viên trong đó phải tôn trọng và hành động theo những nguyên tắc và ý chí chung và mỗi quyết định được thông qua phải là “mẫu số chung”, phản ánh, thể hiện nguyện vọng, lợi ích của toàn xã hội.

Vì thế, để “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(8), cần tập trung thực hiện một số giải pháp căn cốt sau:

Một là, các cấp ủy cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”, góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.

Ba là, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong tham gia xây dựng và hoàn thiện một số chính sách để củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Mặt trận phải đoàn kết rộng rãi, chân thành mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Mặt trận phải đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân để tạo sự đồng thuận, hiệp lực trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, tổ chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; trong đó, mỗi người, mỗi gia đình cố gắng phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng. Bên cạnh đó, tăng cường công tác đối ngoại nhân dân, tích cực vận động, thu hút kiều bào hướng về Tổ quốc, góp sức xây dựng quê hương, đất nước; chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng nước sở tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của kiều bào, đồng thời, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân có thành tích tiêu biểu.

Năm là, nắm bắt kịp thời để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và nỗ lực chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo; bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể và toàn xã hội. Cùng với việc giải quyết đúng đắn và hợp lý các quan hệ lợi ích, cần đẩy mạnh và không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc, coi đó là những yếu tố quan trọng để không chỉ phòng và chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đoàn kết là chiến lược của cách mạng

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Tiếp tục phát huy truyền thống quý báu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”. Vì thế, 8 chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” là mục đích của Đảng và Đảng thực hiện “đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc”, “đoàn kết để xây dựng nước nhà”, cho nên phải “đoàn kết rộng rãi và lâu dài”, “đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố” và “ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Khát vọng dân tộc được độc lập, tự do và thống nhất, nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc là mẫu số chung, là điểm gốc để quy tụ tất cả mọi người dân Việt Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận thống nhất chính là để tập hợp và lãnh đạo quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết đó, Đảng là một thành viên của Mặt trận, đồng thời là lực lượng lãnh đạo, cho nên “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Đồng thời, Đảng không chỉ xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc mà còn phải biến nguồn sức mạnh được tổ chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn đó thành lực lượng vật chất, sức mạnh vật chất. Theo Người, “trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết với các tầng lớp nhân dân lao động khác”.

Trong Mặt trận, việc đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc anh em, giữa đồng bào lương với đồng bào các tôn giáo khác được thực hiện theo phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt, để cùng nhau sống hoà thuận, ấm no, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và nhân nguồn sức mạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp trí thức Việt Nam vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ, làm cho họ trở thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng thời khẳng định liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Thực tế cho thấy, liên minh công - nông - trí (trí thức) không những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển bền vững kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước. Tuỳ theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận có cương lĩnh, điều lệ phù hợp, được tổ chức chặt chẽ, xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí đã luôn lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó chính đoàn kết thực sự, lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau, “là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.

Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ thực sự phát huy được sức mạnh nội sinh khi gắn liền với đoàn kết quốc tế, nghĩa là chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, sức mạnh dân tộc phải gắn với sức mạnh thời đại. Thực tiễn cách mạng cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh đoàn kết 3 nước Đông Dương (Việt Nam - Lào - Campuchia), của các nước xã hội chủ nghĩa và  phong trào nhân dân thế giới ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng là những minh chứng sống động cho việc xây dựng và thực hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bộ Y tế triển khai các biện pháp nào để phòng, chống biến chủng mới Omicron?

Ngày 25-11, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã thông báo ghi nhận biến chủng mới đáng lo ngại của virus SARS-CoV-2, được gọi là Omicron (B.1.1.529) được phát hiện tại một số quốc gia Nam châu Phi như Nam Phi, Botswana...

Hình ảnh so sánh biến thể Delta (bên trái) và Omicron của bệnh viện Bambino Gesu. Ảnh: RT 

Theo các nhà khoa học, biến chủng Omicron được phát hiện lần đầu ở Botswana ngày 24-11 và có tới 32 đột biến ở protein gai, là biến thể nhiều đột biến nhất của virus SARS-CoV-2 và được dự báo có thể lây lan nhanh hơn, nguy cơ tái nhiễm cao hơn các biến chủng khác (biến chủng Omicron có thể lây lan nhanh hơn 500% biến chủng Delta).

Tại Việt Nam đến nay qua giám sát dịch tễ của virus SARS-CoV-2 hiện chưa ghi nhận trường hợp mắc Covid-19 với biến chủng mới Omicron.

Để chủ động kiểm soát tình hình dịch Covid-19 trong nước và đồng thời ngăn chặn nguy cơ xâm nhập và lây lan của biến chủng mới Omicron vào nước ta từ các quốc gia đã ghi nhận và lây lan biến chủng mới, Bộ Y tế đã chỉ đạo hệ thống giám sát tăng cường giám sát dịch Covid-19 nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu bất thường của các ổ dịch Covid-19; yêu cầu các Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur chủ động thực hiện giải trình tự gen các trường hợp nghi ngờ nhiễm biến chủng mới, đặc biệt là những trường hợp có tiền sử dịch tễ về từ các quốc gia khu vực Nam Phi; đồng thời đã báo cáo và đề xuất Chính phủ xem xét chỉ đạo tạm dừng tổ chức các chuyến bay quốc tế đến và đi từ các quốc gia: Nam Phi, Botswana, Namibia, Zimbabwe, Eswatini, Lesotho, Mozambique và tạm dừng cấp phép nhập cảnh với hành khách đến/đi về từ các quốc gia trên.

Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Tổ chức Y tế thế giới và các Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Điều lệ Y tế quốc tế để thông tin kịp thời về các biến chủng của virus SARS-CoV-2 để đưa ra các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với diễn biến tình hình dịch.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2021

Xây dựng quan hệ đối tác Á - Âu ngày càng năng động và phát triển mạnh mẽ

Trải qua 25 năm hình thành và phát triển, ASEM đã trở thành cơ chế đối thoại lớn nhất kết nối các nước châu Á và châu Âu với 53 thành viên, chiếm khoảng 60% dân số, 55% thương mại, 65% GDP và 75% du lịch toàn cầu. Nội hàm hợp tác của ASEM ngày càng được mở rộng, chú trọng thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu, nhất là ứng phó biến đổi khí hậu, thiên tai, quản lý nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, thúc đẩy phát triển bao trùm, triển khai đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao khả năng thích ứng với Cách mạng công nghiệp 4.0...

Có thể nói với bề dày hợp tác trải qua một phần tư thế kỷ, ASEM đã khẳng định vai trò quan trọng trong thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc, vì hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển thịnh vượng tại hai châu lục, đóng góp thiết thực định hình những xu thế lớn và cục diện thế giới trong thế kỷ 21. Trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến những chuyển đổi sâu sắc và toàn diện do tiến bộ vượt bậc của khoa học-công nghệ, các chuyển dịch địa kinh tế-chính trị, tác động đan xen phức tạp của đại dịch Covid-19, các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, quan hệ đối tác và hợp tác Á-Âu càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, có ý nghĩa then chốt đối với sự ổn định và thịnh vượng của thế giới.

ASEM đã xác định cần phải xây dựng tầm nhìn mới nhằm có động lực mới và sức sống mới, đóng vai trò phù hợp trong cấu trúc khu vực và toàn cầu đang định hình. Với chủ đề “Củng cố chủ nghĩa đa phương vì tăng trưởng chung”, HNCC ASEM 13 chính là cơ hội để một cơ chế hợp tác đa phương quy mô lớn như ASEM tiếp tục thể hiện sự phối hợp trong chính sách và hành động cũng như sức hấp dẫn, vị thế và tiềm năng hợp tác ngày càng gia tăng.

Là thành viên tham gia sáng lập, Việt Nam đã ghi những dấu mốc có ý nghĩa trong chặng đường hơn hai thập niên qua của ASEM. Việt Nam được đánh giá là một trong những thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm hàng đầu trong tham gia và thúc đẩy hợp tác ASEM vì hòa bình, hợp tác và phát triển chung của khu vực. Đến nay, Việt Nam đã đề xuất 29 sáng kiến và đồng bảo trợ 31 sáng kiến về những lĩnh vực thiết thực với doanh nghiệp và người dân như văn hóa, y tế, giao thông vận tải, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, khoa học-công nghệ, du lịch, kinh tế, tăng trưởng xanh, an sinh xã hội, phát triển bao trùm, kinh tế số... Trong năm 2021, Việt Nam đã đề xuất và tổ chức thành công Đối thoại chính sách cao cấp ASEM nhằm kỷ niệm 25 năm thành lập cơ chế hợp tác này. Đây là hoạt động hợp tác ASEM có quy mô lớn nhất từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát với sự tham dự, đóng góp tích cực của đại diện cao cấp nhiều nước và tổ chức quốc tế.

Trên nền tảng hợp tác ASEM, quan hệ song phương giữa Việt Nam và các thành viên ASEM cũng được đẩy mạnh và nâng tầm. Các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU) và Liên minh châu Âu (EU) đánh dấu những mốc phát triển mới trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác châu Âu, đồng thời là minh chứng sinh động khẳng định quyết tâm của các nước Á-Âu đẩy mạnh kết nối, liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Cùng với những đóng góp có ý nghĩa, vị thế của Việt Nam trong hợp tác ASEM ngày càng được nâng cao nhờ các thành tựu phát triển kinh tế-xã hội cũng như việc đảm nhiệm thành công các trọng trách đa phương những năm vừa qua.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự HNCC ASEM 13 nhằm tiếp tục khẳng định sự coi trọng của Việt Nam đối với ASEM cũng như cam kết phối hợp chặt chẽ với các thành viên để nâng cao hiệu quả hợp tác ASEM. Việt Nam sẽ tiếp tục chung tay cùng các thành viên xây dựng quan hệ đối tác Á-Âu ngày càng năng động và phát triển mạnh mẽ, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của hai châu lục cũng như toàn cầu.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2021

Nhóm “Báo Sạch” không thể được coi là nhà báo

Dân trí Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao khẳng định, quá trình điều tra, xét xử nhóm "Báo sạch" đã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, quy định của Việt Nam; thông tin đã được báo chí phản ánh công khai.

Tại cuộc họp báo trực tuyến chiều 4/11, khi được hỏi về quan điểm đối với vụ việc 5 nhà báo điều hành trang fanpage trên Facebook có tên là "Báo Sạch" mới đây đã bị tòa án buộc tội "đăng tải những thông tin xuyên tạc" và tuyên án tù, bà Phạm Thu Hằng - Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định, chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013, các văn bản liên quan và được thể hiện rõ ràng qua sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam trong thời gian qua.

Theo bà Hằng, những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam đều được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Cũng như tại các quốc gia khác, tại Việt Nam, các hành vi lợi dụng quyền con người để vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo quy định pháp luật. Thông tin về vụ việc đã được báo chí đưa tin công khai; quá trình điều tra, xét xử được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, quy định của Việt Nam.

"Ngoài hành vi bị xét xử trong vụ án này, bị cáo từng bị tước thẻ nhà báo từ nhiều năm trước vì có hành vi sai phạm gây ảnh hưởng đến cơ quan, doanh nghiệp và người dân. Họ không thể coi là nhà báo"- Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao cho biết thêm.

Như Dân trí phản ánh trước đó, Trương Châu Hữu Danh cùng các thành viên nhóm "Báo sạch" bị công an khởi tố bị can, bắt tạm giam lần lượt từ cuối năm 2020 đến đầu năm 2021.

Cáo trạng của VKSND huyện Thới Lai (Cần Thơ) cáo buộc, năm 2019, Danh cùng với các bị cáo nêu trên tạo fanpage "Báo sạch", group "Làm Báo Sạch" và kênh Youtube "BS Channel" để viết, đăng nhiều bài, video về các chủ đề được dư luận quan tâm trên facebook. Quá trình cùng nhau thành lập các tài khoản nói trên để đăng bài viết, các bị cáo nhận hợp đồng làm truyền thông quảng cáo cho doanh nghiệp thu hơn 2,8 tỷ đồng và chia nhau hưởng lợi.

Sau 2 ngày xét xử, chiều 28/10 vừa qua, TAND huyện Thới Lai (Cần Thơ) đã tuyên bị cáo Trương Châu Hữu Danh 4 năm 6 tháng tù, Nguyễn Phước Trung Bảo 2 năm tù, Nguyễn Thanh Nhã 2 năm tù, Lê Thế Thắng 3 năm tù, Đoàn Kiên Giang 3 năm tù cùng về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hình phạt bổ sung là các bị cáo bị cấm làm báo 3 năm kể từ ngày mãn hạn.

Chính sách nhất quán của Việt Nam tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người

Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 4-11 diễn ra theo hình thức trực tuyến, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị Bộ Ngoại giao đánh giá về việc “5 nhà báo điều hành fanpage Báo Sạch trên Facebook bị buộc tội đăng tải thông tin xuyên tạc và tuyên án tù”, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh, chính sách nhất quán của Việt Nam tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013, các văn bản pháp luật liên quan và được thể hiện rõ ràng qua sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam trong thời gian qua. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam đều được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Như ở các quốc gia khác, tại Việt Nam, các hành vi lợi dụng quyền con người để vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo quy định pháp luật. Vụ việc đã được báo chí đưa tin công khai, quá trình điều tra, xét xử theo đúng trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật Việt Nam.

“Ngoài hành vi bị xét xử trong vụ án này, các bị cáo đã bị tước thẻ nhà báo từ nhiều năm trước vì có hành vi sai phạm, gây ảnh hưởng đến cơ quan, doanh nghiệp và người dân. Họ không thể được coi là nhà báo”, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết thêm.

Yêu cầu Trung Quốc rút tàu cá khỏi vùng biển của Việt Nam

Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 4-11 diễn ra theo hình thức trực tuyến, trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước việc nhiều tàu Trung Quốc hoạt động tại Bãi Ba Đầu, Quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ: Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế; được hưởng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển của mình xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Việt Nam kiên quyết, kiên trì thực hiện các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để bảo vệ các quyền hợp pháp và chính đáng đó. 

Việc các tàu Trung Quốc hoạt động trong phạm vi lãnh hải của Sinh Tồn Đông thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm các quy định của UNCLOS 1982, đi ngược lại tinh thần và nội dung của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). 

Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút tàu cá khỏi khu vực nói trên và tôn trọng chủ quyền của Việt Nam; thiện chí thực hiện UNCLOS 1982; nghiêm chỉnh tuân thủ DOC; tạo môi trường thuận lợi cho việc đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc; đóng góp vào việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định và trật tự pháp lý trên biển tại khu vực.

Thứ Tư, 3 tháng 11, 2021

Bắt tạm giam chủ tài khoản Facebook đăng tin xuyên tạc, chống phá chính quyền

Thông tin với PV Báo CAND, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thuận, Giám đốc Công an TP Cần Thơ cho biết, chiều 6/10, Cơ quan CSĐT Công an quận Ninh Kiều đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với Võ Hoàng Thơ (SN 1985, không có nơi cư trú ổn định) về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.

Theo cơ quan điều tra, trước đó Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, phát hiện tài khoản Facebook “Minh Long”, do Thơ làm chủ đã đăng tải nhiều bài viết có nội dung sai sự thật, nói xấu Đảng, Nhà nước, đi ngược chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã chuyển vụ việc đến Công an quận Ninh Kiều điều tra làm rõ. Tại cơ quan điều tra, Thơ thừa nhận hành vi đăng tải 47 bài viết trên Facebook “Minh Long”.

Kết quả giám định của Sở Thông tin và Truyền thông TP Cần Thơ, 47 bài viết của Thơ đều thể hệ tính tiêu cực, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước; xúc phạm danh dự, uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng xấu trong đời sống xã hội.

Bắt đối tượng đăng thông tin xuyên tạc, chống phá chính quyền

Chiều 21/10, Cơ quan CSĐT Công an TP Vũng Tàu đã khởi tố, bắt tạm giam đối tượng Nguyễn Thiên Nghĩa (50 tuổi, HKTT tại TP Hồ Chí Minh) về hành vi “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, viễn thông".

Theo kết quả điều tra của Công an TP Vũng Tàu, trong thời gian tháng 7/2021, thời điểm tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, đối tượng Nguyễn Thiên Nghĩa sử dụng mạng xã hội Facebook có tài khoản Nghia Nguyen Thien để liên tục viết, đăng trên mạng xã hội hàng chục bài viết có nội dung bịa đặt, sai sự thật, xuyên tạc công tác phòng, chống dịch bệnh của Nhà nước ta. Những bài viết của đối tượng này đã nhận được chia sẻ, bình luận của một số đối tượng xấu, gây dư luận không tốt và ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự (ANTT).

Đáng chú ý, ngoài những thông tin không có thật do Nghĩa tự nghĩ ra để viết đăng về công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 tại TP Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác, đối tượng này còn liên tục xuyên tạc những phát biểu chỉ đạo của cán bộ lãnh đạo Nhà nước, Bộ Y tế... với những lời lẽ thô tục, vô văn hóa, mang tư tưởng hận thù, kích động chống đối công tác phòng, chống dịch bệnh của Nhà nước và chính quyền các cấp.

Thậm chí đối tượng này còn dùng nhiều từ ngữ phản cảm để xúc phạm, bôi nhọ nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước qua nhiều thời kỳ... gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân.

Nguyễn Thiên Nghĩa còn xuyên tạc, đả kích nhiều thông tin chính thống của các cơ quan báo chí đưa tin về những hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động, kêu gọi giúp đỡ người dân gặp khó khăn do dịch bệnh, thông tin về việc nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng chống COVID-19 của Việt Nam, hay các hoạt động chi viện y, bác sĩ vào TP Hồ Chí Minh chống dịch...

Qua điều tra, làm rõ và xác định được đối tượng đăng những bài viết nói trên, Công an TP Vũng Tàu đã ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam Nguyễn Thiên Nghĩa để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Đằng sau âm mưu kêu gọi hủy bỏ Điều 117, Bộ luật Hình sự

Các thế lực chống phá tìm cách đánh tráo bản chất các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, từ đó kêu gọi Nhà nước Việt Nam cần “huỷ bỏ Điều 117, Bộ luật Hình sự”.

Pháp luật là sản phẩm của tiến trình phát triển xã hội loài người, phản ánh ý chí của Nhà nước, giai cấp thống trị. Sự xuất hiện của Nhà nước hay nói cách khác là giai cấp cầm quyền cũng chính là nguyên nhân cho sự ra đời của pháp luật, hoạt động quản lý Nhà nước bằng pháp luật dựa trên ý kiến tổng hợp, đóng góp của người dân, từ đó đưa ra các qui định chung điều chỉnh, quản lý xã hội. Như vậy, pháp luật ra đời gắn liền với lợi ích của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của những người dân trong xã hội đó. Pháp luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đại diện cho ý chí, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mang lại lợi ích chung cho toàn dân tộc. Thế nhưng, đi ngược lại với lợi ích của đại đa số người dân, các đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước tìm cách tác động, hướng lái, tuyên truyền kêu gọi xóa bỏ một số điều trong Hiến pháp, pháp luật, trong đó có Bộ luật Hình sự (BLHS) nhằm thay đổi bản chất, giá trị; bình luận sai lệch một số điều luật và sự điều hành, quản lý xã hội của Nhà nước, của cơ quan tiến hành tố tụng.

Trước khi diễn ra phiên tòa phúc thẩm xét xử các đối tượng Cấn Thị Thêu (SN 1962, thường trú tại Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội); Trịnh Bá Tư (SN 1989, trú tại Đại Đồng, Ngọc Lương, Yên Thủy, Hòa Bình) về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” theo Điều 117 BLHS, các đối tượng phản động, chống phá Nhà nước ra sức tuyên truyền, kêu gọi xóa bỏ điều luật này. Không chỉ riêng Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, mà một số đối tượng như Phạm Chí Dũng (SN 1966, quê Đồng Tháp, thường trú tại phường 1, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Công Em (SN 1971, cư trú tại Mỹ Thạnh, Giồng Trôm, Bến Tre), Nguyễn Tường Thụy (SN 1950, cư trú tại Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, Hà Nội), Nguyễn Thị Cẩm Thúy (SN 1976, thường trú tại Cam Thành Bắc, Cam Lâm, Khánh Hòa)… cũng đã vi phạm quy định của điều luật trên và cơ quan chức năng đã và đang tiến hành các biện pháp tố tụng theo đúng quy định của pháp luật để xử lý hành vi phạm tội.

Các luận điệu tuyên truyền kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS trong thời gian qua được các đối tượng phản động, chống đối tuyên truyền rộng khắp, đặc biệt là trên không gian mạng xuất hiện nhiều thông tin tuyên truyền, đưa ra các lý lẽ yêu cầu Việt Nam xóa bỏ điều luật này. Điều 117, BLHS quy định: “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”, BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung từ Điều 88 BLHS năm 1999 với một số điểm mới về tên điều luật, nội dung điều luật theo hướng qui định cụ thể hơn và mở rộng phạm vi khách quan của tội này. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện BLHS nói chung, Điều 88 của BLHS cũ nói riêng nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn, các mặt khách quan trong công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Trước đó, Điều 88 BLHS năm 1999 cũng là điều luật mà các đối tượng chống phá Nhà nước ra sức tuyên truyền, yêu cầu xóa bỏ. Sau khi điều luật này được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo Điều 117, BLHS 2015 thì các phần tử chống đối cũng không từ bỏ âm mưu, mà tiếp tục “bài ca” kêu gọi xóa bỏ nhằm đạt được âm mưu, ý đồ chống phá Nhà nước với mục tiêu xóa bỏ vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Liên quan đến hoạt động kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS, Đài RFA (Đài Á Châu Tự do) dẫn lời của Ủy ban Bảo vệ nhà báo (CPJ) cùng một số đối tượng chống đối trong nước vu cáo rằng Điều 117, BLHS là “mơ hồ, dập tắt tiếng nói trái chiều”.  Trước đó, diễn đàn “Văn Việt” cũng đã đăng tải một bức thư của nhóm hành nghề luật sư ở hải ngoại kêu gọi hủy bỏ Điều 117, BLHS với nội dung qui kết rằng: “Điều 117  vi phạm Hiến pháp và đang sử dụng như là một phương tiện trấn áp nhằm phục vụ cho mục tiêu chính trị dưới danh nghĩa luật pháp quốc gia…”. Đặc biệt, khi “nghe tin” phiên tòa xét xử các bị cáo Cấn Thị Thêu, Phạm Thị Đoan Trang sắp diễn ra, số thành phần bất mãn, chống đối chính trị trong, ngoài nước lại tiếp tục kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS với luận điệu “Điều 117 là hạn chế và cản trở quyền công dân qui định tại điều 25 Hiến pháp…”. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, các đối tượng chống phá Nhà nước không ngừng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền xóa bỏ Điều 117, BLHS để đạt được các mục tiêu, ý đồ phá vỡ quy tắc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, thúc đẩy hoạt động lợi dụng “quyền tự do ngôn luận” để tuyên truyền chống phá chế độ, tạo tiền đề, điều kiện để chuyển hóa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS, các đối tượng phản động, chống phá nhằm tác động trực tiếp đến nền tư pháp Việt Nam. Các lập luận, quan điểm xóa bỏ Điều 117, BLHS nhằm tạo ra kẽ hở về mặt pháp lý cho các phần tử phản động, chống phá có thời cơ để tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Có thể nói rằng, muốn có cơ hội cho hoạt động tuyên truyền, tán phát các tài liệu chống phá Nhà nước mà không bị các cơ chế pháp lý ràng buộc thì dĩ nhiên các đối tượng cần phải kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS. Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền, kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS cũng là lý do để tuyên truyền, xuyên tạc, hạ uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, vu cáo Việt Nam vi phạm “nhân quyền”, can thiệp vào quyền “tự do ngôn luận” nói lên tiếng nói của công dân. Các hoạt động kêu gọi xóa bỏ điều luật nhằm tạo cơ hội cho các đối tượng chống phá nhà nước tuyên truyền, can thiệp vào các lĩnh vực nhạy cảm của đời sống xã hội của Việt Nam trong vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, những mục tiêu mà các đối tượng phản động, chống đối đặt ra là có thời cơ, điều kiện thuận lợi để tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Rõ ràng, mọi hoạt động tuyên truyền, kêu gọi xóa bỏ Điều 117, BLHS của các đối tượng phản động, chống phá là một đòi hỏi phi lý, đi ngược lại với lợi ích chung của toàn xã hội. Phải khẳng định rằng, Điều 117, BLHS nói riêng, BLHS nói chung được ban hành hoàn toàn hợp hiến, không vi hiến như các đối tượng chống đối vẫn tuyên truyền, xuyên tạc. Việc thảo luận, lấy ý kiến trước khi ban hành điều luật này dựa trên các căn cứ, cơ sở ý kiến đóng góp của các cơ quan, ban, ngành, của toàn xã hội và tuân theo một quy trình rất chặt chẽ, đồng thời nhận được sự đồng thuận của toàn xã hội, ngoại trừ các đối tượng có mục đích, ý đồ xấu. Các dấu hiệu, hành vi liệt kê trong Điều 117, BLHS đe dọa đến an ninh quốc gia, chế độ và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Vì vậy, việc ban hành điều luật này là hoàn toàn phù hợp với các quy định của Hiến pháp.

Bên cạnh đó, không thể cho rằng Điều 117, BLHS là “bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận”, bởi lẽ trên thực tế ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ và đó cũng là quyền cơ bản của công dân theo qui định của Hiến pháp. Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu rằng, quyền tự do ngôn luận luôn gắn với nghĩa vụ của công dân, gắn với chế độ chính trị của từng quốc gia, do đó cần phải hiểu đúng các qui định về vấn đề này. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng có các giới hạn, quy định riêng về các quyền tự do ngôn luận để phù hợp với đặc thù của chế độ xã hội, tình hình chính trị, văn hóa của các quốc gia đó. Bàn về vấn đề này, năm 1993, Hội nghị quốc tế về quyền con người ở Vienna (Áo), đại diện các quốc gia đã khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập… Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo”…

Các lập luận, viện dẫn các thông tin cho rằng Điều 117, BLHS “bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận” là hoàn toàn không có cơ sở, thiếu căn cứ để ràng buộc. Rõ ràng, đằng sau âm mưu kêu gọi hủy bỏ Điều 117, BLHS của các đối tượng phản động, chống đối nhằm hướng đến mục đích, ý đồ xâm phạm an ninh quốc gia, đe dọa đến sự tồn tại của chế độ, của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Thực hiện tốt tuyên truyền Luật Cảnh sát biển Việt Nam trên vùng biển Tây Nam

Thời gian qua, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 đã có nhiều giải pháp hiệu quả để đưa Luật Cảnh sát biển Việt Nam sớm đi vào cuộc sống; ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trên vùng biển giáp ranh Việt Nam - Malaysia - Thái Lan.

Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 được giao quản lý vùng biển Tây Nam có diện tích rộng khoảng 360.000 km2 với 147 đảo lớn, nhỏ, bãi đá trải dài từ Hà Tiên (Kiên Giang) đến Định An (Sóc Trăng). Đây là vùng biển tiếp giáp các nước: Campuchia, Thái Lan, Malaysia, có tuyến hàng hải quốc tế đi qua với lưu lượng tàu hoạt động lớn. Tuy nhiên, đây cũng là vùng biển còn tồn tại tình trạng tàu cá tiến hành các hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp.

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, thời gian qua, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 đã tăng cường tuyên truyền pháp luật cho ngư dân, đặc biệt là Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Biển Việt Nam, kết hợp phát tờ rơi… nhằm giúp ngư dân nắm chắc phạm vi vùng biển Việt Nam, tự giác chấp hành pháp luật khi hoạt động trên biển, không có hành vi vi phạm vùng biển nước ngoài đánh bắt hải sản trái phép, nỗ lực chung tay cùng các cấp, các ngành và cả nước tháo gỡ “thẻ vàng” cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 đã tiến hành kiểm tra 21 tàu cá Việt Nam, lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt và tham mưu cấp trên ra quyết định xử phạt 16/21 tàu, với tổng số tiền 213.100.000 đồng, dẫn giải 5 tàu về cảng để xử lý.

Bên cạnh đó, Biên đội tàu của Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 đã tuyên truyền và lấy thông tin được 90 lượt tàu cá Việt Nam; tổ chức trao tặng 32 cờ Tổ quốc, phát 257 tờ rơi các loại, 16 hộp khẩu trang y tế cho các tàu cá hoạt động tại khu vực, tổ chức tốt cho thuyền trưởng các tàu cá viết cam kết chấp hành nghiêm các quy định trong hoạt động khai thác thủy sản.

Ngoài ra, cán bộ, chiến sĩ tàu CSB 4035 và KN 270 đã tổ chức sơ cứu thành công cho ngư dân Nguyễn Văn Khang, SN 1996, là thuyền viên của tàu cá KG 91311TS bị thương, nhiễm trùng nặng ở ngón trỏ tay trái. Tàu KN 270 sơ cứu cho 2 ngư dân Trần Văn Nghề và Hồ Văn Duy bị thương trên tàu CM 99046TS do xảy ra xô xát. Đây là những việc làm kịp thời hỗ trợ ngư dân lúc khó khăn, hay khi gặp sự cố xảy ra trên biển, trở thành điểm tựa vững chắc giúp ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển.

Trong thời gian tới, Biên đội tàu Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 xác định, luôn khắc phục mọi khó khăn nhất là về điều kiện thời tiết, sóng gió, làm tốt công tác tuyên truyền Luật Cảnh sát biển Việt Nam, vận động ngư dân chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, các quy định về khai thác IUU,  giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên vùng biển, đảo Tây Nam của Tổ quốc.

Pháp hết sức coi trọng vị trí, vai trò của Việt Nam

Chủ tịch Thượng viện Pháp Gérard Larcher khẳng định, Pháp hết sức coi trọng vị trí, vai trò của Việt Nam và mong muốn quan hệ hữu nghị truyền thống, đối tác chiến lược giữa hai nước sẽ tiếp tục đi vào chiều sâu, thực chất trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, an ninh quốc phòng đến kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, giáo dục.

Chiều 3/11 (theo giờ Paris), trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp, ngay sau lễ đón chính thức, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến với Chủ tịch Thượng viện Pháp Gérard Larcher.Thủ tướng Chính phủ bày tỏ vui mừng được gặp gỡ và trao đổi với Chủ tịch Thượng viện Pháp, gửi lời cảm ơn đến Chính phủ, Thượng viện và nhân dân Pháp đã hỗ trợ vaccine và trang thiết bị y tế cho Việt Nam thời gian qua. Về phần mình, Chủ tịch Gérard Larcher cũng bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ kịp thời khẩu trang y tế cho nhân dân Pháp vào thời điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát nghiêm trọng năm 2020.

Bày tỏ vui mừng được đón tiếp Thủ tướng Phạm Minh Chính trong chuyến thăm chính thức đầu tiên trên cương vị Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tới Pháp, Chủ tịch Thượng viện Pháp Gérard Larcher bày tỏ ngưỡng mộ về việc Việt Nam đã rất thành công trong việc cải cách kinh tế, duy trì được tốc độ phát triển nhanh, nhưng đồng thời vẫn giữ được bản sắc văn hóa của mình.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gửi lời cảm ơn đến Chính phủ, Thượng viện và nhân dân Pháp đã hỗ trợ vaccine và trang thiết bị y tế cho Việt Nam thời gian qua.

Chủ tịch Thượng viện Pháp cho rằng vẫn còn “món nợ” với Việt Nam vì chưa có dịp thăm đất nước này kể từ khi nhậm chức và mong muốn sẽ sớm có dịp đến Việt Nam khi điều kiện y tế cho phép. Chủ tịch Gérard Larcher khẳng định Pháp hết sức coi trọng vị trí, vai trò của Việt Nam và mong muốn quan hệ hữu nghị truyền thống, đối tác chiến lược giữa hai nước sẽ tiếp tục đi vào chiều sâu, thực chất trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, an ninh quốc phòng đến kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, giáo dục. Chủ tịch Gérard Larcher chúc mừng thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV của Việt Nam và khẳng định Thượng viện Pháp mong muốn thúc đẩy hợp tác hơn nữa với Quốc hội Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao những đóng góp rất quan trọng của cơ quan nghị viện hai nước vào việc củng cố mối quan hệ hợp tác nhiều mặt Việt Nam - Pháp, trong đó có quá trình thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương, đặc biệt là vai trò cá nhân Ngài Chủ tịch Thượng viện cùng các cộng sự tại Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Pháp - Việt.

Thủ tướng mong muốn hai bên phối hợp chặt chẽ để tổ chức thành công Hội nghị Hợp tác giữa các địa phương lần thứ XII tại thành phố Hà Nội vào năm 2022 với sự tham gia đông đảo của các địa phương Việt Nam và Pháp cũng như sự có mặt của Lãnh đạo cấp cao Pháp.

Thủ tướng đề nghị phía Pháp tiếp tục hỗ trợ cho việc phát triển năng lực y tế cho Việt Nam, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý văn hóa, đề nghị Pháp xem xét tăng số lượng học bổng cho sinh viên Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam trong việc trùng tu các di sản văn hóa Pháp – Việt như cầu Long Biên hay các kiến trúc mang dấu ấn Pháp tại Việt Nam.

Chủ tịch Gérard Larcher khẳng định Pháp hết sức coi trọng vị trí, vai trò của Việt Nam và mong muốn quan hệ hữu nghị truyền thống, đối tác chiến lược giữa hai nước sẽ tiếp tục đi vào chiều sâu, thực chất trên mọi lĩnh vực.

Hai bên cũng đã trao đổi về một số tình hình khu vực và quốc tế cùng quan tâm, trong đó có vấn đề Biển Đông và nhấn mạnh các quốc gia cần đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng, đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, và giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS).

Chủ tịch Thượng viện Pháp cũng nhất trí phối hợp triển khai hiệu quả Hiệp định tự do thương mại Việt Nam - EU (EVFTA) và ủng hộ sớm phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA) nhằm tối đa hóa tiềm năng hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam với Pháp và các nước EU, đồng thời bày tỏ sẵn sàng xem xét thúc đẩy Ủy ban Châu Âu (EC) sớm gỡ bỏ cảnh báo “thẻ vàng” với thủy sản Việt Nam. 

Thủ tướng Phạm Minh Chính cảm ơn Chính phủ và Thượng viện Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc tại Pháp, và mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ quý báu này từ Chính phủ, Thượng viện và các cơ quan chức năng của Pháp. Chủ tịch Gérard Larcher cũng đánh giá cao khả năng hòa nhập sâu rộng và thành công của đồng người Việt Nam tại Pháp, tạo cầu nối quan trọng, góp phần giúp cho quan hệ giữa Việt Nam và Pháp ngày càng gắn kết chặt chẽ. Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng chuyển lời mời của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đến Chủ tịch Gérard Larcher sang thăm Việt Nam.

Nguồn: Báo CAND

Chống bệnh quan liêu, vô cảm với nhân dân của cán bộ, đảng viên hiện nay

Hồ Chí Minh khẳng định: bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Cán bộ, đảng viên đặc biệt là những người lãnh đạo nào mắc phải bệnh này thì: có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Bệnh quan liêu không chỉ là sự sai lầm về tác phong, phương pháp công tác mà xét về bản chất là sự tha hóa quyền lực của cơ quan công quyền, là hệ quả của sự suy thoái lập trường tư tưởng, chính trị, đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh chỉ ra những biểu hiện cụ thể của bệnh quan liêu: chỉ đạo xa rời thực tế, xa quần chúng; áp dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính; chỉ biết hô hào khẩu hiệu chỉ thị, xem báo cáo, làm việc qua loa; lời nói không đi đôi với việc làm; chủ quan, tự mãn, coi thường quần chúng… Cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu: Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ.

Trên thực tế, có thể thấy hiện nay căn bệnh này diễn ra xảy ra ở hầu hết các cấp, các ngành, các địa phương, với những mức độ khác nhau. Những vụ việc kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân như việc tố cáo, khiếu nại của công dân về Khu đô thị mới Thủ Thiêm; hàng loạt dự án hiện đang “đắp chiếu” có thâm niên chục năm với hàng nghìn tỷ đồng; việc xây dựng trụ sở hành chính quá lãng phí trong khi địa phương còn nghèo hay dùng ngân sách ưu tiên phục vụ cho nhà riêng của cán bộ lãnh đạo; những câu chuyện "hành dân" của một số bộ phận trong cơ quan công quyền hoặc ứng xử không đúng với chuẩn mực của người cán bộ ở các địa phương; những đại biểu nhân dân chỉ biết “ngủ gật” trước bức xúc của dân, vấn đề cuộc sống “rất nóng” nhưng hội trường HĐND cấp tỉnh, huyện, xã thì “rất lạnh” cũng không phải hiếm gặp. Nhiều chính sách ban hành viển vông, xa rời thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trì trệ, vô trách nhiệm “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”.

Ngày 25/10/2021, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm trong đó có nhiều điểm mới so với Quy định 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011. Một trong điểm mới là Đảng làm rõ và bổ sung thêm biểu hiện căn bệnh quan liêu ở Điều 3: “Thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng”. Có thể nói, đó là sự bổ sung xác đáng từ nhận thức sâu sắc về thực trạng và tác hại của căn bệnh quan liêu, xa dân, vô cảm với dân đã tồn tại dai dẳng, thậm chí có mặt diễn biến phức tạp hơn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên - căn bệnh mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: bệnh quan liêu, xa dân là nguy cơ lớn nhất của đảng cầm quyền.

Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại và dân chủ hiện nay, việc tăng cường đối thoại với nhân dân là một trong cách hiệu quả nhất để giải quyết những điểm nóng ở cơ sở. Bộ Chính trị đã ban hành quy định số 11-QĐI/TW ngày 18/2/2019 về “Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”. Điều quan trọng hơn là từ cuộc đối thoại trực tiếp đó, các cấp ủy đảng, chính quyền cần có hành động thiết thực, cụ thể giải quyết nhu cầu chính đáng của nhân dân, tránh nói suông, hứa suông làm mất niềm tin của dân. Thực hiện các quy định trên sẽ là liều thuốc “đặc trị” căn “bệnh mãn tính” quan liêu, thờ ơ, vô cảm của cán bộ, đảng viên; xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa dân với Đảng, Đảng với dân.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bắt đầu chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp

Ngay sau khi kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham dự Hội nghị COP26 và thăm làm việc tại Vương quốc Anh, chiều 3/11 (theo giờ địa phương), Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới sân bay Orly ở Thủ đô Paris, bắt đầu chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp từ ngày 3-5/11 theo lời mời của Thủ tướng Cộng hòa Pháp Jean Castex.


Đây là chuyến thăm song phương chính thức đầu tiên tới một quốc gia châu Âu của Thủ tướng Phạm Minh Chính kể từ khi nhậm chức.

Trong chương trình chuyến thăm, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ hội đàm với Thủ tướng Pháp, hội kiến Tổng thống Pháp, gặp Chủ tịch Thượng viện Pháp, gặp Chủ tịch Quốc hội Pháp.

Thủ tướng sẽ có các cuộc hội kiến, tiếp, gặp Tổng Giám đốc UNESCO, Tổng thư ký Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ, Tổng thư ký Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế, Giám đốc điều hành chương trình COVAX, Hội hữu nghị Pháp - Việt; gặp gỡ cộng đồng và cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp và một số nước châu Âu…

Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Pháp đang trên đà phát triển tích cực. Hai nước có mối quan hệ hợp tác, gắn bó truyền thống qua các thăng trầm của lịch sử. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Pháp thời gian qua đã gia tăng quan tâm, nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường quan hệ. Hai nước sẽ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2023. 

Hiện, Pháp là bạn hàng lớn thứ 4, nhà đầu tư lớn thứ 2 và nhà tài trợ ODA hàng đầu của Việt Nam trong EU. Nhiều tập đoàn lớn của Pháp mong muốn đầu tư vào các dự án tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực hàng không, cơ sở hạ tầng và đô thị thông minh, năng lượng tái tạo, ứng phó biến đổi khí hậu, công nghệ cao.

Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính góp phần đưa quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp đi vào thực chất, hiệu quả hơn.

Lê Văn Thương - từ kẻ vô kỷ luật đến chống phá đất nước

Thời gian gần đây, một số đối tượng vì bất mãn, hám lợi đã bị các phần tử xấu, các tổ chức phản động dụ dỗ, lôi kéo thực hiện những hành vi sai trái, chống phá đất nước.

 Mặc dù đã chạy trốn ra nước ngoài, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, nhưng các đối tượng này vẫn ngoan cố lợi dụng không gian mạng tán phát thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ chính quyền khiến dư luận hết sức bất bình.

Một trong số đó là Lê Văn Thương, kẻ vô kỷ luật, thoái hóa biến chất, hiện đang bị cơ quan công an truy nã với tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Lê Văn Thương (sinh năm 1988 tại Quảng Ngãi) từng có thời gian phục vụ trong quân ngũ, được quan tâm tạo điều kiện để phấn đấu trưởng thành, nhưng do không chịu rèn luyện, tu dưỡng, nhiều lần vi phạm kỷ luật. Mặc dù đã được động viên, giáo dục, Thương vẫn tính nào tật ấy, do đó đã bị kỷ luật và được giải quyết cho xuất ngũ.

Thương được cho phục viên về quê mở xưởng mộc. Lẽ ra, nếu giữ gìn bản lĩnh và nhân cách, Thương có thể làm lại cuộc đời, sửa chữa sai lầm bởi xưởng mộc của Thương cũng khá đông khách. Nhưng Thương lại bị kích động, lôi kéo, bỏ trốn ra nước ngoài và lên mạng xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, quân đội.

Với giọng điệu ngông cuồng của kẻ thoái hóa biết chất, Lê Văn Thương còn tuyên bố thành lập lực lượng hòng thay đổi chế độ ở Việt Nam. Mặc dù chỉ được ở trong quân ngũ thời gian ngắn, nhưng Lê Văn Thương đã ảo tưởng tuyên bố có thể chỉ huy những đội quân lớn, có thể làm thay đổi tình hình đất nước.

Trước những hoạt động chống phá đất nước, Lê Văn Thương đã bị khởi tố về hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, đồng thời đã bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra-Công an tỉnh Quảng Ngãi phát lệnh truy nã sau khi bỏ trốn khỏi địa phương vào năm 2018. Các cơ quan chức năng đã nhiều lần có văn bản gửi gia đình, vận động, kêu gọi Thương ra đầu thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Sau khi bỏ trốn ra nước ngoài, Lê Văn Thương tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi khi núp bóng các thế lực phản động chống phá Đảng, Nhà nước ta. Để được các thế lực ngoại bang sử dụng và có tiền sinh sống, Lê Văn Thương đã tạo lập các tài khoản trên không gian mạng để xuyên tạc, nói xấu tình hình đất nước. Trên tài khoản facebook cá nhân và tài khoản youtube “Tiếng nói Dân chủ Việt”, Lê Văn Thương đã công khai bộc lộ là một kẻ phản bội khi liên tục phát tán những thông tin sai trái, bịa đặt.

Chính Lê Văn Thương đã tự bôi xấu bản thân, làm ảnh hưởng đến những người thân và tự chọn con đường quay lưng lại với trở về quê hương mà một số kẻ đã sai lầm mắc phải trước đây. Nhiều đồng đội đau xót cho Thương chỉ vì thiếu bản lĩnh mà sa ngã. Đó là bài học đắt giá về việc rèn luyện, giữ gìn phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Nếu không tu dưỡng, rèn luyện có thể sa ngã, thậm chí từ tự diễn biến tự chuyển hóa chuyển rất nhanh sang tiếp tay cho thế lực thù địch.

Nguồn: báo QĐND

Đừng làm sai lệch sự thật để bênh vực cho nhóm "Báo Sạch"

Ngày 29-10 vừa qua, sau khi tòa án ở Việt Nam xét xử công khai và tuyên án 5 đối tượng thuộc nhóm "Báo Sạch", thông cáo của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ đã nêu ra những ý kiến thiếu khách quan, sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam để bênh vực cho những đối tượng vi phạm pháp luật.

 Bản thông cáo có đoạn viết: “Một tòa án Việt Nam đã kết án các nhà báo liên kết với nhóm "Báo Sạch" (Clean Journalism), Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Phước Trung Bảo, Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang và Lê Thế Thắng, kết án họ nhiều năm tù về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự”.

Lạ lùng hơn, bản thông cáo còn nêu: “Chúng tôi hiểu nhóm nhà báo này tập trung đưa tin điều tra về tham nhũng, tất nhiên, không phải là tội phạm” để rồi “kêu gọi trả tự do cho 5 nhà báo này và tất cả những người bị giam giữ vô cớ”.

Cái gọi là Tổ chức Phóng viên không biên giới cũng đã ra thông báo phản đối các bản án đối với “các nhà báo” của nhóm "Báo Sạch", vu cáo Việt Nam “gia tăng đàn áp truyền thông độc lập”. Còn cái gọi là Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ) ngày hôm qua 1-11 cũng ra thông cáo có nội dung sai sự thật khi yêu cầu Việt Nam "ngưng đàn áp các nhà báo".

Cái gọi là Sáng kiến pháp lý Việt Nam do hai đối tượng Trịnh Hữu Long và Trần Quỳnh Vi - những kẻ có quan hệ mật thiết với Voice ngoại vi của Việt Tân trước đó cũng ra tuyên bố, cho rằng việc điều tra, bắt giam và truy tố, xét xử đối với các thành viên nhóm “Báo Sạch” là vi phạm quyền tự do ngôn luận.

Dư luận và người dân Việt Nam chẳng ai xa lạ gì luận điệu bổn cũ soạn lại của những tổ chức như Phóng viên không biên giới, Sáng kiến pháp lý Việt Nam hay những đối tượng như Trịnh Hữu Long và Trần Quỳnh Vi hay Phạm Đoan Trang. Đây là những tổ chức, cá nhân thường xuyên lợi dụng, xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí, tự do ngôn luận để chống phá Đảng, nhà nước Việt Nam.

Cũng không lạ khi Trịnh Hữu Long bênh vực Báo Sạch bởi Long nằm trong bộ 3 với Nguyễn Anh Tuấn và Phạm Đoan Trang được Voice đào tạo để chống phá đất nước. Trong chuỗi hoạt động của những đối tượng này mấy năm qua, có nhiều sự việc từng được một vài thành viên nhóm "Báo Sạch" tham gia hoặc cổ xúy.

“Tim đen” của họ thì đã rõ nhưng quả là đáng thất vọng khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, một cơ quan có đầy đủ thông tin hơn, nắm rõ hơn về sự phát triển của tự do báo chí ở Việt Nam lại có thể đưa ra những lập luận thiếu khách quan, thiếu thiện chí như vậy.

Trong vụ việc này, TAND huyện Thới Lai (Cần Thơ) đã tuyên phạt các bị cáo là thành viên nhóm “Báo Sạch” tổng cộng 14 năm 6 tháng tù giam về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo khoản 2, Điều 331 Bộ Luật Hình sự.

Quá trình xét xử, tranh tụng công khai, dân chủ. Chính các luật sư cũng cho rằng, việc truy tố các bị cáo là không oan sai vì có nhiều bài viết đã xâm phạm đến các cá nhân, tổ chức.Các bị cáo cũng đã nhận tội và tỏ ra ăn năn, ân hận.

Cũng cần phải nói thêm rằng, tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam được bảo đảm theo đúng pháp luật quốc tế và Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Ở Việt Nam, không có cái gọi là nhà báo độc lập, nhà báo công dân như lập luận của một số tổ chức thiếu thiện chí.

Còn xét về luật pháp quốc tế, theo những giá trị phổ quát nhất, tự do báo chí luôn mang tính lịch sử, cụ thể gắn với hoàn cảnh phát triển, văn hóa của mỗi quốc gia; không thể có tự do báo chí vô hạn độ đến mức có thể xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, xâm hại nhân phẩm, danh dự của người khác.

Trong bối cảnh quan hệ Việt - Mỹ đang được tăng cường, phát triển tốt đẹp. Trong bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, Việt Nam luôn nỗ lực nghiêm túc thực hiện cam kết, nghĩa vụ theo các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng như các cơ chế nhân quyền quốc tế. Trong đó, đặc biệt coi trọng Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Phát biểu vào tháng 9 vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định: Thực tế, những nỗ lực thúc đẩy và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam được các nước, tổ chức quốc tế đánh giá cao tại Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc qua các chu kỳ.

Trên thực tế, những thành tựu mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước là những bằng chứng không thể phủ nhận cho các nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm thực thi quyền con người. Việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người luôn được Ðảng, Nhà nước ta thể chế hóa cũng như thực thi nghiêm túc trong thực tiễn. Việc thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam luôn được tuân thủ nghiêm túc theo những cam kết, nghĩa vụ trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cũng như các cơ chế nhân quyền quốc tế. Chính vì vậy, Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia điển hình trong tiến trình thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, tiếp tục triển khai hiệu quả các Mục tiêu phát triển bền vững.

Tại Hội thảo quốc tế về xây dựng Báo cáo giữa kỳ tự nguyện thực hiện các khuyến nghị Việt Nam chấp thuận theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát về quyền con người (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc do Bộ Ngoại giao phối hợp Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức ngày 14-7-2021 với sự tham dự của hơn 150 đại biểu trong nước và quốc tế, thành tựu của Việt Nam về công tác nhân quyền tiếp tục được ghi nhận. Ông Kamal Malhotra - Ðiều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam cam kết mạnh mẽ đối với chủ nghĩa đa phương và bảo vệ quyền con người mà minh chứng là quyết định thực hiện Báo cáo giữa kỳ tự nguyện. Liên hiệp quốc đánh giá cao Việt Nam.

Thiết nghĩ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nên thay đổi cách tiếp cận và khách quan hơn, toàn diện hơn khi đề cập vấn đề liên quan đến nhóm "Báo Sạch"; không để những thông tin gây nhiễu dẫn đến những bình luận sai lệch; không chỉ đối với vụ án nhóm "Báo Sạch" mà trong nhiều vụ án, vụ việc khác.

Nguồn: Báo QĐND

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bắt đầu chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp

Đúng 13 giờ 30 phút ngày 3-11 (theo giờ địa phương), chuyên cơ chở Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới sân bay Orly ở thủ đô Paris, bắt đầu chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp từ ngày 3 đến 5-11 theo lời mời của Thủ tướng Cộng hòa Pháp Jean Castex.

Trong thời tiết nắng ấm, đón Thủ tướng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tại sân bay có đại diện Nhà nước Pháp tại chính quyền địa phương; Đại sứ Pháp tại Việt Nam; Lãnh đạo cục Lễ tân, Bộ Ngoại giao Pháp; Đại sứ Việt Nam và cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp.

Ngay sau khi tới Cộng hòa Pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới đặt vòng hoa tại tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh và thăm không gian Hồ Chí Minh ở  thành phố Montreuil (cách Paris khoảng 15km về phía Đông).

Trong chương trình chuyến thăm, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ hội đàm với Thủ tướng Pháp; hội kiến Tổng thống Pháp; gặp Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Quốc hội Pháp.

Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ có các cuộc hội kiến, tiếp, gặp Tổng Giám đốc UNESCO, Tổng thư ký Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ, Tổng thư ký Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, Giám đốc điều hành chương trình COVAX, Hội hữu nghị Pháp - Việt; gặp gỡ cộng đồng và cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp và một số nước châu Âu.

Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Pháp đang trên đà phát triển tích cực. Hai nước có mối quan hệ hợp tác, gắn bó truyền thống qua các thăng trầm của lịch sử. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Pháp thời gian qua đã tăng cường quan tâm, nhấn mạnh sự cần thiết thúc đẩy quan hệ song phương. Hai nước sẽ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2023.

Hiện Pháp là bạn hàng lớn thứ 4, nhà đầu tư lớn thứ 2 và nhà tài trợ ODA hàng đầu của Việt Nam trong Liên minh châu Âu (EU). Nhiều tập đoàn lớn của Pháp mong muốn đầu tư vào các dự án tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực hàng không, cơ sở hạ tầng và đô thị thông minh, năng lượng tái tạo, ứng phó với biến đổi khí hậu, công nghệ cao.

Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính góp phần đưa quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp đi vào thực chất, hiệu quả hơn.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Hai, 1 tháng 11, 2021

Giá trị bất diệt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là vấn có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng có ý nghĩa quan trọng. Xuất phát từ lý luân chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và yêu cầu thực tiễn của cách mạng.  Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”. Phát triển tư tưởng đó, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền phát triển đến giai đoạn tột cùng, trở thành chủ nghĩa đế quốc, đi xâm lược các dân tộc khác, V.I.Lênin đã nêu khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Theo V.I. Lênin, để hoàn thành sứ mệnh thế giới của mình, giai cấp vô sản nhất thiết phải tổ chức ra chính đảng. Đó là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đội tiên phong của giai cấp vô sản không chỉ tập hợp sự đoàn kết và lãnh đạo giai cấp mình mà còn phải tập hợp, đoàn kết tất cả các lực lượng trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc. Đây là nguyên tắc bắt buộc, là điều kiện tiên quyết để đi tới chiến thắng. Người chỉ rõ: “chỉ có một mình đội tiền phong thôi thì không thể thắng nổi. Ném một mình đội tiền phong vào một cuộc chiến đấu quyết định... thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa”

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức và đề cao sức mạnh của đoàn kết, Người khẳng định như một chân lý, đoàn kết là cội nguồn của mọi sự thành công, đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - thành công, thành công, đại thành công. Theo Hồ Chí Minh,đoàn kết là một chiến lược của cách mạng đoàn kết dân tộc phải rộng rãi, chân thành, triệt để, lâu dài. Người chỉ rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài...Không phải là một thủ đoạn chính trị ...Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu tạo nên sức mạnh to lớn để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta phải luôn đương đầu với thiên tai khốc liệt và các thế lực xâm lược thường lớn mạnh hơn ta nhiều lần cả về kinh tế, quân sự. Quá trình đấu tranh đó đã tạo ra sự cố kết cộng đồng, làng, nước, trở thành một trong những giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam, trở thành truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Sự đoàn kết, tính cộng đồng của dân tộc đã được các thế hệ người Việt Nam giữ gìn, phát huy trong mọi thời kỳ lịch sử.

Hiện nay các thế lực thù địch ra sức chống phá khối đoàn kết của dân tộc ta, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc khác nhau. Chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, sai sót trong chỉ đạo, quản lý nhà nước của chính quyền các cấp để gây chia rẽ từ nội bộ Đảng, chính quyền và nhân dân. Như kích động, lôi kéo, mua chuộc nhân dân để nhân dân biểu tình, chống đối, đập phá, gây mất trật tự an ninh chính trị…Những hành vi đó là vi phạm pháp luật của Nhà nước, chúng ta cần phải đấu tranh quyết liệt, đấu tranh vô hiệu hóa với những tên đứng đầu.               

 

 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...