Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

Đấu tranh bác bỏ “Phi chính trị hóa quân đội”

Chống phá cách mạng Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Một trong những âm mưu hết sức thâm độc của chúng là thực hiện “phi chính trị hóa quân đội”.

Liên tục trong những năm qua, các thế lực thù địch, phản động đã thường xuyên cố tình rêu rao quan điểm: “Quân đội phải đứng ngoài chính trị”, Quân đội cần phải “trung lập”, “đứng giữa”, không lệ thuộc hoặc đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào… Chúng cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc thành công là Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử; Đảng chỉ nên lãnh đạo Quân đội trong chiến tranh, khi hòa bình Đảng cần giao quyền lãnh đạo quân đội cho Nhà nước...

Rõ ràng, trên đây là những luận điệu sai trái, phản động. Nhìn vào lịch sử nhân loại tiến bộ, chúng ta vẫn chưa thể quên được “cơn địa chấn chính trị” đã diễn ra tại Liên Xô vào thập niên cuối thế kỷ XX. Những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô chấp nhận đa nguyên, đa đảng đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng Quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và sau đó là chấp nhận xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Quân đội, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đây được xác định là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô; một tổn thất nặng nề của phong trào cách mạng thế giới.

Những luận điệu sai trái, phản động đó chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ. Bởi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đặt ra những yêu cầu mới đối với quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, nhất là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa đã khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.

Để thực hiện điều này, trước hết chúng ta cần luôn luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội; thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

 Đồng thời, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội. Mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội gắn với cương vị, chức trách được giao; thực sự nêu gương trước bộ đội. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị; tạo cơ sở để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa Quân đội” của các thế lực phản động, thù địch.

Mục đích của các thế lực chống cộng là gì, khi xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh?

Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên và chính Người đã lựa chọn, nguyện trung thành và triển khai trong thực tiễn con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam từ những năm 20 thế kỷ XX. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và sẽ là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp của Đảng và cách mạng Việt Nam. Do vậy, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam dù trong lịch sử hay hiện thực và tương lai luôn là hai thực thể gắn chặt với nhau. Kẻ thù hay đồng minh cách mạng của Hồ Chí Minh cũng chính là kẻ thù hay đồng minh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ nghĩa chống cộng ở Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra đời là sự chống lại du nhập, hiểu biết về chủ nghĩa bônsêvích, về Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau khi Hồ Chí Minh hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng, chủ nghĩa chống cộng ở Việt Nam đã trực tiếp, mạnh mẽ hướng sang tấn công vào Đảng và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh và Đảng lãnh đạo cách mạng càng giành được thắng lợi thì chủ nghĩa chống cộng càng tìm mọi cách tấn công vào Hồ Chí Minh và Đảng.

Vậy, các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh của các lực lượng chống cộng hướng tới mục tiêu gì?

Thứ nhất, phủ định vai trò, thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam, phủ định hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó làm cho nhân dân Việt Nam bị lầm tưởng và mơ hồ về chính trị, cũng như con đường phát triển của dân tộc.

Thứ hai, phá hoại nền tảng tư tưởng, thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là từng bước hình thành các khuynh hướng, trào lưu quan điểm đối lập, thù địch với Đảng, Nhà nước ta.

Thứ ba, lợi dụng sự chuyển hóa nhận thức tư tưởng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội tiến tới hình thành các lực lượng đối lập ở Việt Nam.

Thứ tư, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Thứ năm, gây dựng cơ sở tư tưởng và cơ sở giai cấp, tiến tới các mục tiêu chính trị sâu xa trong tương lai là xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam, hướng Việt Nam đi theo con đường của CNTB.

Tóm lại, cách mạng Việt Nam càng đi lên, giá trị Hồ Chí Minh càng được khẳng định thì các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh cũng luôn có sự thay đổi theo hướng ngày càng tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Song, bản chất những âm mưu và mục đích của chúng là không thay đổi. Do đó, cần nhận rõ âm mưu, mục đích xuyên tạc Hồ Chí Minh của các lực lượng chống cộng để hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, xuyên tạc về Hồ Chí Minh có hiệu quả thiết thực.

Phê phán những nhận thức lệch lạc về tư tưởng Hồ Chí Minh (Bài 1)

Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bài viết này nhận diện những nhận thức lệch lạc, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào tư tưởng Hồ Chí Minh.

Như một thấu kính hội tụ khổng lồ, Chủ nghĩa Mác kết tinh những ánh sáng giá trị tư tưởng tinh hoa trước đó của thế giới, là kinh tế-chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp; là những điểm tiến bộ trong học thuyết về giá trị lao động của Adam Smith, David Ricardo, phương pháp biện chứng của Hegel, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Feuerbach, những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Henri de Saint Simon, Robert Owen, Etienne Cabet, Charles Fourier... Để rồi Chủ nghĩa Mác trở thành mặt trời tư tưởng vĩ đại của nhân loại soi đường cho các dân tộc đi lên hạnh phúc. Hiện nay, nhiều tác phẩm kinh điển của Marx vẫn được giới nghiên cứu phương Tây quan tâm, có hàng triệu độc giả chào đón, nghiên cứu, tìm hiểu. Ở thời điểm nhân loại bước vào Cách mạng 4.0 hội nhập toàn cầu mạnh mẽ và sâu rộng, người ta càng thấy bộ "Tư bản" phát ra những ánh sáng khoa học mới mẻ đi trước thời đại, gợi dẫn những quy luật, không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị, văn hóa, xã hội... Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự sụp đổ của Nhà nước Liên Xô (trước đây) chính là sự xa rời Chủ nghĩa Mác! 

Từ góc nhìn “liên văn hóa” hiện đại, thế giới hôm nay nhìn thấy ở Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp 3 luồng văn hóa: Văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ và văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Cuộc Hội thảo khoa học quốc tế về Hồ Chí Minh gần đây nhất (5-10-2019) có tên Global Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh toàn cầu) được tổ chức tại thành phố New York (Mỹ). Các chủ đề được chính những học giả Mỹ và Đại học Columbia đề xuất khi cùng đứng ra tổ chức hội thảo đều nhấn mạnh hình ảnh Hồ Chí Minh không chỉ là vị anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người còn mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hóa cao đẹp của Người đang được cả nhân loại đón nhận. Tác phẩm mới nhất của GS, TS Nguyễn Đài Trang (Việt kiều Canada) viết về Bác Hồ: "Hồ Chí Minh: Chủng tộc da đen và các tác phẩm chọn lọc về phân biệt chủng tộc" (tháng 2-2021) in bằng tiếng Anh và tiếng Việt được giới nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn Canada đánh giá rất cao. Bà đã bỏ ra một phần tư thế kỷ sưu tầm, khảo cứu, nghiên cứu để viết tác phẩm này. Trước đó, bà là tác giả sách: "Hồ Chí Minh: Các tác phẩm chọn lọc về hòa bình, dân chủ và bình đẳng giới" (2018, phiên bản tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Việt); "Hồ Chí Minh: Nhân văn và phát triển" (2013); "Hồ Chí Minh: Tâm và tài của một người yêu nước" (2010)... Từ góc nhìn khoa học khách quan nhất, tác giả đã làm toát lên chủ đề với cái tài kiệt xuất và cái tâm yêu nước, yêu con người trong sáng nhất, Hồ Chí Minh không chỉ là vĩ nhân của Việt Nam mà còn là vĩ nhân của thế giới. Tầm vóc của Người mang tầm nhân loại, đồng hành với nhân loại...

Thế mà hiện nay, một số ít cán bộ, đảng viên ta lại có biểu hiện dao động, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào tư tưởng của Người. Có thể kể ra những biểu hiện ấy là: 

1. Thiếu khát vọng về lý tưởng tốt đẹp. Bất cứ ai cũng đều có một lý tưởng cho riêng mình. Đó là mục tiêu, cũng là động cơ phấn đấu học tập, lao động để đạt mục đích đề ra. Với cán bộ, đảng viên thì lý tưởng riêng nằm trong lý tưởng chung của Đảng là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mong muốn tột bậc của Bác Hồ là “độc lập cho Tổ quốc”, “tự do cho đồng bào”, “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Lý tưởng biểu hiện ra hành động. Nhiều cán bộ, đảng viên vì thiếu lý tưởng mà làm việc cầm chừng theo kiểu “trung bình chủ nghĩa”, làm cho xong chuyện, “sáng vác ô đi, tối vác về”, không dám đổi mới, làm thì sợ sai, sợ mắc khuyết điểm. Trong cơ quan, họ như những cái bóng, nói như dân gian là nếu “bỏ thì thương, vương thì tội”! 

2. Lười học lý luận, giáo điều, bảo thủ, xơ cứng. Lý luận là ánh sáng soi đường, không học hoặc học qua loa đại khái, học chống đối thì làm gì có ánh sáng để mà đi. Nghị quyết Đảng là chủ trương đường lối mà nhiều cán bộ, đảng viên không học nghị quyết, thậm chí không biết nội dung nghị quyết thì lãnh đạo được ai (?). Vì thiếu lý luận nên dẫn tới giáo điều, dựa nhiều kinh nghiệm nên bảo thủ. Trong khi đó, thực tiễn ở ngày hôm nay thay đổi đến chóng mặt, không có cái nhìn của lý luận không thể nắm bắt được bản chất và dự đoán được tình huống. 

3. Tuyệt đối hóa lý luận, xem Chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh là “kinh thánh”, cái gì, ở đâu cũng Mác nói thế này, Bác Hồ nói thế kia nhưng chẳng ăn nhập gì với thực tiễn, chẳng giúp ích cho thực tiễn. Trong khi đó, thước đo lý luận là ở thực tiễn. Triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, triết học hành động. Vì không hiểu, không nắm bắt được thực tiễn nên cán bộ để phong trào đi xuống, dân tình kêu ca, thế thì cán bộ ấy hiểu gì về Chủ nghĩa Mác, về tư tưởng Bác Hồ? 

Lại có khuynh hướng tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh mà bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng chỉ tư tưởng Bác Hồ mới phù hợp, thích hợp với cách mạng Việt Nam. Khuynh hướng này hoặc là lười học lý luận, kém hiểu biết, hoặc là a dua theo tư tưởng phản động đang muốn tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác. Trong khi đó, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, phát triển một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để tạo ra tư tưởng Hồ Chí Minh, mà cho đến hôm nay thực tế đã chứng minh một cách sinh động nhất đó là sự đúng đắn của thời đại, của lịch sử. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, là ngọn cờ, là điểm tựa cho cách mạng Việt Nam tiếp tục vững bước đi lên gặt hái những thành tựu mới. Không chỉ tiếp thu, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin mà Bác Hồ còn tiếp thu những tinh hoa tư tưởng khác của dân tộc và nhân loại. Người từng nói: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”(1). Thế nên tư tưởng Hồ Chí Minh đậm đà bản sắc riêng: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những đóng góp lớn lao đối với sự phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì những lẽ này, đối với cách mạng Việt Nam, Chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh là một khối thống nhất, hữu cơ, không thể tách rời. (Còn nữa)

Phê phán những nhận thức lệch lạc về tư tưởng Hồ Chí Minh (Bài 2)

4. Tư tưởng của Bác Hồ và chính Người là hiện thân của quan niệm “một tấm gương sống còn giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Tâm lý học hiện đại khẳng định phương pháp giáo dục tốt nhất là giáo dục bằng chính nhân cách nhà giáo dục. Đảng ta cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên lãnh đạo bằng cách nêu gương. Thế mà ở một số nơi có cán bộ lại theo đuôi quần chúng, không bằng quần chúng. Có cán bộ, khi mà cả nước căng mình chống dịch Covid-19 thì ngược lại, làm “tấm gương xấu” cho mọi người! Những người này thường là người ích kỷ, chăm chăm vun vén lợi ích cá nhân, cánh hẩu, vì lợi riêng quên lợi chung... 

5. Bi quan về chủ nghĩa xã hội, dao động trong suy nghĩ, việc làm. Đến nay, ai cũng thấy sự đổ vỡ của Liên Xô (trước đây) là tất yếu vì những sai lầm quá lớn, nhưng có cán bộ, đảng viên ta chỉ nhìn thấy hiện tượng rồi nghe lời kích động của kẻ xấu mà có những phát ngôn không chỉ ngược với đường lối của Đảng mà còn ngược cả với đạo lý truyền thống. Cũng vì bi quan mà thu mình lại trong cái vỏ ốc cá nhân nên có cán bộ né tránh, ngại va chạm, không dám đấu tranh, không có chính kiến, cơ hội, đúng kiểu “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi” như Bác Hồ từng phê phán. 

6. Lại có cán bộ đạt được một ít thành tích thì lên mặt thỏa mãn, huênh hoang cho rằng cơ quan đi lên là nhờ “tài năng” mình lãnh đạo. Họ không biết rằng “nước lên thuyền lên”, cơ quan ấy nằm trong tổng thể công cuộc đổi mới chung của Đảng. Hơn nữa, dù người ấy có tài thật nhưng cũng còn nhờ sự ủng hộ của đồng chí, đồng nghiệp, quần chúng... 

Cần có giải pháp nào để khắc phục? 

Một là, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thực chất hơn nữa. Thực tế cho thấy, việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là đúng đắn, cần lan tỏa sâu rộng hơn nữa vào mọi tầng lớp, nhất là với cán bộ, đảng viên. Phải coi đây là việc làm thường xuyên, lâu dài, hằng ngày. Đây là cách rất cơ bản để “nâng cao đạo đức cách mạng”, góp phần “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. 

Hai là, cần có chế độ kiểm tra, giám sát việc học tập lý luận, nghị quyết Đảng một cách chặt chẽ, thưởng phạt công minh, đưa vào tiêu chí hoàn thành nhiệm vụ hằng năm của cán bộ, đảng viên. 

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu một cách thiết thực, hiệu quả Chủ nghĩa Mác Lê-nin - một trí tuệ lớn lao, một tài sản văn hóa tinh thần vô giá của nhân loại. Cần chứng minh sự gặp gỡ với các chủ nghĩa, các trào lưu tư tưởng lớn khác trên thế giới xưa nay để thấy được giá trị, chiều sâu và ý nghĩa phổ quát của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Cần khắc phục thực tế ở một số trường đại học hiện nay, dạy và học Chủ nghĩa Mác-Lênin còn đại khái, hình thức. 

Bốn là, hiện nay, bộ môn “liên văn hóa” (Intercultural) phát triển mạnh trên thế giới có nhiệm vụ nghiên cứu sự xuyên thấm, tương tác, đối thoại lẫn nhau giữa các nền văn hóa, chú ý tới hiệu quả giao tiếp thể hiện thành các giá trị văn hóa mới. Hồ Chí Minh là một hiện tượng “liên văn hóa” rất tiêu biểu. Các bộ môn nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở nước ta đều có thể vận dụng hướng nghiên cứu này để làm sinh động hơn, phong phú thêm các ý nghĩa mới. (Hết)

Nguồn: Báo QĐND

Những hoạt động lý luận của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn tìm đường cứu nước

Trên hành trình tìm đường cứu nước, cùng với những hoạt động thực tiễn phong phú, Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này), đã chủ động, độc lập, tích cực học tập và nghiên cứu lý luận. 

Hoạt động học tập lý luận của Người tập trung chủ yếu từ khi đến Anh (năm 1913). Qua những tài liệu đã được công bố cho thấy, trong thời gian sống ở Anh, Nguyễn Tất Thành vừa lao động, vừa tự học tập không ngừng nghỉ. Cùng với vốn tiếng Anh học được, “những năm tháng sống ở nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã tích lũy thêm được vốn hiểu biết về chính trị của xã hội tư sản, về đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chính quốc và thuộc địa của một nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển”. 

Tác giả John Callow trong bài viết của mình, suy đoán rằng: “Có thể chính trong thời gian ở Luân Đôn, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã đọc các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Các tác phẩm này được Twentieth Century Press-cơ quan xuất bản của Đảng Dân chủ xã hội Anh, đặt trụ sở tại tòa nhà Clerkenwell Grenn ở Luân Đôn-xuất bản thành những cuốn sách giá rẻ. Ngày nay, tòa nhà này trở thành Thư viện tưởng niệm C.Mác và có một bức chân dung của Hồ Chí Minh được treo ở hành lang bên ngoài căn phòng nơi V.I.Lênin từng ngồi làm việc vào những năm 1902-1903. Tấm chân dung ấy của Hồ Chí Minh là bằng chứng về mối liên hệ giữa nhà xuất bản và vị khách nổi tiếng của mình”.

Những tri thức lý luận tiếp thu được trong quá trình bôn ba qua nhiều nước và thời gian ở Anh, cho phép Nguyễn Tất Thành có những nhận thức đúng đắn để phân tích tình hình thế giới lúc bấy giờ. Người thanh niên yêu nước ấy đã có những nhận định chính xác về Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở cả châu Âu và châu Á khi viết thư gửi Phan Chu Trinh: “Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng, cháu đã nói với Bác về cơn giông sấm động. Số mệnh sẽ còn dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước được ai sẽ thắng. Các nước trung lập còn đang lưỡng lự và các nước tham chiến không thể đoán biết được ý đồ của họ. Tình hình diễn ra là ai thò mũi vào thì chỉ có thể đứng về phe của địch thủ bên này hoặc địch thủ bên kia. Người Nhật Bản hình như có ý định nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong ba hoặc bốn tháng tình hình châu Á sẽ có chuyển biến và sẽ có nhiều chuyển biến”. 

Hoạt động lý luận của Nguyễn Ái Quốc có sự phát triển rõ rệt khi Người trở lại Pháp vào khoảng cuối năm 1917 và gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Trong thời gian này, bằng vốn hiểu biết của mình, Người không chỉ đơn thuần học tập lý luận mà đã tích cực, chủ động viết báo, tham gia các buổi diễn thuyết ở Paris. Trong thời gian sống ở Pháp, tri thức lý luận của Nguyễn Ái Quốc ngày càng được mở rộng. Người hiểu hơn về cuộc chiến tranh thế giới lúc bấy giờ, hiểu được nỗi đau khổ của nhân dân chính quốc và thuộc địa khi phải hy sinh xương máu trên chiến trường vì lợi ích của bọn cá mập tư sản thực dân. Cùng với việc trau dồi vốn tiếng Pháp, Người đã tích cực tới thư viện để nghiên cứu những vấn đề mà mình quan tâm. Ở đây, Người được đọc trực tiếp các tác phẩm của các nhà tư tưởng tiến bộ Pháp cũng như phương Tây, nhất là thời kỳ khai sáng, cận đại. 

Bên cạnh đó, Người chủ động tìm đọc các tác phẩm văn học của Shakespeare, Dickens, Huygo, Zola, Anatole France... Nhận thấy vốn kiến thức chính trị của mình còn có những hạn chế nhất định, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia các các cuộc thảo luận với rất nhiều chủ đề, hình thức khác nhau. Tác giả Trần Dân Tiên đã kể lại: “Trong những buổi hội họp nói chuyện ở Paris, người ta thảo luận đến tất cả các vấn đề. Từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học cho đến cách trồng cải soong và nuôi ốc sên. Trong những buổi họp này có tất cả các hạng người: Bác học, cựu bộ trưởng, nghị viên, nhà văn, thợ thuyền, người đi buôn, người già và người trẻ. Ở đây có một không khí thân mật và dân chủ, giống như ở những câu lạc bộ Giacobanh (Jacobins) thời Đại cách mệnh Pháp. Ở đây người ta có thể học nhiều chuyện và nhận xét mọi người. Thật là bổ ích”. Thông qua đó để vừa học hỏi, nắm bắt thêm tình hình, thấy được bầu không khí cách mạng, vừa bày tỏ cho mọi người biết về tội ác của thực dân Pháp ở những nơi mà Người được chứng kiến, cũng như tình cảnh dân tộc của mình. Với những hoạt động trên, tư duy lý luận của Nguyễn Ái Quốc ngày càng phát triển, nhận thức các vấn đề chính trị, cách mạng ngày càng sâu sắc hơn. 

Cùng với việc học tập lý luận, Nguyễn Ái Quốc đã bước đầu tiến hành tổng kết những kinh nghiệm, hiểu biết đã tích lũy trong thời gian trước đó, nhất là về vấn đề chủ nghĩa thực dân và vấn đề thuộc địa. Điều này được thể hiện rõ qua nhiều bài báo mà Người đã viết: "Tâm địa thực dân", "Vấn đề dân bản xứ", "Đông Dương và Triều Tiên", "Thư gửi ông Utơrây", "Chính sách thuộc địa"... Qua đó đã thể hiện cái nhìn sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc về nhiều vấn đề của cách mạng, mặc dù chưa nghiên cứu sâu về Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy, thời đại mới chính là “thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự quyết”, “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”. Tuy nhiên, thực dân Pháp lại duy trì một nền bạo chính ở các thuộc địa của mình. Điều đó khiến nó tạo ra một sự đối nghịch sâu sắc giữa người bản xứ và bọn thực dân, cả về tâm lý, hành chính, pháp lý, về kinh tế và văn hóa: “Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca”. 

Với sự từng trải và những ngày tháng miệt mài nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy: “Từ lâu, chủ nghĩa tư bản phương Tây như con rắn nhiều đầu, thấy châu Âu là nơi quá chật hẹp để bóc lột và máu của vô sản châu Âu không đủ dồi dào để thỏa mãn thèm khát, nó bèn vươn những cái vòi khủng khiếp của nó tới khắp nơi của quả đất. Bọn tư bản Anh, Đức hoặc Pháp, tất cả đều tương xứng nhau”. Và vì vậy, nếu không có những vệ tinh thì chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại. Cho nên “Ngày nay không còn là lúc phải đặt vấn đề Đảng có cần hay không cần một chính sách thuộc địa, bởi ngày nay không thể có sự tách biệt giữa thuộc địa và chính quốc, giữa vô sản ở nơi này và vô sản ở nơi kia”. 

Một hoạt động lý luận rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc là soạn thảo (nội dung ý kiến do Người đề ra, luật sư Phan Văn Trường viết), sau đó thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles bản "Yêu sách của nhân dân An Nam". Nó như một đúc kết mong muốn trước mắt của những người yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ. Mặc dù không được chấp nhận nhưng nó như là một tuyên bố chính trị của nhân dân Việt Nam trước thế giới, mở đầu cho việc đòi những quyền dân tộc cơ bản, đồng thời phơi bày bản chất, dã tâm lừa bịp của bọn thực dân, đế quốc với nhân dân các thuộc địa, mở ra một giai đoạn mới trong phong trào giải phóng dân tộc. Qua hoạt động này, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi trong cách tiếp cận, trong hành động để giải phóng dân tộc: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Vì vậy, không thể tin những lời tuyên bố tự do đầy đường mật của các nhà chính trị tư bản trong chiến tranh mà cần phải tìm kiếm một lý luận, một phương pháp khác. 

Những hoạt động tổng kết thực tiễn này có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn toàn diện về chủ nghĩa thực dân, về tình cảnh, vị trí, vai trò của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Vào năm 1920, Người đã chuẩn bị tư liệu và viết một quyển sách về tình hình Đông Dương với nhan đề "Những người bị áp bức". Tuy nhiên, nó đã không ra mắt độc giả vì bản thảo bị mất (nhưng đây cũng là cơ sở để sau này Người viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp"), như một sự đánh giá tổng kết về chủ nghĩa thực dân và các dân tộc thuộc địa. Trên cơ sở đó đi đến khẳng định: “Thế giới sẽ chỉ có nền hòa bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó”. 

Từ khi biết được về Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, cùng với đó là việc thành lập Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã để tâm nghiên cứu và có những hiểu biết nhất định về những vấn đề cách mạng. Điều đó được thể hiện qua việc trao đổi với các đồng chí của mình trong Đảng Xã hội Pháp và với nhiều người Việt Nam yêu nước đang ở Paris, cũng như trong diễn thuyết. Vào ngày 11-2-1920, Người đã trình bày đề tài Chủ nghĩa bônsêvích ở châu Á tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản quận 2, đồng thời còn trình bày cả vấn đề ruộng đất công ở Trung Quốc và Việt Nam. Cùng với hoạt động thực tiễn, những hoạt động lý luận để tìm đường giải phóng dân tộc là một nhân tố rất quan trọng dẫn Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, đăng trên Báo Nhân đạo (L'Humannite, số ra ngày 16 và 17-7-1920), cộng với những trải nghiệm của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy câu trả lời cho con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào mình sau bao nhiêu năm tìm kiếm- con đường cách mạng vô sản. 

Những hoạt động lý luận của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn tìm đường cứu nước không chỉ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc Người tìm thấy con đường cứu nước mà còn định hình cho những hoạt động lý luận sau này của Hồ Chí Minh. Những hoạt động lý luận của Người trong giai đoạn sau chính là sự phát triển, hoàn thiện những nội dung, phương thức hoạt động lý luận của giai đoạn trước đó. Điều này cũng có sức gợi mở rất lớn để vận dụng phương pháp, cách thức của Người nhằm nâng cao chất lượng trong tiến hành các hoạt động lý luận hiện nay. 

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN THẾ(*)

(*)Nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Nguồn: BQĐND

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị P4G

Hội nghị thượng đỉnh Đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu (P4G) 2030 diễn ra từ ngày 30 đến 31-5 theo hình thức trực tuyến dưới sự chủ trì của Tổng thống nước chủ nhà Hàn Quốc Moon Jae-in.

Tham dự hội nghị có gần 70 lãnh đạo cấp cao các nước thành viên P4G, các khách mời và lãnh đạo các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc (LHQ), Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA)... 

Phát biểu khai mạc, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng đặc biệt của Hội nghị thượng đỉnh P4G năm nay với chủ đề “Phục hồi xanh bao trùm hướng tới mục tiêu trung hòa carbon”. Tổng thống Moon Jae-in tuyên bố Hàn Quốc cam kết tăng cường đóng góp vào các nỗ lực chung và hỗ trợ các nước đang phát triển trong lĩnh vực môi trường, tăng trưởng xanh, nổi bật là thành lập Quỹ chiến lược xanh mới với quy mô 5 triệu USD, đóng góp thêm 4 triệu USD cho cơ chế P4G. 

Hoạt động quan trọng nhất của hội nghị thượng đỉnh là phiên thảo luận cấp cao diễn ra tối 31-5 (theo giờ Việt Nam) với sự tham dự trực tuyến của lãnh đạo cấp cao các nước: Hàn Quốc, Đan Mạch, Colombia, Chủ tịch Ủy ban châu Âu, Việt Nam, Hà Lan, Kenya, Costa Rica, Peru, Áo, Thái Lan, Campuchia, Đặc phái viên về biến đổi khí hậu (BĐKH) của Tổng thống Hoa Kỳ và Tổng giám đốc IMF. 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự phiên thảo luận cấp cao với tư cách là thành viên sáng lập của P4G. Tại phiên họp, các nhà lãnh đạo tập trung thảo luận 3 vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay, đó là: Phục hồi xanh từ đại dịch Covid-19, nỗ lực của cộng đồng quốc tế đạt mục tiêu trung hòa carbon đến năm 2050 và tăng cường hành động vì khí hậu và tạo thuận lợi cho hợp tác công-tư. 

Phát biểu tại phiên thảo luận cấp cao, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng thế giới đang trải qua những tác động cộng hưởng với mức độ và quy mô chưa từng có của 3 thảm họa là đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu và sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên; để lại các hệ lụy to lớn, nhiều mặt, không chỉ hiện nay mà còn với các thế hệ tương lai. Thủ tướng nhấn mạnh chính đại dịch và những khó khăn, thách thức cũng để các nước thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường sống, bảo đảm hài hòa giữa con người và thiên nhiên và là động lực để thúc đẩy các nước cùng hợp tác vượt qua. Thủ tướng đề nghị hơn lúc nào hết, cộng đồng quốc tế cần đồng lòng, chung sức giải quyết hài hòa giữa nhu cầu cấp bách phục hồi kinh tế với yêu cầu phát triển xanh và phát triển bền vững hơn thời kỳ hậu Covid-19. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đưa ra sáu giải pháp quan trọng tại phiên thảo luận: 

Thứ nhất, phục hồi xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn cần được triển khai quyết liệt ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu, trong đó khuôn khổ chung là các SDGs của LHQ và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Phương châm là chuyển đổi tư duy, phương pháp luận và cách tiếp cận thực tế từ bị động ứng phó các thách thức sang kết hợp một cách hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa ứng phó với chuyển đổi phát triển kinh tế xanh. 

Thứ hai, chuyển đổi xanh cần có lộ trình phù hợp, tính đến điều kiện và năng lực khác nhau của các quốc gia. Các nước phát triển cần tiếp tục tiên phong thực hiện cam kết về giảm phát thải, đồng thời hỗ trợ về tài chính, công nghệ và thể chế cho các nước đang phát triển và các nước bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. 

Thứ ba, quan tâm xây dựng thể chế để khuyến khích sự hưởng ứng và tham gia của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhất là doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các dự án công-tư trong tăng trưởng xanh; hình thành các chuỗi giá trị và ngành nghề mới thông qua xanh hóa sản xuất công-nông nghiệp và dịch vụ. 

Thứ tư, nâng cao năng lực chủ động thích ứng của những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, trong đó có khu vực Tiểu vùng sông Mekong và Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong quản lý, sử dụng bền vững nguồn nước xuyên biên giới, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, an ninh nguồn nước của khu vực và thế giới. 

Thứ năm, ngăn chặn, đẩy lùi và giải quyết cơ bản đại dịch Covid-19 là giải pháp cấp bách hiện nay; đề nghị tăng cường hỗ trợ cung cấp các nguồn vaccine, hợp tác đi lại và duy trì ổn định chuỗi cung ứng toàn cầu, thúc đẩy thương mại-đầu tư quốc tế. 

Thứ sáu, nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, tôn trọng vì lợi ích chung của toàn nhân loại, bảo đảm môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. 

Trong bài phát biểu quan trọng tại phiên họp, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh quyết tâm của Việt Nam thực hiện “mục tiêu kép” vừa chống dịch, vừa phục hồi kinh tế; đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển xanh với con người là trung tâm, chủ thể và mục tiêu cao nhất của phát triển, trong đó có phát triển xanh. Tại hội nghị, Thủ tướng bày tỏ lời cảm ơn và mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ, hợp tác hiệu quả hơn nữa của các nước, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp, nhất là trong các dự án hợp tác phát triển hạ tầng chiến lược chất lượng cao, kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn thích ứng với BĐKH, phát triển đô thị thông minh... hỗ trợ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. 

Các nhà lãnh đạo nhất trí cho rằng, khủng hoảng khí hậu và đại dịch Covid-19 là hai thách thức toàn cầu khẩn cấp. Nhiều ý kiến nhấn mạnh phục hồi theo hướng xanh và bền vững cần trở thành ưu tiên hàng đầu của các quốc gia và cộng đồng quốc tế nhằm tạo bước ngoặt trong thực hiện Thỏa thuận Paris về khí hậu và các Mục tiêu phát triển bền vững 2030 (SDGs). Các nhà lãnh đạo cũng đề cao tầm quan trọng của việc xây dựng quan hệ đối tác bao trùm giữa chính phủ, doanh nghiệp và người dân, nhất là đối tác công-tư (PPP). 

Hội nghị đánh giá rất cao phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, đã đưa ra thông điệp rõ ràng, nhất quán, khẳng định chủ trương xuyên suốt của Việt Nam trong phát triển bền vững, ứng phó BĐKH với phương châm kiên quyết không chấp nhận mô hình “tăng trưởng trước, dọn dẹp sau”, không chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà phải hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường sống của người dân. 

Kết thúc phiên thảo luận, các nhà lãnh đạo đã nhất trí thông qua Tuyên bố Seoul, khẳng định cam kết chính trị mạnh mẽ của các nhà lãnh đạo P4G và các đối tác, đồng thời đưa ra những định hướng, giải pháp lớn nhằm phục hồi xanh, ứng phó BĐKH và phát triển bền vững, bao trùm, hướng tới mục tiêu trung hòa carbon. Nổi bật là quản lý nguồn nước bền vững, thông minh; đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo, ứng dụng công nghệ hydro; xây dựng nông nghiệp bền vững gắn với bảo đảm an ninh lương thực; phát triển thành phố xanh thông minh; đẩy mạnh chuyển đổi sang “xã hội không rác thải”; tăng cường hỗ trợ chuyển đổi xanh tại các nước đang phát triển gắn với cung cấp tài chính, công nghệ, bảo vệ các nhóm dễ tổn thương. 

Các nhà lãnh đạo P4G đánh giá cao vai trò và những cam kết mạnh mẽ của nước chủ nhà Hàn Quốc và trông đợi Hội nghị thượng đỉnh P4G lần thứ 3 được tổ chức tại Colombia vào năm 2023. Việc Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự và phát biểu tại hội nghị khẳng định đóng góp tích cực, trách nhiệm của Việt Nam vào các vấn đề chung toàn cầu cũng như góp phần củng cố quan hệ Đối tác và hợp tác chiến lược Việt Nam-Hàn Quốc. 

Hội nghị thượng đỉnh P4G lần thứ 2 đã thành công tốt đẹp, tạo động lực mới trong việc thống nhất nhận thức, chia sẻ trách nhiệm, chung tay ứng phó BĐKH và thực hiện mục tiêu xanh toàn cầu. Những cam kết mạnh mẽ tại hội nghị là nền tảng quan trọng hướng tới Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của LHQ về BĐKH (COP26).

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Năm, 20 tháng 5, 2021

Thủ đoạn “đục nước béo cò” phá hoại cuộc bầu cử

Càng gần đến ngày bầu cử, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị càng ra sức chống phá, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Không còn cơ hội “tự ứng cử” vào Quốc hội và HĐND các cấp, chúng bèn tung trên mạng xã hội, trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, tán phát cái gọi là “thư ngỏ”, “thư kiến nghị”, “góp ý”, “lời tâm huyết”... với mục đích làm "đục nước béo cò”. Những luận điệu này được che đậy dưới những thủ đoạn tinh vi. Nếu ai mất cảnh giác, có thể lầm tưởng, thậm chí bị dẫn dắt và tin theo.

Từ cuối năm 2020, một số người tự xưng là “nhà dân chủ”, “nhà hoạt động xã hội vì dân” đã lên mạng xã hội tuyên bố hùng hồn rằng sẽ “ra tranh cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và kêu gọi mọi người “hãy ủng hộ” kèm theo những lời hứa, như: “Nếu trở thành ĐBQH tôi sẽ đấu tranh cho quyền lợi của dân”, “Tôi sẽ xây dựng những dự án luật vì dân”, “Tôi sẽ giám sát ...”, “Tôi sẽ quyết định...” như thể họ là siêu nhân. Có người còn trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài thể hiện “quyết tâm trở thành ĐBQH” với hy vọng hão huyền nếu trúng cử sẽ biến Quốc hội trở thành diễn đàn cho họ thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, chống phá Nhà nước, gây rối hoạt động của cơ quan dân cử nói riêng và của Nhà nước nói chung, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” ngay trong cơ quan dân cử của nước ta. 

Đến thời điểm đăng ký ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp, đã có không ít người nộp hồ sơ tự ứng cử. Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND đã nêu rất rõ quy trình để người nộp hồ sơ trở thành ứng cử viên ĐBQH. Trước hết, người nộp hồ sơ ứng cử phải là công dân Việt Nam đủ 21 tuổi trở lên. Thời gian nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử. Người ứng cử nộp hai bộ hồ sơ ứng cử tại ủy ban bầu cử cấp tỉnh nơi mình cư trú hoặc công tác thường xuyên. Sau khi nhận và xem xét hồ sơ, nếu thấy hợp lệ theo quy định thì ủy ban bầu cử chuyển hồ sơ ứng cử của người ứng cử đến Hội đồng Bầu cử quốc gia; chuyển danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của người ứng cử đến ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh để đưa vào danh sách hiệp thương lần thứ hai. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai là để thỏa thuận, lập danh sách sơ bộ những người ứng cử. Sau hội nghị hiệp thương lần thứ hai, người ứng cử chưa phải là ứng cử viên chính thức bởi người ứng cử phải bảo đảm có sự tín nhiệm của cử tri nơi công tác và nơi cư trú. Người ứng cử nếu không đạt sự tín nhiệm của trên 50% tổng số cử tri tham dự tại hội nghị cử tri nơi cư trú thì không đưa vào danh sách giới thiệu tại hội nghị hiệp thương lần thứ ba. 

Như vậy, những người nộp hồ sơ ứng cử phải qua các bước nói trên, khi đủ tiêu chuẩn mới trở thành ứng cử viên chính thức. Vậy mà một số người mới nộp hồ sơ tự ứng cử, chưa trở thành ứng cử viên nhưng đã ngang nhiên lên mạng xã hội tự cho mình là “ứng cử viên ĐBQH” để rầm rộ các hoạt động mà họ gọi là “tranh cử”, như: “Đối thoại với cử tri”, “tranh luận cùng các ứng cử viên”... thực chất là các hoạt động nói xấu chế độ nhằm gieo rắc trong dư luận những quan điểm lệch lạc, sai trái, gây nhiễu loạn thông tin, xuyên tạc thông tin nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại công cuộc đổi mới ở Việt Nam và xin tiền tài trợ từ những người nhẹ dạ cả tin, các tổ chức phản động ở nước ngoài. 

Điều đáng lưu ý là một số tổ chức phản động và các trang tin điện tử, mạng xã hội thiếu thiện chí cũng cố tình đánh lừa dư luận bằng cách mập mờ hai khái niệm: Người nộp hồ sơ tự ứng cử và chính thức trở thành ứng cử viên. 

Đến khi không được cử tri nơi cư trú tín nhiệm, không có tên trong danh sách người đủ tiêu chuẩn ứng cử sau hội nghị hiệp thương lần thứ ba, họ bèn rêu rao trên mạng xã hội và một số trang thông tin nước ngoài rằng, hội nghị cử tri nơi cư trú là nơi để đấu tố, loại bỏ người tự ứng cử và “hệ thống bầu cử Việt Nam thiếu minh bạch và không công bằng”. 

Rồi đến khi họ vi phạm pháp luật, bị tạm giam thì lu loa cho rằng “do tự ứng cử ĐBQH mà bị bắt”. Có người còn gửi đơn thư đến một số tổ chức quốc tế “tố cáo” rằng: “Trước ngày bầu cử ĐBQH, chính quyền Việt Nam đang tiến hành đợt đàn áp mới với việc bắt giữ và truy tố các cá nhân là các ứng cử viên độc lập”. Cùng với màn diễn “tự ứng cử” để chống phá bầu cử của một số đối tượng tự xưng là “nhà dân chủ”, một số đối tượng chống đối khác lại diễn vở “khóc mướn” khi những “nhà dân chủ” vi phạm pháp luật bị bắt. 

Thực tế là từ ngày 27-4-2021 (ngày Hội đồng Bầu cử quốc gia công bố danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội tại 184 đơn vị bầu cử trong cả nước, trong đó có 9 người tự ứng cử) đến nay chưa hề có ứng cử viên ĐBQH nào bị tạm giam, tạm giữ cả. 

Tuần qua, trên mạng xã hội lại tiếp tục xuất hiện các “tâm thư”, “lời tâm huyết”, “thư ngỏ gửi cử tri”... với những lời lẽ xuyên tạc, bịa đặt kêu gọi “toàn dân tẩy chay cuộc bầu cử”. Một số tổ chức phản động, phần tử phản động lưu vong từ nước ngoài cũng “gửi lời kêu gọi” đề nghị các cử tri tẩy chay cuộc bầu cử vào ngày 23-5 tới. Chúng ngụy biện đưa ra quan điểm: “Hiến pháp hiện hành của Việt Nam quy định đi bầu cử là quyền công dân. Đã là quyền thì công dân có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Không có quy định nào bắt buộc công dân Việt Nam phải tham gia đi bỏ phiếu bầu ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp”... 

Có lẽ chúng không biết hoặc cố tình không biết, tại Điều 15 của Hiến pháp năm 2013 quy định rất rõ trong khoản 1: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” và khoản 3: “Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội”. Như vậy đi bầu cử vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. 

Cũng có người lên mạng xã hội “vận động” không bầu ĐBQH đối với những ứng cử viên do Trung ương giới thiệu bởi “Trung ương xa lắm, có biết họ là ai đâu” và kêu gọi “không biết ai thì không bầu người ấy”... Có lẽ họ không biết Điều 79 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước". 

Gần đây, một số đối tượng còn đưa thông tin bịa đặt, bôi nhọ đời tư một số đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước trong danh sách ứng cử ĐBQH. Chúng bịa đặt, bôi nhọ về nguồn gốc xuất thân, gia đình, bản thân cán bộ lãnh đạo, từ quá trình trưởng thành đến việc nâng đỡ, ưu ái khuất tất trong quá trình công tác... Thậm chí, chúng còn gán ghép ảnh của các đồng chí lãnh đạo với các hình ảnh về lối sống xa hoa, buông thả, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch... hòng làm cho người xem, người nghe nghi ngờ với những thông tin chính thống. 

Khi dịch Covid-19 có diễn biến phức tạp, một số đối tượng lại tiếp tục đưa ra “lời cảnh báo", rằng: "Không nên đến các địa điểm bầu cử vì nguy cơ lây nhiễm Covid-19 trong cộng đồng là rất cao”. Thực tế là chúng ta luôn cảnh giác cao độ trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 nhưng chúng ta đã có các giải pháp an toàn cho ngày bầu cử. Cuối tuần qua, Văn phòng Chính phủ đã phát đi thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Cuộc họp Thường trực Chính phủ về công tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Thông báo nêu rõ, mục tiêu cao nhất là tập trung bảo đảm và tổ chức thành công cuộc bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp vào ngày 23-5 an toàn tuyệt đối về an ninh, trật tự, nhất là chống dịch Covid-19. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Nội vụ phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Hội đồng Bầu cử quốc gia, Bộ Y tế và các cơ quan liên quan hướng dẫn cụ thể công tác chuẩn bị trong ngày bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 để bảo đảm cuộc bầu cử diễn ra an toàn, thành công. 

Các địa phương trong cả nước cũng đã và đang xây dựng các phương án, kịch bản cụ thể cho công tác phòng, chống dịch trong ngày bầu cử. Ngoài thực hiện thông điệp "5K" tại các điểm bầu cử, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương đang có ổ dịch đã có thêm các biện pháp phòng, chống dịch tại nơi bầu cử và có phương án riêng đối với những điểm cách ly, phong tỏa. Không tổ chức khai mạc đông người trong ngày bầu cử. Chia nhỏ cử tri thành nhiều đợt để bỏ phiếu theo giờ, tránh tập trung đông người. Tại mỗi điểm bầu cử, khu bỏ phiếu đều phải có đầy đủ điều kiện phòng dịch, như: Sát khuẩn, giữ khoảng cách, đo thân nhiệt cử tri, yêu cầu phải đeo khẩu trang y tế, đặt vị trí thùng phiếu đúng khoảng cách an toàn để bảo đảm khoảng cách an toàn cho cử tri khi ghi phiếu, bỏ phiếu và trong lúc đứng chờ bỏ phiếu. 

Để ngày bầu cử sắp tới thực sự trở thành ngày hội lớn của toàn dân, các cấp, các ngành và các địa phương cần thực hiện tốt những quy định về tổ chức bầu cử. Đặc biệt, cần làm thật tốt công tác tuyên truyền về bầu cử và phòng, chống dịch Covid-19. Công tác tuyên truyền về bầu cử phải đúng sự chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng và Hội đồng Bầu cử quốc gia, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm, không phô trương, hình thức; tạo không khí phấn khởi trong nhân dân; gắn với triển khai thực hiện nhiệm vụ của đất nước, bộ, ngành, địa phương, đơn vị và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Chú trọng tuyên truyền các quy định của pháp luật về bầu cử, tuyên truyền công tác chuẩn bị bầu cử và không khí dân chủ, đúng pháp luật trong bầu cử, nhất là ý thức tự giác trong thực hiện quyền lợi và trách nhiệm của cử tri. Các cơ quan báo chí cần tăng cường tuyên truyền với các hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực, hiệu quả; đồng thời kêu gọi cộng đồng và người dân không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác và chung sức, đồng lòng cùng Đảng, Nhà nước ngăn chặn, đẩy lùi dịch Covid-19 để phát triển kinh tế. 

Cấp ủy, chính quyền các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp cần đặc biệt coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác bầu cử (chuẩn bị tổ chức và quá trình thực hiện, các kịch bản ứng phó với diễn biến mới của dịch Covid-19). Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho các ứng cử viên tiến hành vận động bầu cử và tổ chức thật tốt các khâu, các bước tiến tới cuộc bầu cử; vận động cử tri đi bầu với tỷ lệ cao nhất; tổ chức tốt việc niêm yết danh sách cử tri; danh sách, tiểu sử những ứng cử viên ĐBQH, HĐND các cấp; các quy định về trình tự, thể thức, địa điểm bầu cử, thời gian đi bỏ phiếu... 

Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cần biểu dương kịp thời những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác bầu cử, nhất là bầu cử ở nơi biên giới, hải đảo, các vùng còn nhiều khó khăn, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Đồng thời rà soát lại kế hoạch bảo đảm an toàn cho công tác bầu cử ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, nhất là các kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, y tế; phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, bão lũ; phòng, chống cháy nổ, an toàn, vệ sinh thực phẩm... 

Đi bầu cử ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi cử tri. Thông qua bầu cử, công dân trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần thiết lập bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội. Vì vậy, thực hiện bầu cử là trách nhiệm của công dân đối với đất nước. Mọi hành vi tuyên truyền xuyên tạc tính dân chủ, lợi dụng dân chủ để phá hoại cuộc bầu cử; kích động, kêu gọi người dân tẩy chay bầu cử; ngăn cản người dân không tham gia bầu cử, cổ xúy cho chủ nghĩa tự do vô chính phủ... là vi phạm pháp luật về bầu cử, xâm phạm quyền bầu cử của công dân. Điều 95, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND quy định: “Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự”. 

Chính vì vậy, các cử tri cần tỉnh táo, kịp thời phát hiện, chủ động đấu tranh với các hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để xuyên tạc, vi phạm pháp luật, phá hoại cuộc bầu cử, góp phần giữ vững ổn định, đóng góp vào thành công trong ngày hội lớn của đất nước. Các cơ quan chức năng của Nhà nước cần tăng cường và kiên quyết đấu tranh, phản bác thông tin, quan điểm sai trái, xuyên tạc phá hoại cuộc bầu cử, lợi dụng bầu cử để kích động, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng và Nhà nước. Đồng thời xử lý nghiêm các hành vi “đục nước béo cò”, làm vẩn đục bầu không khí ngày hội của nhân dân.

Nguồn: Báo QĐND

Những kẻ xuyên tạc Hồ Chí Minh vì mục đích cá nhân, mà chủ yếu là lợi ích kinh tế

Thời gian gần đây, một số cá nhân, tổ chức phản động đã đưa ra một số luận điệu xuyên tạc cuộc đời sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với mục đích chính trị, lợi ích kinh tế tầm thường. Những người này chỉ vì một chút lợi ích kinh tế mà họ bán rẻ lương tâm của mình khi đưa ra những lời lẽ, xuyên tạc, bịa đặt bôi nhọ Hồ Chí Minh, một con người được nhân dân tiến bộ thế giới hết mực kính trọng, được UNESCO ghi nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc - Nhà văn hóa kiệt xuất.

Những cá nhân này đã có óc hoang tưởng và cho rằng đó là những “công trình”, “tư liệu” của mình về Hồ Chí Minh là “một cái nhìn công bằng, hiện thực” (Lữ Phương); “vạch ra chân tướng thật sự của ông Hồ, không nhằm mục đích tôn vinh hay bôi bẩn ông mà chỉ có ước mong vẽ lại cho đúng chân dung của ông” (Trần Viết Đại Hưng); phải bằng mắt thấy, tai nghe, óc phân tích và “khi nghe ai nói, tôi cũng hỏi cặn kẽ để biết nguồn tài liệu có đáng tin không; bao nhiêu là thực, bao nhiêu là giả” (Việt Thường); “hoàn toàn bảo đảm tính khách quan và tính hợp lý”, v.v.. Song, bản chất thực sự của họ chỉ vì tiền, thậm chí đó là một “nghề” của họ: ở nước ngoài gọi là nghề “chống cộng, cứu nước” hay nghề “làm chính trị”; còn ở trong nước gọi là nghề “đấu tranh dân chủ” hay nghề “xuyên tạc lịch sử”.

Đây là những đối tượng có mưu đen tối, có chung một mục đích chống phá cách mạng Việt Nam, xuyên tạc Hồ Chí Minh, nhưng bởi đây là “nghề” được đánh giá là “làm giàu nhanh chóng”, nên giữa họ luôn có sự cạnh tranh, đấu đá, đôi khi sát phạt nhau. Họ tranh giành địa phận, quyền ảnh hưởng, độc quyền nhận tài trợ, quyên góp từ các tổ chức phản động quốc tế hay trong cộng đồng, tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài.Hãy xem cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận xét như thế nào về số gười Việt chống đối ở hải ngoại. Trong bộ phim tài liệu Người Việt 30 năm sau tản cư trên đất Mỹ, ông đã bộc bạch: Họ chỉ là thiểu số và là “một lũ côn đồ”, “hám danh, hám lợi”, “cứ nhân danh chính nghĩa, quốc gia, chống cộng, tự do, dân chủ để lừa gạt mọi người”.

Như vậy, không cần nói gì thêm nữa, không ít kẻ vì những đồng tiền dơ bẩn mà bán rẻ cả lương tâm!

Cảnh giác với âm mưu phá hoại bầu cử

 Cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp (HĐND) là đợt sinh hoạt dân chủ sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân; cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng trên mọi mặt của đời sống xã hội. Thế nhưng lợi dụng vào sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã tung ra “chiến dịch” tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt, chống phá cuộc bầu cử.

Trên các trang truyền thông quốc tế như RFA, VOA, BBC,… họ đưa ra các bài viết, phỏng vấn có nội dung xuyên tạc về cuộc bầu cử như: “Nhiều cử tri tẩy chay cuộc bầu cử”, “Bầu cử Quốc hội Việt Nam thiếu tự do và không công bằng”, “Ứng viên độc lập bị giam cầm”… Đồng thời, tung ra các bài viết kích động chống phá trên diễn đàn mạng xã hội Facebook, YouTube, các website, blog chống đối. Luận điệu mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tập trung công kích, xuyên tạc, diễn biến có thể khái quát ở mấy điểm sau đây:

Một là, xuyên tạc, kích động phá hoại bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp. Chúng bịa đặt, suy diễn rằng: “Việc bầu cử Quốc hội không phải là quyền lợi, nghĩa vụ, không có dân chủ, đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, sắp xếp, chia chác “ghế ngồi”, nhân dân không có quyền thật sự”. Hay “ở Việt Nam làm gì có dân chủ trong bầu cử, ứng cử”, là “dân chủ trình diễn”,… từ đó họ kêu gọi phải sửa đổi nguyên tắc, quy định bầu cử, tạo điều kiện cho tất cả mọi người được ứng cử tự do.

Hai là, kêu gọi toàn dân tẩy chay cuộc bầu cử. Tổ chức khủng bố Việt Tân, Hội anh em dân chủ, những phần tử phản động, lưu vong kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử. Chúng ngụy biện tung ra các luận điệu sai sự thật về quyền công dân.

Ba là, hạ thấp vai trò của Quốc hội, như: “Quốc hội là một hình thức ngụy dân chủ của nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam để lừa dối nhân dân, là một công cụ của Đảng để cai trị nhân dân và đất nước”; “tất cả những người mà được gọi là đại biểu Quốc hội đều được tầng lớp chóp bu độc tài cộng sản Việt Nam lựa chọn và quyết định từ trước, bầu cử chỉ là hình thức”.

Bốn là, thông tin bịa đặt, bôi nhọ đời tư của lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước được đề cử ứng cử đại biểu Quốc hội. Chúng bịa đặt, bôi nhọ về nguồn gốc xuất thân, gia đình tới bản thân cán bộ lãnh đạo, từ quá trình trưởng thành, học hành kém cỏi, thành tích bất hảo, tư cách đạo đức yếu kém đến việc nâng đỡ, ưu ái khuất tất trong quá trình công tác; bôi nhọ lối sống sa hoa, buông thả, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, lợi ích nhóm để trục lợi vơ vét tiền của, sắp xếp “cánh hẩu” để tham nhũng chức quyền… Những thông tin bịa đặt, sai trái được viết theo kiểu quy chụp đen tối, bao nhiêu tiêu cực, xấu xa đều quy cho cán bộ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quy chụp cho chế độ.

Những luận điệu mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị nêu ra là xuyên tạc, bịa đặt với phương thức, thủ đoạn tinh vi, nhằm hạ thấp vai trò, ý nghĩa của cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, gieo rắc nhận thức lệch lạc, sai lầm liên quan đến hoạt động bầu cử ở Việt Nam; là “hình thức”, “ngụy dân chủ”; xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền, hình ảnh méo mó về thể chế chính trị, đời sống chính trị, xã hội ở Việt Nam trên trường quốc tế. Vì vậy, mỗi cử tri cần nhận diện thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, đề cao cảnh giác, không a dua, cổ suý, mắc mưu kẻ xấu; nêu cao ý thức, trách nhiệm công dân trước sự kiện chính trị quan trọng của nước nhà. 

Nhận dạng và đấu tranh bác bỏ thủ đoạn bôi nhọ, xuyên tạc Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, một bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Người là sự hội tụ và phát huy đến mức cao nhất, hoàn mỹ nhất tinh hoa của dân tộc và nhân loại từ cổ chí kim, từ phương Ðông và phương Tây, trí dũng và nhân văn, vĩ đại và giản dị, khiêm nhường. Tư tưởng của Người là nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta. Chính vì thế, để chống phá sự nghiệp đổ mới ở Việt Nam hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để bôi nhọ danh dự, hình tượng Hồ Chí Minh, phá hoại “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” bằng cách ngụy tạo chứng cứ và xuyên tạc bóp méo tài liệu lịch sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh hòng làm mất đi lòng tin tưởng, tôn kính của nhân dân ta, từ đó đi đến suy giảm niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. 
 
Thực hiện mưu đồ trên, các thế lực thù địch thường tập trung khoét sâu vào các vấn đề nhân thân, lai lịch, đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo kiểu dựa trên những nguồn thông tin không rõ nguồn gốc, hình ảnh đã photoshop hoặc cắt xén để nhào nặn ra những tác phẩm sai trái có liên quan đến con người, thân thế và sự nghiệp của Người.

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc trên đều nhằm thủ đoạn tạo “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chống phá cách mạng nước ta. Do vậy, mỗi người dân Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hãy luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận dạng và đấu tranh bác bỏ các luận điệu xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch nhằm bôi nhọ đến thanh danh, đạo đức, nhân phẩm Chủ tịch  Hồ Chí Minh.

Thứ Hai, 17 tháng 5, 2021

Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 viết “quyết tâm thư” sẵn sàng xung phong vào vùng dịch

Trong trận chiến chống dịch Covid-19, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, đã có hơn 400 đồng chí cán bộ, y, bác sĩ trẻ tại Bệnh viện TWQĐ 108 viết “quyết tâm thư” sẵn sàng xung phong vào vùng dịch bùng phát nhằm bảo vệ sức khỏe của người dân. 

Trước tình hình đại dịch Covid-19 đang ngày càng phức tạp, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Trung tướng Vũ Hải Sản, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng về tăng cường lực lượng lấy mẫu và xét nghiệm virus SARS-CoV-2 tại tỉnh Bắc Ninh, Bệnh viện TWQĐ 108 đã cử 10 cán bộ, thầy thuốc của Trung tâm Xét nghiệm nhận nhiệm vụ lấy mẫu xét nghiệm virus SARS-CoV-2, cùng trang bị, dụng cụ, vật tư, hóa chất và quần áo phòng hộ, tăng cường cho Sở Y tế tỉnh Bắc Ninh. 

Chiều 17-5, 10 cán bộ, thầy thuốc của Bệnh viện TWQĐ 108 đã có mặt tại địa điểm Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh để nhận nhiệm vụ. Các đồng chí sẽ thực hiện lấy mẫu và báo cáo kết quả xét nghiệm hằng ngày về Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Bộ Quốc phòng. 

Bắc Ninh là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, hiện nay đang có 1.600 doanh nghiệp đang hoạt động với 332.000 công nhân. Tính đến thời điểm hiện tại số ca mắc Covid-19 tại Bắc Ninh là 255 ca tại 7 huyện, thị xã, thành phố (trong đó có 34 ca mắc mới). Vì vậy sự hỗ trợ của những bệnh viện khác về nhân lực và cơ sở y tế là vô cùng quan trọng. 

Hiện nay, Bệnh viện TWQĐ 108 vẫn luôn làm tốt nhiệm vụ phòng, chống và kiểm soát dịch cũng như sẵn sàng chi viện hỗ trợ các đơn vị, địa phương trong quá trình chung tay đẩy lùi dịch Covid-19.

Quốc hội Việt Nam kêu gọi Nghị viện các nước thúc giục Chính phủ chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng bền vững

 Trong khuôn khổ chương trình làm việc tại Đại hội đồng Liên nghị viện thế giới lần thứ 142 (IPU-142), đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã dự phiên họp của Ủy ban thường trực về Hòa bình và An ninh quốc tế và Diễn đàn Nghị sĩ trẻ.

Đoàn Việt Nam tham dự phiên họp của Ủy ban thường trực về Hòa bình và An ninh quốc tế có đồng chí Vũ Hải Hà, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội; đại diện Thường trực Ủy ban Đối ngoại; đại diện Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. Phiên họp có chủ đề “Chiến lược nghị viện để tăng cường hòa bình và an ninh chống lại các mối đe dọa và xung đột do các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu và các hệ lụy của chúng”. Phiên họp này thu hút 35 đoàn đại biểu từ nghị viện các nước thành viên IPU tham gia với sự chủ tọa của ông J. Echániz, Chủ tịch Ủy ban Hòa bình và An ninh quốc tế của IPU.

Phát biểu tại phiên họp, đoàn Việt Nam chia sẻ về những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu với đời sống người dân, tiềm ẩn những mối đe dọa với hòa bình, an ninh và ổn định ở mỗi quốc gia. Việt Nam đánh giá cao nỗ lực của cộng đồng quốc tế, trong đó có IPU, trong việc nâng cao nhận thức, hành động của nghị viện, chính phủ và người dân về các vấn đề hòa bình, an ninh do biến đổi khí hậu gây ra. 

Đoàn Việt Nam cho rằng, Nghị viện các nước cần tiếp tục duy trì ý chí, cam kết chính trị mạnh mẽ, có hành động cục thể với tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, đóng góp thiết thực vào chương trình nghị sự toàn cầu về chống biến đổi khí hậu vì hòa bình, an ninh trên thế giới. 

Nghị viện các nước thành viên cần nỗ lực nhiều hơn để thiết lập chính sách, pháp luật cụ thể, đồng bộ và thực chất hơn với các vấn đề biến đổi khí hậu của quốc gia và của toàn cầu. 

Đoàn Việt Nam đề nghị IPU thiết lập các sáng kiến, chương trình toàn cầu về phát triển kinh tế ít phát thải nhằm tạo nền tảng để đối thoại chính sách, chia sẻ kinh nghiệm và tăng cường năng lực cho các quốc gia, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư tư nhân cho các lĩnh vực ít phát thải khí nhà kính.

Quốc hội Việt Nam kêu gọi Nghị viện các quốc gia thúc giục Chính phủ nước mình chưa hoàn thành trách nhiệm giảm phát thải khí nhà kính và đóng góp tài chính trong giai đoạn trước năm 2020 tiếp tục thực hiện trách nhiệm này bên cạnh nghĩa vụ mới. Đồng thời tích cực phục hồi các hoạt động phát triển kinh tế, cứu trợ để giúp đối tượng bị tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau và tăng cường chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng phát thải các-bon thấp nhằm bảo đảm phục hồi bền vững, tạo việc làm mới cho người lao động thông qua thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển năng lượng tái tạo, nông nghiệp thông minh, đô thị thông minh, giao thông thông minh và thiết lập nền kinh tế tuần hoàn.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Bài 1)

 QĐND -Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.

Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? 

Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác-Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam? 

Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không? 

Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học-công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008-2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý. 

Cùng với khủng hoảng kinh tế-tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. 

Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản. 

Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. 

Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do". 

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. 

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa". Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử". 

Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. 

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: Đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản... 

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. 

Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. 

Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển. 

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ). (Còn nữa)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Bài 2)

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. 

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. 

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị. 

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. 

Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. 

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. 

Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. 

Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26). 

Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. 

Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. 

Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 

Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. 

Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337-338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. 

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển. 

Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia-dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. 

Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin-học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. (Hết) 

GS, TS NGUYỄN PHÚ TRỌNG, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...