Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

NHẬN DIỆN ÂM MƯU CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CỦA CÁI GỌI LÀ “CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG” VÀ MỘT SỐ TRANG MẠNG XÃ HỘI PHẢN ĐỘNG Ở HẢI NGOẠI

 


                                                            Cường Quốc

Những ngày qua, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, giết người, chống người thi hành công vụ xảy ra tại xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), trên mạng hải ngoại lan truyền bài viết của cái gọi là “câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng” (hội nhóm tự phát với sự tham gia của một số cá nhân bất mãn, chống phá Đảng, Nhà nước). Bài viết tiêu đề “Chính quyền từ sai lầm đến tội ác”, đưa ra 10 điểm, vu cáo chính quyền sai lầm về chính sách ruộng đất và quản lý đất đai; sai lầm về việc cố tình chiếm 59ha đất đồng Sênh của dân Đồng Tâm; sai lầm về công tác dân vận và thực thi pháp luật; sai lầm bịa đặt các kịch bản; quy kết thành “tội ác ép cung nhận tội trên tivi”; “tội ác ngăn cản sự cứu giúp nạn nhân và trợ giúp pháp lý”.

Bài viết dùng những câu từ xảo trá, bịp bợm như: “Nay nếu các nhà lãnh đạo cũng dũng cảm nhìn thẳng vào bản chất của vụ án Đồng Tâm để ứng xử như vậy thì cứu vãn được phần nào lòng tin của dân để cùng đoàn kết vì những mục tiêu lớn lao, cấp bách của đất nước. Còn nếu như Đảng cứ tiếp tục dùng cường quyền để thắng dân bằng mọi giá thì sẽ gây thêm tội ác, càng thêm nỗi đau đớn, hận thù trong lòng dân với Đảng mà thôi”.

Cùng với đó, một số trang mạng này còn lan truyền “Tuyên bố lên án tội ác Đồng Tâm” vốn được tung lên từ hồi tháng 2/2020, nay xới lại. Bản “tuyên bố” không nói của tổ chức nào nhưng liệt kê danh sách “ký tên” đến thời điểm này gồm 16 tổ chức (thực chất là các hội nhóm tự phát) và 440 cá nhân, cả trong và ngoài nước. Nếu nhìn vào danh sách, dễ dàng nhận thấy những hội nhóm “nhẵn mặt” về trò đội lốt dân chủ, nhân quyền để chống phá đất nước lâu nay. Thực chất, những người được nói là “ký tên” vào bản tuyên bố kia đều là giả dối. Xem thế đủ hiểu thủ thuật của những “ngọn cờ chính trị” này xảo trá đến độ nào. Xem mặt bắt hình dong, thật nực cười khi những đối tượng rắp tâm làm tổn hại đất nước, gây hậu hoạ cho dân lại giở giọng “dạy đời”, đưa ra những phán xét, những yêu cầu vốn là phẩm giá, lương tri con người.

Sau khi xảy ra vụ giết người, chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng tại Đồng Tâm, trên mạng internet thông tin nhiễu loạn, trong đó rất nhiều thông tin giả mạo được tung ra nhằm gây tâm lý hoang mang, bất ổn trong xã hội. Kẻ xấu lợi dụng, nhắm vào chỉ trích, miệt thị chính quyền, đả phá chế độ. Xuất hiện tràn lan những bài viết, bình luận rất lệch lạc, không phân biệt đúng sai, phải trái hoặc cố tình đánh lận, tạo ra luồng thông tin hỗn độn đẩy trạng thái người xem vào rối ren, hoang mang rồi bức xúc, phẫn nộ, mặc sức chửi bới, miệt thị…

Trong khi đó, các trang mạng thù địch ở hải ngoại đưa ra nhiều bài viết cổ suý hành động tội ác của Lê Đình Kình và nhóm đồng phạm, thậm chí còn tung hình ảnh với lời lẽ coi đối tượng phạm tội như... anh hùng! Từ đó phê phán, miệt thị chính quyền, phỉ báng chế độ, xuyên tạc Nhà nước “cướp đất của dân”, tấn công, trấn áp dân Đồng Tâm!

Tất cả những lời nói, bài viết, hành động trên chúng là hoàn toàn xuyên tạc và bịa đặt, gây nhiễu dư luận, tạo cớ để các tổ chức hải ngoại nhân danh dân chủ, nhân quyền kiếm cớ can thiệp. Mọi người dân Việt Nam yêu nước cần phải nhận diện, đấu tranh để kiên quyết bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Và sớm muộn gì, những thông tin bịa đặt đó cũng bị vùi dập, những kẻ chuyên trị đi kích động cũng sẽ sớm phải gánh chị hậu quả và sự trừng trị nghiêm minh của pháp luật.

 

 

 

 

 

 

NÊU CAO CẢNH GIÁC ĐẤU TRANH BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CÔNG TÁC CÁN BỘ


 

Trọng Cao

 

Liên quan đến việc xử lý cán bộ thời gian qua, đặc biệt là cán bộ cấp cao, có thể thấy Đảng, Nhà nước đã thể hiện sự kiên quyết, không có “vùng cấm”. Gần đây nhất, chiều 28/8, ông Nguyễn Đức Chung, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã bị cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam 4 tháng về hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước. Đây là việc làm đúng quy định pháp luật, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta. Tuy nhiên, các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị trong và ngoài nước lại lợi dụng sự việc này để xuyên tạc, hướng lái thông tin nhằm mục đích gây phương hại đến lợi ích của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Cụ thể, trên các trang mạng xã hội đang lan truyền bài viết với tiêu đề “Sự phá sản của các bí thư thành uỷ”. Trong bài viết này, các đối tượng điểm danh lại việc xử lý kỷ luật và xử lý hình sự đối với ông Đinh La Thăng (nguyên Bí thư Thành uỷ Hồ Chí Minh), xử lý kỷ luật ông Nguyễn Xuân Anh (nguyên Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng) và ông Hoàng Trung Hải (nguyên Bí thư Thành uỷ Hà Nội), từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá mang tính chất xuyên tạc, sai lệch bản chất vụ việc, gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của Đảng, Nhà nước.

Về việc các đồng chí nguyên là Bí thư Thành uỷ Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội bị xử lý kỷ luật, trong đó ông Đinh La Thăng đã bị kết án hình sự do các sai phạm nghiêm trọng mà mình gây ra, có thể nói đây là tổn thất trong công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những cán bộ cấp cao để xảy ra sai phạm đã gây ra những thiệt hại lớn về vật chất cho Nhà nước, cho nhân dân; ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của Đảng, Nhà nước; tác động đến niềm tin của quần chúng. Với tinh thần đấu tranh làm trong sạch nội bộ, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian qua đã có những thành quả đáng ghi nhận. “Củi tươi, củi khô” đã được xử lý, không còn vùng cấm trong công tác chống tham nhũng.

Tuy nhiên, với âm mưu chống phá quyết liệt, các đối tượng thù địch, cơ hội chính trị liên tục lợi dụng thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của chúng ta để xuyên tạc, hướng lái thông tin. Đối với việc nguyên Bí thư Thành uỷ tại ba thành phố lớn của Việt Nam gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng bị xử lý, các đối tượng đưa ra luận điệu rằng: “đây là sự thất bại nặng nề của công tác nhân sự mà Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đồng thời, đưa ra một loạt thông tin mang tính chất đả phá Đảng, Nhà nước như: công tác nhân sự của Đảng đầy lỗ hổng; Đảng lựa chọn cán bộ không theo một quy chuẩn nào; các cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam chỉ được cất nhắc vì có “lòng trung thành” với Đảng chứ không hề có năng lực lãnh đạo…

Trên cơ sở xuyên tạc thông tin, các đối tượng này tiếp tục quy chụp nguyên nhân việc cán bộ sai phạm là do Đảng Cộng sản thiếu năng lực, không đảm bảo dân chủ khi làm công tác cán bộ. Các đối tượng rêu rao rằng công tác cán bộ không xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc mà chỉ phục vụ các “phe cánh chính trị”; việc quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ không dựa trên năng lực của từng người mà căn cứ trên sự thoả thuận của các “nhóm lợi ích” trong Đảng. Cuối cùng, các đối tượng cũng không quên “cài cắm” thông tin đòi thay đổi chế độ chính trị, yêu cầu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về mặt quy định, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng các bộ tiêu chuẩn đối với từng chức danh lãnh đạo, đưa ra một quy trình chặt chẽ để có thể đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc và bổ nhiệm cán bộ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng việc vận hành các quy trình liên quan đến công tác cán bộ ở một số nơi còn tồn tại sai phạm, có nơi sai phạm nghiêm trọng. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước đã phải đẩy mạnh công tác thanh – kiểm tra và xử lý sai phạm, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch nội bộ. Chúng ta cũng không thể phủ nhận việc một số cán bộ khi có chức quyền trong tay đã nảy sinh những thói hư, tật xấu, bị lợi ích tiền tài, vật chất làm mờ mắt, dẫn đến việc để xảy ra các sai phạm trong khi thi hành công vụ. Nguyên nhân của các sai phạm trên xuất phát từ cá nhân của cán bộ.

Việc quy chụp, đổ lỗi cho Đảng, Nhà nước là thiếu khách quan, vô căn cứ. Để đánh giá bản chất sự việc, cần có cái nhìn công bằng và chuẩn xác; không thể dựa trên những vụ việc đơn lẻ để đánh đồng với bản chất của một chế độ.

Thẳng thắn đánh giá, đội ngũ cán bộ của chúng ta hiện nay có một bộ phận hoạt động theo kiểu cầm chừng, tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Điều này đã trở thành cái cớ để không ít đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị tiến hành xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Những hạn chế, thiếu sót trong công tác cán bộ đã được Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận. Cụ thể, tại Nghị quyết số 26-NQ/TW năm 2018 của Ban chấp hành Trung ương khoá XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã chỉ rõ những mặt hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ và đưa ra giải pháp cụ thể trong thời gian tới. Ngoài ra, Đảng ta đã đưa ra nhiều Nghị quyết, chỉ thị liên quan để tăng cường quản lý công tác tác bộ.

Để củng cố uy tín, sức mạnh của Đảng, Nhà nước, một mặt chúng ta phải xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, đạo đức và uy tín để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước. Mặt khác, chúng ta cũng cần chủ động nắm tình hình, kịp thời phát hiện những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc liên quan đến công tác cán bộ để kịp thời đấu tranh, phê phán.

 

“BẤT BẠO ĐỘNG” - MỘT PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 


                                                                                                                                                Trọng Cao

“Bất bạo động” là một phương thức hoạt động chống phá nguy hiểm nhưng lại thường được ngụy trang dưới danh nghĩa phản kháng “ôn hòa”, “dân sự”. Vì vậy, việc nhận diện đúng bản chất của phương thức “bất bạo động” không chỉ góp phần thống nhất nhận thức mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, từ đó chủ động trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn.

 “Bất bạo động” được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu của thế kỷ XX. Trên thế giới, Mahatma Gandhi được xem là người đầu tiên áp dụng phương thức đấu tranh này để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi sự đô hộ của Anh. Đấu tranh “bất bạo động” cũng được biết đến từ cuộc nổi dậy của sắc dân da đen ở Mỹ đòi quyền bình đẳng, chống lại nạn kỳ thị, phân biệt chủng tộc, được lãnh đạo bởi mục sư Martin Luther King.

Ở nước ta, thuật ngữ “bất bạo động” được xuất hiện vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ XX. Những tư tưởng ban đầu của phương pháp đấu tranh “bất bạo động” đã được nhà yêu nước Phan Châu Trinh tiến hành để đấu tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược với phong trào Duy Tân. Phương thức hoạt động của phong trào là “bất bạo động”, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lĩnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghiệp, bỏ mê tín dị đoan… Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”.

Tư tưởng ban đầu là như vậy, tuy nhiên gần đây, đặc biệt là sau khi hàng loạt các cuộc “cách mạng sắc màu” nổ ra tại một số nước, với kịch bản được các thế lực thù địch áp dụng nhằm hậu thuẫn cho các lực lượng đối lập lật đổ chính quyền đương nhiệm tại các quốc gia này thì phương thức “bất bạo động” đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để sử dụng để chống phá Việt Nam với mục đích cuối cùng là lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Có thể hiểu, “bất bạo động” là thuật ngữ dùng để chỉ một phương thức hoạt động chống đối của các thế lực thù địch, phản động không sử dụng sung, đạn mà sử dụng các thủ đoạn “bất hợp tác”, “bất phục tùng”, “bất tuân dân sự” kết hợp với sử dụng áp lực của quần chúng để gây áp lực với Đảng, Chính phủ, từ đó làm suy yếu, tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và chính phủ, nhà nước đương nhiệm ở các quốc gia.

Có thể nhận diện phương thức “bất bạo động” chống phá cách mạng Việt Nam với những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, “bất bạo động” là phương thức hoạt động không sử dụng súng, đạn mà sử dụng áp lực của quần chúng, từng bước làm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và chính phủ, nhà nước đương nhiệm. Khác với phương thức bạo lực, vũ trang, “bất bạo động” là phương thức hoạt động chống đối không sử dụng vũ trang mà chủ yếu tập trung vào việc sử dụng sức mạnh của quần chúng để chống đối chính quyền, trên cơ sở hô hào, kích động quần chúng tẩy chay, bất hợp tác với chính quyền; kích động công nhân đình công, bãi công; lôi kéo, lừa bịp, kích động các giai tầng xã hội xuống đường tuần hành, biểu tình, gây áp lực với Đảng, Nhà nước, đòi thực hiện các yêu sách như: đòi Đảng cầm quyền từ bỏ vai trò lãnh đạo; đòi cải cách chính trị; phi chính trị hóa lực lượng vũ trang… từ đó làm suy yếu, tiến tới vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, chính quyền đương nhiệm, lập nên chính quyền mới thân với các thế lực thù địch nước ngoài.

Thứ hai, tẩy chay, bất hợp tác với chính quyền, đưa chính quyền vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” là những nội dung cơ bản của phương thức “bất bạo động”. Thực tiễn các cuộc “cách mạng màu” diễn ra tại một số nước trên thế giới thời gian qua cho thấy, những nội dung chính được các lực lượng đối lập, chống đối sử dụng trong đấu tranh “bất bạo động” như sau: Một là, bất tuân dân sự. Tức là người tham gia phương thức này có thể từ chối thực hiện những việc mà họ vẫn thường làm, hoặc bắt buộc phải làm theo yêu cầu của luật pháp (tẩy chay bầu cử, biểu tình, đình công, bãi thị, bãi khóa…). Hai là, hành động một cách có chủ đích. Tức là người tham gia có thể thực hiện những việc mà họ thường không làm hoặc không được trông đợi sẽ làm, hoặc bị cấm thực hiện (tập hợp lực lượng, rải truyền đơn, kích động quần chúng xuống đường, chiếm trụ sở, bắt giữ cán bộ; tạo sự kiện, lấy cớ cho các tổ chức quốc tế, các nước phương Tây can thiệp...). Ba là, thuyết phục và thương lượng. Đưa ra các điều kiện phù hợp với tình hình, từ thấp đến cao, đẩy chính quyền vào thế buộc phải dùng vũ lực, gây đổ máu, tạo cớ bên ngoài can thiệp buộc chính quyền phải nhượng bộ.

Nói cách khác, tẩy chay, bất hợp tác với chính quyền được thực hiện trong phương thức “bất bạo động” chủ yếu là tẩy chay, bất hợp tác về kinh tế (không tuân theo các quy định, luật lệ, pháp luật của nhà nước về kinh tế, công nhân đình công, doanh nghiệp dừng sản xuất, bãi thị đồng loạt, rút tiền khỏi ngân hàng, từ chối trả các lệ phí, từ chối nhận tiền của nhà nước…); bất hợp tác về chính trị (công khai từ chối ủng hộ nhà nước; viết và phát biểu kêu gọi chống đối; tẩy chay bầu cử; ngồi ăn vạ; bất hợp tác về tư pháp, phản ứng; cản trở các hệ thống thông tin và tin tức…); bất hợp tác xã hội (tẩy chay giao tiếp; sinh viên biểu tình, bất phục tùng dân sự, rút lui khỏi các định chế xã hội; ở nhà, tạo khu an toàn, tiêu thổ tập thể...)…

Thứ ba, đình công, biểu tình, tuần hành chống đối chính quyền là hình thức chủ yếu, đặc trưng chính của “bất bạo động”. Mục tiêu chính của các thế lực thù địch, phản động trong thực hiện phương thức “bất bạo động” là bằng những “chiến thuật” hòa bình trong đấu tranh chính trị để lật đổ chính quyền. Do đó, đình công, biểu tình, tuần hành là hình thức được chúng xác định mang lại hiệu quả cao nhất, ít thiệt hại nhất. Đồng thời, sử dụng các hình thức này, trong trường hợp chính quyền sử dụng vũ lực để đàn áp thì đó sẽ là điều kiện thuận lợi, là “cái cớ” để các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng can thiệp, gây sức ép, thậm chí sử dụng sức mạnh quân sự để tấn công.

Thứ tư, “bất bạo động” đến một mức độ nhất định có thể chuyển thành “bạo động” khi có điều kiện, thời cơ. Về hình thức, “bất bạo động” được thể hiện thông qua các biện pháp “ôn hòa”, “dân sự”. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, không phải bất cứ lúc nào, trong trường hợp nào “bất bạo động” cũng đều là ôn hòa, phi bạo lực. Khi “bất bạo động” đến một mức độ nhất định có thể chuyển thành “bạo động”. Nói cách khác, ranh giới giữa “bất bạo động” và “bạo động” là khá mong manh, có thể chuyển hóa cho nhau rất nhanh chóng.

Ở Việt Nam, thời gian gần đây được sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch nước ngoài, các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối cực đoan trong nước đang ra sức hô hào, tuyên truyền rộng rãi về phương thức “bất bạo động” trên các trang mạng xã hội; mở các lớp huấn luyện, đào tạo về “bất bạo động” cho số đối tượng chống đối, phản động; triệt để lợi dụng các vụ việc, sự kiện chính trị, xã hội phức tạp, nhạy cảm để lôi kéo, kích động, thu hút quần chúng tham gia vào các hoạt động trái pháp luật…Các cuộc biểu tình phản đối Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ô nhiễm môi trường xảy ra tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình năm 2016, 2017; các cuộc biểu tình phản đối Luật An ninh mạng và dự thảo Luật Đặc khu tại Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh… năm 2018… là những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự mang bóng dáng của “bất bạo động”.

Có thể thấy rằng, “bất bạo động” là một phương thức hoạt động với những thủ đoạn “mềm dẻo” không bộc lộ trực tiếp và lộ liễu tính thách thức về chính trị và sự đối kháng với chính quyền. Điều này không chỉ giúp các đối tượng tránh được sự trấn áp của chính quyền mà còn gây ra nhiều khó khăn đối với công tác phát hiện, đấu tranh của lực lượng chức năng. Nguy hiểm hơn nữa là nó có khả năng gây ra mơ hồ, ngộ nhận trong một bộ phận quần chúng và sự “ủng hộ” trong dư luận quốc tế và trong nước, dễ lừa bịp, lôi kéo sự tham gia của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là đối với thanh niên, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ, thậm chí kể cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần phải nhận diện đúng bản chất của “bất bạo động” để có giải pháp đấu tranh là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng của mỗi tổ chức, cá nhân ở nước ta hiện nay.

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

VỀ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ-NIN HIỆN NAY


                                                            Đại Nguyễn

Để chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau. Sau đây xin nêu lên một số quan điểm đó:

Một là, có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị lỗi thời (!).

Đúng là thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác - Ăng-ghen - Lê-nin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...

Đứng trên quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, bản chất khoa học và cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò đó.

Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm hỏi tình hình sản xuất và đời sống của công nhân Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh) _Nguồn: baochinhphu.vn

Hai là, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(?).

Quan điểm trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là lý luận khoa học nên cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ quát, vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều, máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, không thể cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông. Nhưng khi nói vậy, Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó”(2)  - tức ở phương Đông. Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát triển mà còn đúng cả với các nước kém phát triển. Vì, về mặt phương pháp luận như C.  Mác đã từng chỉ ra, trong cái phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.

Mặt khác, nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác  - Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam - một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần khẳng định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,... đó là những vấn đề không có sẵn trong di sản kinh điển mác-xít. Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi mới.

Ba là, có quan điểm sai lầm đem đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập C. Mác với V.I. Lê-nin để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa Lê-nin, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung. Họ viện dẫn ra sự “đối lập” là C. Mác và Ph.  Ăng-ghen cho rằng, cách mạng vô sản phải nổ ra đồng thời trong các nước tư bản, ít ra là trong các nước tư bản phát triển, còn V.I. Lê-nin lại cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thành công ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, còn lạc hậu, còn nhiều tàn tích của chế độ nông nô như nước Nga.

Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm và phương pháp của V.I. Lê-nin. Sự đối lập giữa C. Mác với V.I.  Lê-nin mà họ dựng lên là giả tạo, bịa đặt. V.I. Lê-nin là người mác-xít, ông đã tự nhận mình là học trò của Mác: Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin thống nhất với nhau về bản chất. Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. C.  Mác và V.I. Lê-nin sống ở hai thời đại khác nhau, C. Mác sống ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh, còn đến V.I. Lê-nin chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi đó cách mạng vô sản, phong trào giải phóng dân tộc nổi lên, mỗi ông phải giải quyết những nhiệm vụ do thời đại của mình đặt ra. V.I. Lê-nin không thể máy móc, giáo điều ngồi chờ cho cách mạng vô sản nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển được, mà phải chủ động nhận thức thời cơ, tình thế cách mạng và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. V.I. Lê-nin trung thành với chủ nghĩa Mác trong bản chất cách mạng, khoa học, biện chứng, chứ không phải trung thành một cách máy móc bởi vì học thuyết của các ông không phải giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động.

Bốn là, có quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác - Lê-nin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quan điểm trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất, là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, về mặt lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người nhận định. Một số người nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ nói tư tưởng Hồ Chí Minh mới là sản phẩm của Việt Nam, có nguồn gốc Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai”, “ngoại nhập”, không phù hợp với Việt Nam, thậm chí có người muốn đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh (!). Quan điểm đó nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất, trực tiếp và gián tiếp chính là nhằm phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đảng ta xác định nền tảng tư tưởng của Đảng gồm chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rất đúng đắn, phù hợp, thể hiện mối quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.

Năm là, có quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học thuyết”.

Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội  - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp. Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin của một số người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô./.

------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, t. 2, tr. 289
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509

ĐẤU TRANH PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ-NIN LÀ NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG VÀ CẤP BÁCH HIỆN NAY

 


                      Đại Nguyễn

Chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập vào khoảng giữa những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới đã được V.I. Lê-nin bổ sung, phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, mang bản chất khoa học và cách mạng, trở thành vũ khí tư tưởng - lý luận của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, phát triển toàn diện con người.

Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã tồn tại trên 170 năm và trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ; mặc dù chủ nghĩa đế quốc cùng những thế lực phản động, thù địch dùng nhiều thủ đoạn thâm độc chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin nhưng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn tồn tại, phát triển mà chưa có một học thuyết nào có thể thay thế được, nó có giá trị trường tồn, sức sống bền vững. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu người trên trái đất. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận định: “Bây giờ, chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(1).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động. Sự khẳng định đó nói lên ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Chủ nghĩa Mác  - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận thức thời đại, nhận thức tình hình thế giới và trong nước, là cơ sở khoa học để Đảng ta đề ra đường lối, chính sách đổi mới, phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường như hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng là cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, cho sự thống nhất và củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân, tạo đoàn kết, đồng thuận trong xã hội.

Trong quá trình xây dựng, phát triển học thuyết khoa học của mình, C.  Mác, Ph.  Ăng-ghen và sau này là V.I. Lê-nin đã phải thường xuyên đấu tranh chống các quan điểm sai trái, như chủ nghĩa duy tâm, siêu hình, giáo điều, xét lại. C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen từng phê phán quan điểm của phái Hê-ghen trẻ, của Pru-đông, của Đuy-rinh, của Lát-xan và nhiều quan điểm tư sản khác. Thông qua đấu tranh phê phán quan điểm phản diện, các ông đã trình bày quan điểm chính diện của mình, đã phát triển, hoàn thiện học thuyết của mình. C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen đã từng khẳng định rằng, học thuyết của các ông có tính phê phán và cách mạng, nó không đội trời chung với quan điểm giáo điều, bảo thủ, với quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội và xét lại. Có thể khẳng định rằng, đấu tranh tư tưởng, lý luận để chống quan điểm sai trái nhằm bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác mang tính quy luật trong sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa Mác.

Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh, kịch liệt phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của E. Ma-khơ, A-vê-na-ri-út,...; đấu tranh với những quan điểm cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo Quốc tế II, như Béc-xtanh, Cau-xky,...; đấu tranh với những quan điểm sai lầm của Plê-kha-nốp, Tờ-rốt-xki,  Bu-kha-rin,  Di-nô-vi-ép,... Thông qua đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, V.I. Lê-nin đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới - giai đoạn Lê-nin trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học phù hợp với điều kiện lịch sử mới và phù hợp với những thành tựu mới nhất trong khoa học tự nhiên ở thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. V.I. Lê-nin đã từng gọi chủ nghĩa duy vật mác-xít là “chủ nghĩa duy vật chiến đấu”, nghĩa là nó không ngừng đấu tranh chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội, xét lại, các quan điểm muốn bảo vệ trật tự tư sản. Vận dụng chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nước Nga, V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Nga tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, mở ra một thời đại mới trong sự phát triển của xã hội loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là sự khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối của Lê-nin, là sự bác bỏ mạnh mẽ nhất, quyết định nhất, có tính thuyết phục nhất đối với các quan điểm sai trái, thù địch lúc bấy giờ.

Từ khi ra đời cho đến nay, trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng đi sâu nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nắm vững và vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng, từ đó đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Nhận thức rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch nhằm ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “chiến thắng không cần chiến tranh” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Văn kiện các kỳ đại hội Đảng toàn quốc thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh này. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng yêu cầu tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”...), Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết trong xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết nêu ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao.

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

NHẬN DIỆN CÁC LOẠI QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

 


Tóm tắt: Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch thì việc nhận diện các loại quan điểm sai trái, thù địch đặc biệt quan trọng. Bài viết chỉ rõ 6 loại quan điểm sai trái, thù địch hiện nay: 1) Loại tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta với biểu hiện rất đa dạng; 2) Loại chống phá sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; 3) Loại xuyên tạc lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng; 4) Loại bôi nhọ cá nhân các lãnh tụ, lãnh đạo của Đảng; 5) Loại lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng; 6) Loại ca ngợi chủ nghĩa tư bản với những giá trị khác nhau của nó

Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo càng đi vào chiều sâu càng đạt được những thành tựu rất đỗi tự hào thì càng nảy sinh những vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Đó cũng là lẽ thường tình, bởi thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, luôn làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi con người phải giải quyết. Chính thực tiễn đổi mới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề mới trên tất cả các lĩnh vực đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải kịp thời giải quyết. Hơn nữa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tác động của biến đổi khí hậu; thực tiễn chính trị thế giới thay đổi nhanh, khó lường; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, v.v. đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Trong tình hình ấy, lực lượng thù địch lợi dụng những khó khăn, yếu kém của ta tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước ta. Trong bối cảnh mới, các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay rất đa dạng, phong phú, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, vừa trực diện, vừa ẩn mình chống phá Đảng, Nhà nước ta, nhưng có thể đưa về 6 loại chủ yếu nổi lên như sau:

1. Những quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta với biểu hiện rất đa dạng

Quan điểm cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn nhưng chỉ đúng đắn trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước), nền sản xuất dựa trên máy móc cơ khí. Còn hiện nay, nhân loại đã chuyển mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, dữ liệu lớn (Big data). Hay nói như một số nhà lý luận phương Tây là thời đại “hậu công nghiệp”, kinh tế - xã hội có rất nhiều đổi thay, vì vậy hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp nữa. Trong thời đại ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại đã sử dụng nhiều robot - người máy, tự động hóa, người công nhân được tuyển dụng và sử dụng rất ít, cho nên học thuyết giá trị thặng dư của Mác, học thuyết về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân... không còn phù hợp nữa. Trong điều kiện hiện đại thì nhà tư bản không còn bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân lao động nữa. Giai cấp công nhân không còn vai trò trong nền sản xuất hiện đại mà chính tầng lớp trí thức mới là người quyết định vận mệnh tương lai của nhân loại. Những quan điểm cho rằng thế giới đã có sự thay đổi “quyền lực”. Chẳng hạn, Alvin Toffler cho rằng “quyền lực” trong quá trình vận động và phát triển của chính bản thân nó đã trải qua các hình thức phát triển: Đi từ “bạo lực quyền, đến của cải quyền, rồi đến tri thức quyền” hay có người gọi là “trí quyền”. Nghĩa là thuở hoang sơ, phải dùng sức mạnh bạo lực mới có quyền lực như thông qua xâm lược, ăn cướp,...; sau đó kẻ nào có tiền là có quyền lực và đến hiện nay, ai có trí tuệ, có tri thức là có quyền lực (trí quyền). Nếu thoáng qua chúng ta thấy có vẻ hợp lý, bởi lẽ trong một xã hội chưa hoàn thiện, còn dựa trên sở hữu tư nhân thì kẻ nào có tiền thì kẻ đó có quyền lực. Nhưng thực chất ở đây, Alvin Toffler muốn khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay đổi, không còn xâm lược hay bạo lực nữa, có tiền cũng không có quyền lực nữa, giai cấp công nhân không còn vai trò sứ mệnh lịch sử giải phóng lao động nữa mà tầng lớp trí thức mới đóng vai trò này trong xã hội hiện đại. Nếu tách quyền lực ra khỏi sản xuất vật chất, ra khỏi kinh tế thì quyền lực không còn cơ sở để tồn tại nữa. Xét về bản chất, quyền lực vẫn do kinh tế quyết định. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen khi phê phán Đuyrinh vì không hiểu bạo lực đã viết “vậy một lần nữa, bạo lực lại do tình hình kinh tế quyết định, tình hình kinh tế cung cấp cho bạo lực những phương tiện để tạo ra và duy trì những công cụ bạo lực”1. Đồng thời, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, những điều kiện kinh tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái đã giúp cho “bạo lực” chiến thắng, nếu không có những điều kiện và tài nguyên đó thì bạo lực không còn là bạo lực nữa”2. Điều này hoàn toàn phù hợp, tương thích với quyền lực. Do vậy, nếu có tri thức nhưng không có điều kiện kinh tế, điều kiện vật chất để chuyển hóa những tri thức ấy thành của cải vật chất thì tri thức ấy cũng không có vai trò gì. Cho nên cách tiếp cận của Alvin Toffler chỉ là một cách xa rời khôn khéo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà thôi.

Quan điểm khác cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập, được V.I.Lênin phát triển là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, văn hóa của châu Âu là chủ yếu. Mà đó lại là châu Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Do vậy, đối với châu Âu hiện nay thì nó không còn phù hợp. Đối với châu Á thì càng không phù hợp. Bởi lẽ, châu Á có sự phát triển kinh tế khác, có trình độ văn hóa, cùng phong tục, tập quán khác châu Âu. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin không phù hợp với Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Triều Tiên,... Tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cơ sở, do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không thể và không nên vận dụng vào Việt Nam. Vì vậy, không nên lấy học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho dân tộc Việt Nam. Đúng là các châu lục khác nhau có những đặc thù khác nhau trong quá trình vận động, phát triển. Nhưng như thế không có nghĩa mỗi châu lục phải có nền toán học, vật lý, hóa học, hay khoa học nói chung riêng biệt. Tại sao các dân tộc khác nhau ở những châu lục khác nhau họ có thể hiểu được các tác phẩm văn học, nghệ thuật, những tác phẩm điện ảnh v.v. của nhau được? Họ hiểu được những điều này là bởi lẽ, mặc dù giữa các dân tộc có sự khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý nhưng họ đều dựa trên những tri thức khách quan, những quy luật khách quan được phản ánh trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh đó. Chính những tri thức khách quan, chính cái quy luật khách quan hay nói khác đi chính cái biện chứng khách quan đã quy định cái biện chứng chủ quan trong đầu óc họ. Các tri thức khách quan, các quy luật khách quan không phụ thuộc vào ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán, chỉ phụ thuộc vào nội dung khách quan mà nó phản ánh. Các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán... chỉ làm cho các tri thức khách quan, các quy luật khách quan được phát hiện, trình bày mang thêm sắc thái chủ quan khác nhau mà thôi chứ nội dung khách quan mà chúng phản ánh vẫn là một, là không đổi. Đúng như V.I.Lênin đã viết “Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”3. Chủ nghĩa Mác - Lênin mặc dù ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX, nhưng luôn được bổ sung, phát triển và dù được trình bày bằng ngôn ngữ nào thì nó vẫn phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của lịch sử loài người, trong đó có quy luật: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”4. Chính vì vậy, giai cấp tư sản không thích thú gì với học thuyết khoa học chỉ ra rằng chính họ - chính giai cấp tư sản - sẽ bị sụp đổ cả. Vì vậy, việc họ quyết liệt chống đối, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và những chủ thuyết dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin là điều không khó hiểu.

Có quan điểm đồng nhất sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội nói riêng. Từ đây, họ ca ngợi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ. Cho rằng chính chủ nghĩa xã hội dân chủ là mô hình phát triển phù hợp với thế giới đương đại, vừa tích hợp được những mặt mạnh của chủ nghĩa tư bản với mặt mạnh của chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, có một số ý kiến cho rằng những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, mặc dù có những bất cập nhất định nhưng tốc độ phát triển kinh tế nhanh, những vấn đề xã hội, môi trường thường được giải quyết tốt hơn các nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, các nước đi theo chủ nghĩa xã hội thường xảy ra tình trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán. Chính tình trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán đã cản trở xã hội phát triển lành mạnh. Họ thường đồng nhất những yếu kém, hạn chế của chủ nghĩa xã hội hiện thực, hay những sai lầm, hạn chế của một số đảng cộng sản để minh chứng cho sự không đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin.

Những loại ý kiến này đều sai lầm ở một điểm là đồng nhất một mô hình chủ nghĩa xã hội sai lầm với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội nói chung. Họ cố tình làm ngơ trước những thành tựu của chủ nghĩa xã hội cải cách, mở cửa, đổi mới ở Cộng hòa Cuba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên. Họ đồng nhất hiện trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán với chủ nghĩa xã hội. Chúng ta không phủ định những hạn chế biểu hiện ở tình hình tham nhũng, quan liêu, độc đoán ở một số nước xã hội chủ nghĩa, nhưng hiện trạng này cũng tồn tại ở các nước tư bản phát triển, ở các nước không đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dường như hiện trạng này tồn tại khá phổ biến trên thế giới, không loại trừ quốc gia nào. Nó là căn bệnh của bộ máy quan liêu mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang quyết tâm làm trong sạch.

2. Quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

Biểu hiện của loại này cũng đa dạng như cho rằng sự ra đời của Đảng là sai lầm; đòi đa nguyên chính trị; cho kinh tế thị trường không thể đi cùng định hướng xã hội chủ nghĩa; lôi kéo theo Mỹ “bài” Trung Quốc; cho rằng sự lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là ngược, là trái với quy luật tự nhiên; không nên đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v.. Những người có quan điểm này thường là những người có lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình liên quan đến chế độ cũ, bởi lẽ sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ làm cho bản thân họ, gia đình họ mất đi những lợi ích to lớn. Đứng trước lợi ích gia đình và lợi ích Tổ quốc họ đã sẵn sàng hy sinh lợi ích Tổ quốc, dân tộc. Những người có quan điểm này là những người đã từng phục vụ cho lợi ích của thực dân, đế quốc ngoại bang. Chính họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc từ lâu rồi. Bởi lẽ, một công dân bình thường của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng sẽ luôn muốn bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không muốn làm nô lệ cho ngoại bang, cho dân tộc khác. Nhưng những người này lại sẵn sàng làm tay sai, nô lệ cho ngoại bang. Vì vậy, chính họ đã xúc phạm đến sự hy sinh của hàng nghìn, hàng vạn các anh hùng liệt sỹ, thương binh - những người đã hy sinh tính mạng, một phần thân thể của mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm nhất định, bởi Đảng ta không phải là thánh, nhưng Đảng luôn nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa sai lầm và kiên quyết sửa chữa. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, vị thế thực sự của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế, sự nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân... đã nói lên tất cả.

3. Quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng

Loại quan điểm này thường xuyên xuyên tạc lịch sử cách mạng, ví như cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và Nhân dân ta là sai lầm, gây đổ máu; đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì đã không phải thực hiện hai cuộc chiến tranh; phủ nhận những thành quả cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đã giành được. Hiện nay, những kẻ chống lại lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng Việt Nam bất chấp mọi hành động đê tiện, hèn mạt như xuyên tạc, vu khống, lừa dối, chửi bới, tìm mọi cách và bằng mọi thủ đoạn nhằm đổi trắng thay đen, “thay đổi lịch sử dân tộc”, bôi nhọ, xuyên tạc, gây nghi ngờ không rõ về lịch sử của Đảng, của dân tộc, lịch sử cách mạng của chúng ta. Một số ý kiến chống đối khó nhận ra, họ bằng cách đánh tráo vấn đề, đánh tráo tên gọi để cố ý đồng nhất chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc với chiến tranh ăn cướp, xâm lược phi nghĩa của thực dân, đế quốc. Nhân danh nhân đạo, nhân ái để làm lu mờ ranh giới lịch sử thân nhân của những người đã từng tích cực tham gia phục vụ chế độ đế quốc, thực dân cũ. Chúng ta nhân đạo, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai nhưng chúng ta không quên quá khứ hy sinh, mất mát của hàng triệu người vì nền độc lập của dân tộc. Chúng ta phân biệt rõ ranh giới lịch sử thân nhân các cá nhân không phải để trả thù mà để rút ra bài học kinh nghiệm, để biết người, biết ta, để biết rõ bạn - thù.

4. Quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào cá nhân các đồng chí lãnh đạo, các lãnh tụ của Đảng

Loại quan điểm này đã xuyên tạc, bôi đen lý lịch, đời tư của một số đồng chí lão thành cách mạng; đổi trắng thay đen, tung hỏa mù gây nghi ngờ trong dư luận về phẩm chất đạo đức, năng lực và lý lịch gia đình; gây chia rẽ nội bộ trong Đảng. Đặc biệt, loại quan điểm này hay tung hỏa mù làm cho thế hệ trẻ ít hiểu biết và đông đảo quần chúng nhân dân không có thông tin, hiền lành, chất phác dễ tin và dễ bị lừa bởi thông tin mập mờ không rõ. Mục đích của loại quan điểm này là gây nghi ngờ trong Nhân dân về uy tín của cá nhân các đồng chí lãnh đạo. Từ hạ thấp uy tín cá nhân một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để hạ uy tín của Đảng. Loại quan điểm này thường lợi dụng công nghệ thông tin, các trang mạng xã hội tung tin giả, làm nhiễu thông tin. Do vậy, chúng ta phải rất thận trọng khi tham gia các trang mạng xã hội. Không vội hùa theo những thông tin trên mạng xã hội khi chưa được kiểm chứng, xác thực.

5. Lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng

Loại quan điểm này luôn luôn lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng ta; lợi dụng những khó khăn, hạn chế của chúng ta, hay lợi dụng tình trạng có một số đảng viên có chức quyền tham nhũng, quan liêu để qua đó nói xấu, xuyên tạc bản chất của Đảng, cho Đảng ta là quan liêu, tham nhũng, xa dân, không vì lợi ích của Nhân dân; gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng sự sụp đổ, khó khăn của chủ nghĩa xã hội để phủ định con đường lên chủ nghĩa xã hội. Những kẻ xấu thậm chí còn dùng thuật ngữ Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng “lời lẽ” của Đảng, Nhà nước ta để chống lại chính hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối, chính sách của chúng ta thông qua việc chống tiêu cực. Vì khi làm như vậy chúng mới “lừa” được những quần chúng nhân dân chất phác, ngây thơ, những người ít am hiểu lý luận và thực tiễn. Cũng có những ý kiến thuộc dạng này khi lợi dụng việc phát biểu của cá nhân đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý nào đó chưa chặt chẽ chúng cắt, ghép, trích dẫn không đầy đủ tung lên mạng xã hội với dụng ý hạ bệ uy tín cá nhân các đồng chí lãnh đạo. Qua đó muốn hạ uy tín của Đảng ta.

6. Ca ngợi chủ nghĩa tư bản với những giá trị khác nhau của nó

Loại quan điểm này lấy chủ nghĩa tư bản làm mục đích tối thượng, ca ngợi các nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; ca ngợi tự do kiểu phương Tây; ca ngợi dân chủ phương Tây; ca ngợi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ; ca ngợi những giá trị của phương Tây; ca ngợi văn hóa thực dụng phương Tây; tuyên truyền cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ngoại lai vào nước ta; phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực; thông tin sai lệch, không đúng về thực tế Cuba, Vênêxuêla, các nước xã hội chủ nghĩa khác, phủ định những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực, ca ngợi con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc phi xã hội chủ nghĩa... Qua đó, gián tiếp phủ định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ những nhận diện trên, có thể thấy, các quan điểm sai trái, thù địch rất tinh vi, đa dạng, phong phú. Các loại ý kiến này có liên hệ với nhau và cùng mục tiêu chung là chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Muốn đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch này một cách hiệu quả cần kiên trì, bình tĩnh và phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp. Với từng loại quan điểm sai trái, thù địch chúng ta phải có đối sách riêng, phù hợp. Trong cuộc đấu tranh này, dù thuộc loại quan điểm sai trái, thù địch nào trong 6 nhóm biểu hiện trên cũng cần quán triệt tốt một số nguyên tắc cơ bản:

Một là, đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước Việt Nam để đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch.

Hai là, phân biệt rõ quan điểm thù địch, quan điểm sai trái và xem xét xem chúng thuộc loại nào, trên cơ sở đó có các phương pháp đấu tranh, phê phán cụ thể, phù hợp, hiệu quả. Đối với các quan điểm thù địch, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống lại, bác bỏ toàn diện, triệt để trên nhiều phương diện lý luận, pháp lý, lịch sử, khoa học, thực tiễn. Phân biệt những quan điểm sai trái do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ với những quan điểm sai trái do cố ý, cố tình để có phương thức đấu tranh phù hợp.

Ba là, vận dụng uyển chuyển nguyên tắc khách quan trong đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch.

Bốn là, quán triệt nguyên tắc dân chủ trong đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch.

Các nguyên tắc cơ bản trên phải được quán triệt, thực hiện một cách triệt để, đồng bộ. Cùng với quán triệt tốt các nguyên tắc trên thì biện pháp quan trọng nhất là phải phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; ổn định chính trị, xã hội, an ninh, an toàn, trật tự. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu trong cuộc sống và trong công việc. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh. Có như vậy thì việc nhận diện và đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch mới hiệu quả, thiết thực.

--------------------------------------

Bài đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị số 10 (59) - 2019

1, 2C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 235, 242.

3V.I.Lênin, Toàn tập, t.29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 223-224.

4C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, t.4, tr. 613.

https://hcma.vn/daotao/Pages/boi-duong.aspx?ItemId=29955&CateID=0

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG NHỮNG THÔNG TIN SAI TRÁI TRÊN MẠNG INTERNET TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 


Khánh Anh

Lợi dụng mạng Internet, các thế lực thù địch đưa tràn lan lên mạng với vô số loại thông tin bịa đặt. “Lập các trang web, trang blog, kích động người dân, xuyên tạc nhằm chia rẽ nội bộ Việt Nam, giả là người trong nước để lên tiếng chỉ trích tất cả”. Trong lúc đó chúng ta thiếu chủ động, không kịp thời cung cấp thông tin đúng đắn, chính xác cho đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân, ,… dẫn tới băn khoăn, thắc mắc của cán bộ, đảng viên và người dân. Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, những phần tử xấu, cơ hội, phản động "mượn gió bẻ măng" lợi dụng sự phát triển của công nghệ, mạng Internet, lan truyền thông tin xuyên tạc, nói xấu cán bộ, đảng viên như: thêu dệt về bí mật đời tư, bịa đặt về tình hình sức khỏe, đạo đức, lối sống của cán bộ; bóp méo các thông tin, vu khống các bước của quy trình nhân sự là “đấu đá phe phái”, “lợi ích nhóm”… hòng gây hoang mang, gieo rắc hoài nghi trong nhân dân, chia rẽ nội bộ, phá hoại công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác nhân sự nói riêng. Điều này đã làm gia tăng những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

          Những vấn đề trên đây không phải cho đến nay các thế lực thù địch mới tiến hành mà chúng đeo đuổi hàng chục năm nay nhưng quyết liệt hơn trong thời điểm chúng ta đang tiến hành chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Mưu toan bao trùm của các tư tưởng thù địch, sai trái là nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi mục tiêu và đường lối phát triển đất nước và cuối cùng là “phủ định” định hướng XHCN ở nước ta. Do đó, cần tỉnh táo nhận diện đúng, cảnh giác và vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch, không để bị động, bất ngờ hay hoảng hốt trước sự tấn công trên mặt trận chính trị, tư tưởng; bình tĩnh xem xét, phân tích và nhận rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm mà các thế lực thù địch đang ra sức chống phá. Cần phân biệt các quan điểm sai trái với các thư, ý kiến phát biểu, kiến nghị của một số cử tri có ý thức tổ chức, tâm huyết với đất nước….Chủ động có giải pháp đúng đắn để ngăn chặn phòng, chống và vô hiệu hoá mọi thủ đoạn tung tin, truyền bá những quan điểm thù địch, sai trái trên mạng Internet nhằm tạo ra khả năng “miễn dịch” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ - đây là vấn đề cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng, của chế độ ta trong tình hình hiện nay.

Để phòng chống có hiệu quả thực trạng nêu trên, theo PGS, TS Đào Duy Quát kiến nghị nên có một “tư lệnh” trong cuộc chiến thông tin này. Tuy nhiên, báo chí tuyệt đối không được “chạy theo thông tin xuyên tạc, bịa đặt trên mạng” mà phải vào cuộc với sự tỉnh táo, trách nhiệm. Các cơ quan Nhà nước phải làm tốt công việc là vai trò người phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, chính xác, nhanh nhạy và liên tục. Đồng thời: Cần phải có một cơ chế cung cấp thông tin thật nhanh và chính xác cho báo chí trong nước. Các phương tiện truyền thông trong nước phải đưa thông tin thật nhanh nhạy, hấp dẫn, bổ ích để đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Khi công chúng được đáp ứng đủ nhu cầu thông tin thì họ không cần phải tìm kiếm ở bên ngoài.

Đối với đảng viên, cần gương mẫu chấp hành 19 điều đảng viên không được làm, trong đó chú trọng các điều liên quan đến phát ngôn. Đây cũng là vấn đề thời gian qua, còn một số cán bộ, đảng viên vi phạm. Trong đó, đáng chú ý có cả phát biểu của cán bộ cấp cao về kinh tế thị trường, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, gây phân tâm trong cán bộ, đảng viên, bị nhiều đài, báo nước ngoài lợi dụng, xuyên tạc. Không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ; thậm chí có người còn phụ họa theo những quan điểm sai trái. Sinh thời, V.I.Lênin từng căn dặn: Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa.

Do đó, để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội XIII, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức trách nhiệm về cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Trong đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cần bám sát các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương trong việc chuẩn bị đại hội Đảng các cấp, đặc biệt là Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị “về Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Quy định 205-QĐ/TW ngày 23/09/2019 về “kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”. Đồng thời, luôn tích cực, chủ động và coi trọng nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm trạng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước những âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của các đối tượng chống phá. Đặc biệt, các tổ chức Đảng cần kịp thời xử lý các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ; tập trung giải quyết tốt những vấn đề bất cập, bức xúc xã hội, không để chúng lợi dụng kích động khiếu kiện, biểu tình gây mất ổn định chính trị, chống phá Đảng.

Hai là, cần chủ động bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên Internet, mạng xã hội. Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp các cán bộ có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.

Ba là, thường xuyên đổi mới phương thức, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, chủ động động đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, của các thế lực thù địch. Đây là giải pháp cơ bản phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu thù địch, sai trái của các đối tượng, phần tử xấu trên Internet, mạng xã hội. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”, phản động được đối tượng sử dụng. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, cả trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để viết bài đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

Bốn là, chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ thông tin để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Thực hiện tốt những nội dung, giải pháp cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hiệu quả, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, nhất là khi chúng ta tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.

 

 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...