Trong thời gian qua, trước những khó khăn về
kinh tế-xã hội chưa được giải quyết và những diễn biến phức tạp trong khu vực…
lợi dụng tình hình này, những kẻ cơ hội chính trị, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" đã xuyên tạc tình hình, hòng bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt
Nam, chế độ xã hội Việt Nam…
Họ viết và tán
phát trên mạng rằng: "Đàn áp về nhân quyền ở Việt Nam ngày càng gia
tăng"; "các quyền của người dân, trong đó có dân chủ, quyền lập hội,
biểu tình… không được thực hiện, trái lại ngày càng bị bóp nghẹt...". Vậy
dân chủ và quyền con người là gì? Những quyền này đã và đang được bảo đảm ở
Việt Nam như thế nào?
Theo quan niệm chung, dân chủ là chế độ chính trị trong đó toàn bộ quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, do dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại
diện của mình bầu ra... Đó là các cơ quan quyền lực và chính quyền các cấp.
Về hình thức, hoặc mô hình dân chủ gồm có các dạng-dân chủ trực tiếp,
dân chủ gián tiếp. Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của chế độ dân chủ là
thiết lập và duy trì nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”, đồng thời thừa nhận
quyền tự do về chính trị và quyền bình đẳng về giới tính, về dân tộc, về vị thế
chính trị-xã hội của mọi công dân. Trong đó gồm cả quyền được bảo lưu của cá
nhân.
Có thể nói, các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản mở đầu từ thế kỷ 16, với các cuộc cách mạng điển hình
như: Hà Lan năm 1581 (mở đầu); Anh năm 1689; Mỹ năm 1766; Pháp năm 1789 đã mở
ra một nền dân chủ tư sản, trong đó bao gồm đầy đủ các nhân tố của dân chủ. Cuộc
Cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một chế độ
dân chủ mới. Đó là dân chủ XHCN, nền dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo
hướng đến lợi ích và sự bình đẳng cho mọi người. Sau Chiến tranh thế giới thứ
II, do tác động của chủ nghĩa xã hội, phong trào giải phóng dân tộc ra đời,
trong đó có Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam. Chế độ dân chủ sau Cách mạng
Tháng Tám ở Việt Nam là chế độ dân chủ nhân dân hướng theo con đường xây dựng
xã hội XHCN. Có thể xem các nền dân chủ: Dân chủ tư sản, dân chủ XHCN, dân chủ
nhân dân là 3 chế độ-3mô hình dân chủ trên thế giới. Mỗi một chế độ dân chủ nói
trên đều có những thiết chế khác nhau, nhưng tựu trung đều có những yếu tố sau:
1) Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân (bao gồm tất cả các thành
viên xã hội); 2) Bầu cử tự do và theo nhiệm kỳ bầu ra các cơ quan, người lãnh
đạo nhà nước; 3) Quyền lực của nhà nước được chia ra làm 3 nhánh: Lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan trên có một chức năng riêng; 4) Hiến pháp và
pháp luật được xem là tối thượng; 5) Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ
công dân được tôn trọng và bảo đảm.
Thực tế cho thấy, chế độ dân chủ trên thế giới có nhiều mô hình. Chế độ
dân chủ ở Hoa Kỳ có đặc trưng là luôn có hai đảng chính trị thay nhau lãnh đạo
cầm quyền; công dân, trong các cuộc bầu cử bị chia thành hai loại “đại cử tri”
và cử tri thường. Đặc trưng nền dân chủ của Việt Nam là tất cả mọi người đều
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; chế độ dân chủ của Việt Nam dựa trên hệ thống
chính trị các cấp-đó là chế độ sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng nhân dân các
cấp; là tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc và của các đoàn thể xã hội luôn luôn
được tôn trọng. Ở đây tiếng nói, nguyện vọng của người dân được bảo đảm thông
qua các đại diện của mình.
Một trong những đặc trưng của nền dân chủ ở Việt Nam là chế độ dân chủ
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền
của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc: “1. Đảng Cộng sản Việt
Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết
định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". (Điều 4, Hiến pháp
2013).
Ngay từ khi cách mạng thành công (tháng 8-1945) cho đến thời kỳ đổi mới,
Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến dân chủ ở cấp cơ sở. Còn nhớ,
sau sự kiện nông dân ở tỉnh Thái Bình tụ tập đông người đi khiếu kiện gây ách
tắc giao thông (năm 1997); một số nơi, nông dân còn tấn công, đập phá trụ sở cơ
quan công quyền. Sau khi khảo sát, nghiên cứu, khi ấy, Tổng Bí thư Đỗ
Mười cho rằng: Tình trạng gây mất trật tự nói trên bắt nguồn từ sự vi phạm
quyền dân chủ của người dân. Theo đó. Tổng Bí thư Đỗ Mười chỉ đạo ban hành Chỉ
thị số 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nội dung quy chế
dân chủ ở cơ sở gồm: Bảo đảm để mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp
luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước…; có quy chế và các hình thức để
nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ
trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác cán bộ... của chính
quyền, cơ quan, đơn vị; có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định
dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân
trên địa bàn; cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực
tiếp và thông qua, gồm: Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm
tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan,…
Sau Chỉ thị 30, Chính phủ đã luật hóa bằng nghị định của Chính
phủ. Dựa trên chỉ thị và nghị định về dân chủ, Nhà nước Việt Nam đã ban
hành hàng trăm văn bản nhằm bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở, bao
gồm cả quyền dân chủ của cán bộ, công chức, của cán bộ, nhân viên ở các doanh
nghiệp… Cho đến nay, chế độ dân chủ ở Việt Nam đã và đang được thực hiện nghiêm
túc ở các cấp, từ cơ sở xã phường, cơ quan, cho đến Quốc hội. Tất cả những vấn
đề từ đời sống thường nhật cho đến vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ đều được người dân quan tâm và có quyền tham gia. Chẳng hạn,
hiện nay vấn đề nguồn nước sạch, thực phẩm an toàn, bảo vệ quyền trẻ em... từng
là những chủ đề “nóng” trên diễn đàn Quốc hội. Gần đây, vấn đề Biển Đông là chủ
đề được Quốc hội Việt Nam đặc biệt quan tâm.
Ngày nay, nói đến chế độ dân chủ và quyền con người (QCN) thì không thể
không nói đến quyền sử dụng internet và mạng xã hội. Việt Nam chính thức nối
mạng internet từ năm 1997. Từ năm 2010, đường truyền internet ở Việt Nam được
chuyển từ dây cáp đồng sang cáp quang. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có 64
triệu người dùng internet, chiếm 67% dân số cả nước. Với con số này, Việt Nam
là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng
thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay, Việt Nam đã có 858 cơ quan báo
chí in; 105 cơ quan báo điện tử; 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các
cơ quan báo chí; 66 đài phát thanh, truyền hình. Hiện nay, không chỉ người dân
Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam có đầy đủ thông
tin từ những hãng thông tấn báo chí lớn. Hiện ở Việt Nam có tới 75 kênh truyền hình
nước ngoài “online”, trong đó có các kênh nổi tiếng, như: CNN, BBC, TV5, NHK,
DW, Australia Network, KBS, Bloomberg... Hiện có tới 20 cơ quan báo chí
nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng
nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua internet, người dân
Việt Nam có thể tiếp cận thông tin từ các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên
thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial
Times,...
Trước mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu đều có chương trình tiếp xúc cử
tri. Những cuộc tiếp xúc cử tri được các đài phát thanh, truyền hình đăng tải
rộng rãi. Nội dung các cuộc tiếp xúc cử tri ngày nay không chỉ là những vấn đề
sinh kế, điều kiện sinh hoạt của người dân, tham gia vào các dự thảo luật, mà
cử tri còn đặc biệt quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, các chủ trương
trong chính sách đối ngoại...
QCN là các nhu cầu về vật chất và tinh thần-từ nhu cầu về dân sự, chính
trị, đến kinh tế-xã hội và văn hóa được luật hóa và được Nhà nước tôn trọng,
bảo vệ. Xét về lịch sử, QCN chỉ đến với dân tộc Việt Nam khi Cách mạng
Tháng Tám thành công. Các Hiến pháp Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp
2013 đã quy định về QCN. Nội dung những quy định này hoàn toàn tương thích với
luật quốc tế về QCN. Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương để quy định về QCN.
Trong đó, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các QCN, quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; QCN, quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng”.
Kiểm soát quyền lực của nhân dân không chỉ là nguyên tắc của chế độ ở
Việt Nam mà còn là động lực của sự phát triển. Trong xã hội ở Việt Nam ngày
nay, nguyên thủ cũng có trách nhiệm trả lời những vấn đề người dân quan tâm.
Trong buổi tiếp xúc với cử tri quận Ba Đình, Hà Nội sáng 15-10, trả lời ý kiến
của cử tri quan tâm về vấn đề chủ quyền biển đảo ở Biển Đông, Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói: "Chúng ta phải giữ vững môi trường hòa
bình để phát triển đất nước, nhưng không nhân nhượng vấn đề lãnh thổ, độc lập,
chủ quyền”.
Những ý kiến xuyên tạc, phủ nhận thành tựu về dân chủ và QCN có nhiều
nguyên nhân, trong đó có những nhận thức không đầy đủ về dân chủ và QCN… Ở
nhiều quốc gia phương Tây, dân chủ thường gắn với các hoạt động chống chính phủ
của các tổ chức phi chính phủ (NGOs)… Đó là các cuộc tụ tập đông người, phá hủy
các công trình công cộng, xúc phạm cá nhân, quan chức từ cấp thấp cho đến tổng
thống. Quyền tự do báo chí cũng có nội dung tương tự… Trách nhiệm của người đưa
tin, của cơ quan quản lý báo chí thường rất nhẹ. Vì vậy dùng tiêu chí dân chủ,
nhân quyền của phương Tây để xem xét, đánh giá chế độ dân chủ và QCN của
Việt Nam là một sai lầm về chính trị và thiếu sót về phương pháp luận.
Không phủ nhận rằng trong quá trình quản lý xã hội, Việt Nam còn có
những khiếm khuyết, trong đó có việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân. Ở địa
phương này, địa phương khác vẫn còn có hiện tượng lợi ích của người dân chưa
được tôn trọng, bảo đảm, nhất là trong vấn đề đất đai. Đây là vấn đề lớn mà các
cấp ủy và chính quyền cần đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, cần nhận thức đúng, về mặt nguyên tắc, nền dân chủ của Việt
Nam là một nền dân chủ có kỷ cương, có tổ chức, có hệ thống. Trong xã hội Việt
Nam, bảo đảm quyền dân chủ, nhưng phải bảo đảm đúng pháp luật và giữ vững sự ổn
định xã hội. Bảo đảm dân chủ và QCN vừa là quyền, vừa là mục tiêu hướng đến của
chế độ… vì vậy mỗi chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để bảo đảm ngày càng tốt hơn
quyền dân chủ và QCN theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Theo TS CAO ĐỨC THÁI
(Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh)