Thứ Tư, 17 tháng 4, 2019

BỘ MẶT KẺ PHẢN ĐỘNG HUỲNH THỤC VY



Phản động là thuật ngữ dành cho những kẻ có hành động chống đối đảng, Nhà nước, những kẻ bán nước, hại dân, phản bội dân tộc. Và Huỳnh Thục Vy là một trong những kẻ như vậy. Sinh ngày 20/11/1985 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, bố Huỳnh Thục Vy là Huỳnh Ngọc Tuấn từng bị bỏ tù 01 năm vì tội chống chính quyền. Vậy nên không quá bất ngờ khi cô ả kế tục sự nghiệp của người bố theo kiểu “cha nào con nấy”. Là bà chủ của cái gọi là “Hội Phụ nữ nhân quyền” (một tổ chức được một số nhân viên sứ quán Mỹ, phương Tây hậu thuẫn để quy tụ lực lượng đấu tranh dân chủ là nữ giới, thúc đẩy phát triển “lực lượng đối lập” vào phái nữ), cô ả là một trong những người được mệnh danh là dùng cả thanh xuân để chống đối (từng tham gia biểu tình chống Trung Quốc tại Sài Gòn, tham gia các khóa huấn luyện xuống đường đấu tranh lật đổ chính quyền Việt Nam kiểu bất bạo động. Huỳnh Thục Vy và gia đình đã bị chính quyền Tam Kỳ, Quảng Nam phạt hành chính trên 260 triệu đồng với hành vi làm ra, tán phát, tàng trữ tài liệu có nội dung chống chính quyền. Cô ta cũng từng bị bắt, xử lý 2 năm tù đối với tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam theo điều 88 – BLHS Bên cạnh đó, cô ả cũng từng thổ lộ rằng“Báo Trẻ bên Texas và báo Việt Luận bên Úc trả cho mình 50 đô cho một bài viết”, tất nhiên đó là những bài viết có nội dung tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước.
Và đỉnh điểm trong chuỗi hành động chống đối của Huỳnh Thục Vy là sự việc mới đây, khi cô ả xịt sơn lê quốc kỳ, kèm theo những lời chửi bới. Đây là hành động xúc phạm quốc kỳ và hơn cả là hành động xúc phạm danh dự của một dân tộc, chỉ có những kẻ phản động mới có thể làm được điều đó, bởi đây không phải là hành động đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà là hành động muốn xóa bỏ Việt Nam – cờ đỏ sao vàng trên bản đồ thế giới, xóa bỏ Đảng (Đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động). Điều 276 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 về Tội xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy Người nào cố ý xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Theo quy định trên, tội xúc phạm quốc kỳ, quốc huy là hành vi nhạo báng, xé, đập phá, bôi bẩn, vẽ bậy, làm ô uế, đốt quốc kỳ, quốc huy hoặc các hành vi khác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự quốc gia. Như vậy hành vi bẻ, xé, quấn cờ vào người đi quậy phá của anh bạn đã cấu thành tội xúc phạm quốc kỳ, quốc huy theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Đối với hình phạt của hành vi này, người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Trước những hành động vô học trên của Huỳnh Thục Vy, cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ra giấy triệu tập. Tuy nhiên thay vì chấp hành cô ả lại sổ ra những chất giọng xỉa xói, vu khống “Chỉ có một chính thể chuyên bóc lột và ăn cướp của người dân mới dùng tài lực để nuôi những tên du côn ăn không ngồi rỗi chuyên nhục mạ những người bất đồng chính kiến và phá rối những hoạt động online của họ. Cái post về giấy triệu tập lần 2 của mình đã bị report và remove bởi những tên du côn mạng này.”
Đối với những kẻ vô học, có tinh thần chống đối đã ngấm vào máu như Huỳnh Thục Vy thì giả sử có xử cô ta về tội xúc phạm quốc kỳ (với thời hạn giam giữ 3 năm) sẽ không giải quyết gốc rễ được vấn đề. Thiết nghĩ cơ quan chức năng cần đưa thêm những tình tiết tăng nặng như không chịu ăn năn hối cải, tiếp tục có những hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, từ đó mà có những hình phạt nặng hơn, nghiêm khắc hơn, đủ để răn đe những kẻ đang có dã tâm bán nước hại dân.
VNTL

LINH MỤC TRƯƠNG VĂN KHẨN ĐANG HÀNH XỬ KIỂU GIANG HỒ



Sự việc diễn ra tại Giáo xứ Đạo Đồng, xã Quang Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An. Sự việc chỉ đạo phá hoại đối với ao nuôi cá nhà anh Lê Đức Bắc, sinh sống tại địa chỉ trên của Linh mục quản xứ Đạo Đồng Trương Văn Khẩn được trang Thường dân cho biết: “Cụ thể vào ngày 27/1 và 22/2/2019 Linh mục quản xứ Trương Văn Khẩn đã chỉ đạo giáo dân tiến hành chiếm đất trái pháp luật, phá tài sản của gia đình anh Lê Đức Bắc. Anh Bắc là giáo dân giáo xứ Đạo Đồng có niềm tin và tình yêu với Thiên chúa; đồng thời cũng tích cực trong việc làm ăn, phát triển kinh tế góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Cũng như bao người dân làm ăn chân chính khác anh Bắc đã thầu đất để làm trang trại mấy năm nay.
Thế nhưng thời gian gần đây, linh mục Khẩn không biết vì mục đích gì mà muốn chiếm diện tích đất của anh Bắc đang làm trang trại. Linh mục Trương Văn Khẩn đã nhiều lần dụ dỗ,thuyết phục anh Bắc nhượng đất, tuy nhiên anh Bắc không đồng ý. Để thực hiện được ý đồ đó, với bản tínhcực đoan, vị linh mục đã tìm mọi cách để ép buộc anh Bắc khi chỉ đạo giáo dân cô lập gia đình anh Bắc”.
Được biết anh Bắc là giáo dân xứ Đạo Đồng, người đã nhận thầu từ UBND Quang Thành khu đất nói trên để nuôi cá nhiều năm nay. Anh Bắc đã thực hiện đúng nghĩa vụ và mới đây khi hợp đồng thuê đất nuôi trồng thuỷ sản làm trang trại hết thời hạn, anh này đã chủ động có đơn xin thuê tiếp theo.
Song như đã nói ở trên, với ý đồ chiếm dụng trái phép khu đất của UBND xã Quang Thành quản lý, vị Linh mục quản xứ tại đây đã ngang ngược thực hiện hành vi nói trên.
Do bị thiệt hại về kinh tế (ước chừng của gia đình anh Bắc khoảng 200 triệu đồng) và liên tục bị đe doạ, anh Bắc đã phản ứng. Trong lần gần đây anh này đã có thư gửi vào Toà Giám mục GP Vinh để đề nghị Giám mụcGiáo phận, các Linh mục trong Toà can thiệp. Tuy vậy, sau chuyện này, giảng lễ tại nhà thờ Linh mục Khẩn đã tuyên bố sẽ rút phép thông công đối với anh Bắc và nghiêm cấm gia đình anh được đến nhà thờ đi lễ….
Trước tình cảnh và sự ngang ngược của vị Linh mục quản xứ này, để đòi lại sự công bằng cho mình và gia đình anh Bắc và một số người đã kéo về Toà Giám mục GP Vinh. Tại đây Gm Anphong Nguyễn Hữu Long và đại diện Văn phòng TGM Gp Vinh đã tiếp gia đình anh Bắc.
Chưa có bất cứ thông tin nào mới nhất về diễn biến sự việc sau cuộc gặp giữa gia đình anh Bắc với Giám mục Anphong Nguyễn Hữu Long, tuy nhiên việc Linh mục này ngang nhiên tuyên bố rút phép thông công của giáo dân là vi phạm nghiêm trọng giáo luật đạo Công giáo. Bởi theo giáo luật, “Rút phép thông công là kiểu nói bình dân để nói về những vạ được bàn tới trong Giáo luật. Trong bộ luật này có nhiều vạ dành riêng cho từng giới. Nặng hơn cả là vạ rút phép thông công. Theo từ chuyên môn của Giáo luật thì vạ này là vạ tuyệt thông. Tuyệt thông là hình phạt Hội thánh dành cho tín hữu nào lỗi phạm trầm trọng những điều ghi trong Giáo luật. Người bị vạ tuyệt thông không được hòa nhập cùng Hội thánh, không được xưng tội rước lễ, tham dự các lễ nghi và hưởng nhờ các ơn phúc thiêng liêng Hội thánh dành cho con cái mình và nếu là linh mục thì bị huyền chức và bị thải hồi về bậc giáo dân trong những lỗi phạm quá tai tiếng”.
Quyền năng thực hiện bí tích này thuộc về Giám mục chủ chăn của Giáo phận. Linh mục chỉ là người thực hiện sau khi đã có quyết định từ Giám mục GP.
Thế mà không hiểu vì sao Linh mục này lại cả gan rút phép thông công của giáo dân và vượt quyền chủ chăn?????
Mõ Làng

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2019

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI



Việc chủ động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về quyền con người là một công việc có ý nghĩa quan trọng nhằm góp phần làm rõ, bổ sung và hoàn thiện nền tảng tư tưởng của Ðảng trong việc ban hành các nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực này.
Sự phát triển nhận thức của Đảng về quyền con người trong hơn 30 năm đổi mới
Trong thời kỳ Đổi mới, trên cơ sở kế thừa thành tựu bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu đã góp phần đổi mới, phát triển nhận thức của Đảng về quyền con người. 
Trước tiên, vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng về quyền con người.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhân quyền tư sản và phê phán các tư tưởng về quyền con người trong xã hội tư sản, đã xây dựng thế giới quan khoa học mới về quyền con người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử nhằm xem xét một cách thống nhất giữa thuộc tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người cũng như giữa lý luận và thực tiễn của quyền con người. Theo các ông, phương thức sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng kinh tế, làm phát sinh, phát triển các mối quan hệ xã hội của con người, như đạo đức, chính trị, nhà nước, pháp luật và quyền con người. 
C. Mác khẳng định, quyền con người được luật pháp hóa thì thành quyền công dân theo nguyên tắc: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi” (1), “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”(2); tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì có quyền khác nhau. Nghĩa là, quan niệm về quyền con người không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử.
Quyền con người, nếu xét một cách toàn diện, gồm quyền sống, quyền lao động và quyền tự do. Bởi lẽ, các quyền này thể hiện ba phương diện cốt lõi của đời sống con người: Con người trước hết phải được tồn tại (quyền sống); con người phải được hoạt động (quyền lao động); con người phải được khẳng định, được phát triển (quyền tự do). Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản, quyền sở hữu tư nhân được phát triển thành nhân quyền (3); và tính giai cấp của quyền con người được bộc lộ ra một cách sâu sắc. Quyền con người trước tiên là “ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật pháp”. Đồng thời, quyền con người cũng là kết quả phát triển trong xã hội và thành tựu đấu tranh của con người được nhà nước và xã hội thừa nhận dưới hình thức pháp luật, được pháp luật bảo vệ. 
Do sự hạn hẹp của “pháp quyền tư sản” nên quyền con người chỉ là đặc quyền của một thiểu số thành viên xã hội. Để bảo đảm một cách thực tế và toàn diện quyền con người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhấn mạnh phải đấu tranh cho dân chủ; coi việc “giành lấy dân chủ” là mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xã hội hóa các quan hệ sản xuất và thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ, để từng bước bảo đảm các quyền con người cho đại đa số thành viên xã hội. Trên cơ sở đó, từng bước thực hiện mục tiêu cao nhất của xã hội loài người là giải phóng và phát triển toàn diện con người nhằm bảo đảm “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(4). 
Quyền con người dưới chủ nghĩa xã hội, trước hết là bảo đảm một cách thực tế các quyền tồn tại và phát triển của con người (gồm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa). Quyền con người dưới chủ nghĩa xã hội phải toàn diện: bảo đảm tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa; bảo đảm cả quyền cá nhân và quyền tập thể; bảo đảm tự do và công bằng, bình đẳng, quyền con người thống nhất với quyền công dân, như đã được đề cập trong “Tuyên ngôn quyền lợi nhân dân lao động bị bóc lột” do V. I. Lê-nin khởi thảo tháng 01-1918. Trong “Cương lĩnh dân tộc” (năm 1913), V. I. Lê-nin khẳng định các quyền dân tộc cơ bản chính là quyền dân chủ, gồm: quyền bình đẳng, quyền tự quyết và quyền liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Các quyền đó đồng thời cũng là các nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, nhằm gắn việc thực hiện các quyền này với nâng cao mức sống, bảo vệ sức khỏe, giáo dục văn hóa và tôn trọng quyền con người. 
Trên cơ sở lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng đã tiếp cận vấn đề quyền con người từ quyền của người dân mất nước và quyền của người lao động, từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt Nam. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là không quên quyền lợi của bất kỳ một giai tầng xã hội nào, từ nhi đồng, thiếu niên, đến thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo, người khuyết tật, người dân mất nước,... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định dân là chủ thì mới làm chủ và coi quyền cá nhân phải gắn với quyền tập thể, với quyền của toàn thể xã hội; bảo đảm quyền lợi của nhân dân Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền lợi của các dân tộc khác. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là “công bộc”, là tấm gương phục vụ quyền lợi của nhân dân; đề ra nguyên tắc “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” trong tổ chức xây dựng, vận hành chế độ dân chủ với Nhà nước của dân, do dân, vì dân; trong đó, việc bảo đảm quyền con người là trách nhiệm trước tiên của Đảng, Nhà nước.
Nét đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là kế thừa, phát triển quyền con người “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc; đúc kết tư tưởng cốt lõi về quyền con người vào các giá trị: độc lập - tự do - hạnh phúc cho mỗi người và mọi người; trong đó, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(5). 
Thứ hai, vận dụng, phát triển sáng tạo tinh hoa tư tưởng nhân loại về quyền con người. 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử, mà tiêu biểu là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp cận vấn đề quyền con người trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Cụ thể là về lý luận, quyền con người mang tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người, thể hiện lý tưởng giải phóng - phát triển con người toàn diện và tự do. Về thực tiễn, quá trình hình thành, bảo đảm quyền con người luôn có tính đặc thù về xã hội, như truyền thống văn hóa dân tộc, trình độ sản xuất vật chất - tinh thần của xã hội và giai cấp. Trong khi đó, các lý thuyết đương đại khác tiếp cận vấn đề quyền con người có phần phiến diện. Chẳng hạn, thuyết nhân quyền tự nhiên được coi là thuyết nhân quyền phổ quát nhưng khi thể hiện giá trị nhân quyền phương Tây thường vấp phải sự thờ ơ, phản ứng khi vận dụng vào thực tiễn với các truyền thống văn hóa khác nhau của các dân tộc trên thế giới. Quan điểm nhân quyền pháp lý không thấy được giá trị cần phải có của đạo đức, văn hóa trong bảo đảm quyền con người. Trong khi đó, thuyết tương đối văn hóa thì nhấn mạnh, có khi thiên về truyền thống văn hóa trong bảo đảm quyền con người. Hệ quả chung của các cách tiếp cận phiến diện đó là sự bàng quang, vi phạm, hay biện minh cho những yếu kém trong thực tiễn bảo đảm quyền con người. 
Thứ ba, tổng kết thực tiễn, khái quát các quan điểm lý luận về quyền con người trong thời kỳ đổi mới.
Các văn kiện của Đảng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, nghị quyết các Đại hội của Đảng và trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 02-12-2004, của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, đã đúc kết những quan điểm cơ bản về quyền con người. 
Bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trong thực tiễn đổi mới
Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Ðảng, Nhà nước về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người đã được cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc, tạo chuyển biến nhận thức một cách cơ bản, tích cực trong cả hệ thống chính trị. Mới đây, Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới nêu rõ, việc thể chế hóa đường lối của Ðảng, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013; từ đó, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, thực thi quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền con người. 
Trong bối cảnh nền kinh tế từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, đặc biệt với việc đạt được kết quả toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong năm 2018 và kết quả bước đầu chống tham nhũng, đã thúc đẩy củng cố niềm tin của người dân, tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam năm 2017 tăng 20 bậc, lên mức 68/157 quốc gia, vùng lãnh thổ. An sinh xã hội được bảo đảm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 7,2%. Số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 13,5 triệu, bảo hiểm thất nghiệp đạt 11,4 triệu; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 83% (6). 
Các thành tựu phát triển đất nước đã tạo các điều kiện vật chất và nguồn lực để tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của nhân dân. Ðời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt và ngày càng được nâng cao; cùng với việc thúc đẩy bình đẳng xã hội, việc thụ hưởng các quyền con người của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực được nâng lên đáng kể.
Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm, thúc đẩy quyền giảm nghèo bền vững và quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương. Qua hơn 30 năm Đổi mới, công tác bảo đảm, thúc đẩy quyền con người đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế vẫn còn đang đặt ra nhiều việc cần làm, nhiều vấn đề cần tập trung sức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trong thời gian tới nhằm phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và thúc đẩy ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân nhằm góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Yêu cầu và định hướng bảo đảm, thúc đẩy quyền con người trong tình hình mới
Việc thực hiện bản Hướng dẫn số 02-HD/TW của Ban Bí thư Khóa XII về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trên lĩnh vực quyền con người là nhiệm vụ vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến khó lường, nhất là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa bảo hộ, cực đoan, tình hình thiên tai, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo; tranh chấp lãnh thổ,... Thông qua thực hiện hướng dẫn số 02, tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển bền vững đất nước, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời đập tan những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Đối với lĩnh vực quyền con người, theo Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 44-CT/TW, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân các cấp cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: 
Một là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương.
Hai là, đổi mới tư duy, chủ động mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận; chủ động, kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về quyền con người ở nước ta.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, quyền con người; đồng thời kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta./.
-------------------------
(1) C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, t.16, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 25
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr. 36
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.2 tr. 187
(4) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 168
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 67
(6) Xem Cổng Thông tin điện tử Chính phủ: Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2018 của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV, ngày 23-10-2017
PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VÀ SỰ HIỆN HỮU CỦA KINH TẾ CHIA SẺ



Cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) đã làm dạng thức sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa (T - H - T’) chuyển hóa dần thành dạng thức sản xuất hàng hóa kiểu liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị (H - T’ - H’); mà theo đó, bán gắn liền với mua và thặng dư kinh tế được chia sẻ rộng rãi, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ.
Như chúng ta đã biết, trước chủ nghĩa tư bản, ở thời kỳ sản xuất hàng hóa giản đơn (H - T - H), hàng hóa được sản xuất ra bằng công cụ thủ công; sức sản xuất bị giới hạn bởi sức người và kinh nghiệm nên cách thức sản xuất hàng trăm năm không thay đổi; chủ thể của sản xuất và trao đổi hàng hóa là những người sản xuất hàng hóa tiêu dùng (tiền chỉ là vật trung gian để trao đổi những hàng hóa khác nhau nhằm mục đích tiêu dùng). Nhưng ở dạng thức sản xuất hàng hóa giản đơn (H - T - H), mua đã tách rời bán cả về thời gian và không gian (bán có thể chưa mua, bán ở nơi này nhưng mua có thể lại ở nơi khác), cung tách rời cầu; nên sản xuất hàng hóa ngay ở dạng thức giản đơn (H - T - H) tự bản thân nó đã hàm chứa sự không phù hợp giữa cung và cầu, và đương nhiên cũng hàm chứa luôn cả sự tích lũy tiền (bán mà không mua hoặc mua không hết tiền) và dần dần, tiền (T) trở thành mục đích trực tiếp của sản xuất trao đổi hàng hóa, làm cho sản xuất hàng hóa từ dạng thức sản xuất hàng hóa giản đơn (H - T - H) chuyển sang dạng thức sản xuất hàng hóa kiểu tư bản chủ nghĩa T - H - T’ (với T’ > T). 
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và kinh tế tư bản cá biệt 
Ở dạng thức sản xuất hàng hóa kiểu tư bản chủ nghĩa (T - H - T’), chủ thể sản xuất không phải là người sản xuất hàng hóa tiêu dùng, mà là nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt (nhà tư bản cá biệt); là nhà tư bản cá biệt hay nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt, bởi vì: 1- Họ đã tích lũy được tiền bạc, do đó, tập trung được các điều kiện của sản xuất để sản xuất quy mô lớn; 2- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất mà nội dung cốt lõi là cơ khí hóa đã đưa con người từ chỗ sử dụng công cụ thủ công năng suất lao động thấp, tới chỗ sử dụng công cụ máy móc năng suất lao động cao, làm cho con người có thể sản xuất ra số của cải lớn hơn số của cải nuôi sống họ và gia đình họ (hay làm cho sức lao động có thể tạo ra số giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó) để nhà sản xuất có thể tìm kiếm giá trị tăng thêm (có thể kinh doanh) bằng cách sử dụng sức lao động với tư cách là hàng hóa; 3- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã chuyển sản xuất kiểu thủ công rời rạc thành sản xuất lớn kiểu máy móc cơ khí mà theo đó, sản phẩm được làm ra theo một quy trình kỹ thuật nhất định (sản xuất là sản xuất ra toàn bộ sản phẩm và là công việc mang tính tư nhân của nhà sản xuất); 4- Mặc dù sản phẩm (H) là do rất nhiều người làm ra, nhưng vì những người lao động làm ra H cũng chỉ là những hàng hóa của nhà sản xuất với tư cách là sức lao động mà nhà sản xuất đã mua về để sản xuất, nên H là của riêng nhà sản xuất (nhà sản xuất là nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt). Vì thế, (như C. Mác phân tích) T’ bao gồm chi phí sản xuất của nhà tư bản (T) và giá trị thặng dư (m) do sức lao động họ mua được tạo ra (T’ = T + m). Vì chủ thể sản xuất là nhà tư bản cá biệt mà toàn bộ thặng dư kinh tế (m) dưới hình thái tiền lợi nhuận là thuộc về nhà tư bản, và vì tiền là mục đích của sản xuất nên phần lớn m dưới hình thái tiền lợi nhuận lại được tích lũy để mở rộng sản xuất kiếm tiền không ngừng (vô hạn độ), làm cho bán ngày càng lớn hơn mua; để rồi họ luôn phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ (bao gồm khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng sản xuất thừa). Từ năm 1825, cứ 8 năm đến 12 năm khủng hoảng sản xuất thừa của chủ nghĩa tư bản lại tái diễn một lần (năm 1825 ở nước Anh, năm 1836 ở nước Mỹ; năm 1847 ở Anh, Mỹ và châu Âu). Như vậy, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (hay cơ khí hóa) chính là nhân tố cơ bản bảo đảm sự chuyển hóa thành công từ kinh tế hàng hóa giản đơn thời phong kiến sang kinh tế tư bản chủ nghĩa; nhưng chính kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên nền tảng kỹ thuật ấy lại làm cho mâu thuẫn tiềm ẩn giữa mua và bán trong sản xuất hàng hóa bộc lộ ra thành khủng hoảng kinh tế như một căn bệnh kinh niên của chính kinh tế tư bản. 
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai và kinh tế tư bản tập thể (tư bản độc quyền)
Nếu như nội dung cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cơ khí hóa, thì nội dung cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai là điện khí hóa mà điển hình là sự xuất hiện máy móc sử dụng điện,như động cơ đốt trong và sự xuất hiện một loạt các ngành sản xuất công nghiệp mang tính tập trung cao, như công nghiệp điện lực, công nghiệp luyện thép, công nghiệp hóa chất, công nghiệp dầu mỏ; đặc biệt là việc xuất hiện máy móc sử dụng điện đã làm cho việc sản xuất hàng loạt hàng tiêu dùng phát triển (nhất là ở lĩnh vực sản xuất quần áo, đồ uống, thực phẩm, vận tải và giải trí liên quan đến điện, như phim ảnh, máy phát thanh, máy ghi âm...). Và tập trung sản xuất cao là một đặc điểm nổi bật của kinh tế tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn này, để rồi không lâu sau đó, năm 1857 tất cả các nước tư bản phát triển ở châu Âu và châu Mỹ đều lâm vào khủng hoảng kinh tế, và rồi định kỳ cứ khoảng 8 năm khủng hoảng kinh tế lại xảy ra một lần (1866, 1873, 1882, 1890). Sau những cuộc khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra, hình thức các-ten (hình thức độc quyền) xuất hiện để “khắc phục mâu thuẫn giữa bán và mua” bằng cách tìm tiếng nói chung về thị trường mà nội dung chủ yếu là các doanh nghiệp lớn thống nhất với nhau dưới hình thức hiệp định thỏa thuận về sản lượng sản xuất, về giá bán, về phương thức thanh toán; và đến sau khủng hoảng kinh tế 1900 - 1903 thì các-ten (độc quyền) đã thực sự trở thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Bên cạnh hình thức các-ten, còn các hình thức “khắc phục” mâu thuẫn giữa mua và bán khác, như xanh-đi-ca (sản xuất riêng, bán chung), tờ-rớt (quản lý thống nhất cả mua và bán); những hình thức “khắc phục mâu thuẫn mua - bán này đưa đến xuất hiện những tập đoàn kinh tế lớn của các nhà tư bản lớn (tư bản tập thể) càng làm cho sản xuất và của cải tập trung vào số ít là những nhà tư bản lớn; vì sau khủng hoảng các nhà sản xuất nhỏ bị phá sản hàng loạt và vì các doanh nghiệp nhỏ không thể cạnh tranh... tất cả những điều đó càng làm cho số ít người đó có điều kiện tích lũy và tập trung tiền bạc để mở rộng sản xuất nhanh hơn, làm cho mâu thuẫn giữa bán và mua càng gay gắt hơn; và đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 chính là hệ quả tất yếu của mâu thuẫn đó. Như vậy, nếu như cơ khí hóa (cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất) là sự bảo đảm thắng lợi triệt để của kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với kinh tế của địa chủ phong kiến ngàn năm trung cổ, thì điện khí hóa (cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai) đã đưa kinh tế tư bản chủ nghĩa từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền; nhưng kinh tế tư bản độc quyền không những không giải quyết được mâu thuẫn giữa bán và mua mà còn làm cho mâu thuẫn đó càng trở lên gay gắt hơn với sức tàn phá ghê gớm hơn (cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 xảy ra ở 56 quốc gia, kéo dài suốt 5 năm, làm mất đi 1/3 sản lượng công nghiệp toàn cầu và 2/3 giá trị thương mại quốc tế). 
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư, và sự hiện hữu của kinh tế chia sẻ
Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, thế giới thực sự bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với kỹ thuật đặc trưng là điện tử hóa, và vào thập niên 90 công nghệ điện tử - tin học đã thực sự bùng nổ và tác động sâu sắc đến hầu hết các lĩnh vực sản xuất và đời sống của nhân loại. Với sự xuất hiện của chất bán dẫn, của máy tính và các chíp điện tử; sự xuất hiện của kỹ thuật điện tử viễn thông, kỹ thuật in điện tử, các linh kiện điện tử siêu nhỏ đã đưa đến sự ra đời những máy móc kích thước nhỏ, không chiếm diện tích rộng, ít ô nhiễm, ít lao động nhưng đòi hỏi trình độ cao, rất thích hợp với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm cho các loại hình doanh nghiệp này phát triển nhanh chóng; và phi tập trung hóa trong sản xuất, kinh doanh thật sự trở thành một xu thế mạnh mẽ của thời đại, mà theo đó, thay vì một doanh nghiệp làm ra tất cả các chi tiết của sản phẩm là việc sản xuất sản phẩm phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau do nhiều nhà sản xuất, kinh doanh khác nhau thực hiện(điển hình là trong lĩnh vực sản xuất hàng điện tử, như ti-vi, điện thoại di động, máy điều hòa, tủ lạnh, xuất bản, in ấn, phô-tô...); bằng cách đó mà các nhà sản xuất, kinh doanh cá biệt đã dần dần tự biến mình thành các nhà sản xuất, kinh doanh liên hiệp, hình thành chuỗi giá trị của sản phẩm hay sản xuất theo chuỗi giá trị (Value chain). Trong đó, sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động theo thứ tự để tại mỗi hoạt động, sản phẩm thu được một số giá trị nào đó, đồng thời mang lại cho sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại, làm cho sản xuất hàng hóa từ dạng thức T - H - T’ chuyển dần sang sản xuất hàng hóa theo dạng thức H - T’ - H’. Trong đó:
T’ là giá trị của H, (T’ = T + ∆T); 
T là phần giá trị của H nhưng không phải do nhà sản xuất H tạo ra;
∆T là phần giá trị gia tăng do nhà sản xuất H tạo ra và là một phần giá trị của H (một phần của T’).
Trong thực tế, T và ∆T được ghi nhận, được phản ánh rất rõ ràng, cụ thể ở hệ thống hóa đơn chứng từ, vì đó chính là cơ sở để tính thuế giá trị gia tăng; hay nói đúng hơn, sự ra đời của thuế giá trị gia tăng là hệ quả và là bằng chứng về việc sản xuất - tiêu thụ liên hiệp theo chuỗi giá trị đã tồn tại trên thực tế (1). Đặc biệt là từ khi nhân loại bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (bắt đầu từ năm 2000) với sự hiện diện của in-tơ-nét kết nối vạn vật (IoT) và nền tảng kỹ thuật số đã làm xuất hiện mô hình kinh doanh theo chuỗi cung ứng (Supply chain), chuỗi cung ứng kết nối các chuỗi giá trị thành hệ thống giá trị như là một tổ hợp sản xuất - thương mại theo một kế hoạch gắn kết chặt chẽ từ sản xuất đến tận tiêu thụ, bán lẻ cho khách hàng cuối cùng để gắn bán với mua không chỉ trên phạm vi địa lý quốc gia mà còn trên quy mô toàn cầu (Global value chain) với hàng trăm công ty kết nối với nhau với tư cách là những nhà sản xuất hàng hóa liên hiệp thực sự(2). Và việc tổ chức sản xuất - tiêu thụ kết nối các chuỗi giá trị làm cho dạng thức H - T’ - H’ không chỉ là dạng thức kinh doanh xuất hiện trong lĩnh vực sản xuất mà còn là dạng thức kinh doanh phát triển nhanh trong lĩnh vực lưu thông và các lĩnh vực dịch vụ (đặc biệt là lĩnh vực thương mại, giao thông, chăm sóc sức khỏe... với hàng loạt loại hình kinh doanh mới, như thương mại điện tử, Uber, Grap, các loại hình taxi trực tuyến, vận tải trực tuyến, khám bệnh trực tuyến, với hàng trăm loại nghề mới, như shipper đưa hàng, bác sĩ gia đình...); trong đó mỗi khâu được xác định trên cơ sở tính toán kỹ thuật về mặt hoạt động và hạch toán về mặt giá trị, hình thành các khâu sản xuất tiêu thụ gắn kết kế tiếp nhau mang tính liên hiệp; các nhà sản xuất tiêu thụ ở từng khâu kế tiếp nhau trong chuỗi giá trị kết nối lần lượt là “khách hàng” đầu vào và đầu ra của nhau, không những làm cho cung gắn liền với cầu, bán gắn liền với mua, mà còn làm cho các hoạt động, các công việc được chia sẻ, được kết nối hết sức rộng rãi và theo đó mà “giá trị thặng dư dưới hình thái tiền lợi nhuận cũng được phân chia rộng rãi” theo mức độ đóng góp giá trị gia tăng ở từng khâu của chuỗi giá trị sản phẩm, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ và tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo, tầng lớp tiêu dùng được mở rộng nhanh chóng, nâng cao sức mua, thu hẹp sự cách biệt giữa mua và bán. Là người đứng đầu tập đoàn công nghệ toàn cầu, Bin Ghết cũng nhìn thấy vấn đề này khi đưa ra nhận xét “...toàn thế giới đang ngày càng trở nên bình quân, và xu hướng toàn cầu tích cực này có vẻ sẽ còn tiếp diễn”(3); còn theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), tầng lớp trung lưu sẽ tăng từ 1,8 tỷ người năm 2009 lên 4,9 tỷ người vào năm 2030, ở Việt Nam mỗi năm có thêm 1,5 triệu người gia nhập tầng lớp trung lưu theo chuẩn quốc tế; Hitting The Sweet Spot dự báo “trong vòng 20 năm tới, ngày càng nhiều người sẽ gia nhập tầng lớp này với nguồn tiền mới và nhiều nhu cầu cần được đáp ứng, các nhà kinh tế hy vọng nhu cầu tiêu dùng lớn từ tầng lớp này sẽ giải cứu nền kinh tế toàn cầu... bởi sự phân phối của cải toàn cầu sẽ thay đổi hoàn toàn...”(3). Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh xã hội trung lưu chính là kiểu xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc hướng tới. Như thế, H - T’ - H’ là dạng thức sản xuất hàng hóa liên hiệp không chỉ gắn kết trực tiếp giữa mua và bán, mà còn là dạng thức kinh tế chia sẻ dưới hình thái chia sẻ tiền lợi nhuận; điều đó không chỉ đúng với những gì đang diễn ra như là một đòi hỏi cấp thiết và ngày càng rõ trong đời sống kinh tế ngày nay mà còn rất đúng với dự báo của C. Mác trước đây rằng: nền sản xuất của xã hội tương lai phải là nền sản xuất được tổ chức mang tính liên hiệp... nhưng ở giai đoạn đầu thì “tính quy định của giá trị vẫn có ý nghĩa chi phối”. 
Ngày nay, tuy mô hình sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị (H - T’ - H’) gắn kết chặt chẽ từ sản xuất đến tận tiêu thụ, bán lẻ cho khách hàng và chia sẻ thặng dư kinh tế dưới hình thái chia sẻ lợi nhuận chưa thực sự trở thành nền tảng của nền sản xuất xã hội và tuy tầng lớp trung lưu trên toàn cầu mới chỉ có 1,8 tỷ người (chiếm 23% dân số thế giới), nhưng điều hết sức kỳ lạ rất đáng suy nghĩ đã xảy ra là từ năm 1980 trở lại đây, các cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bắt đầu từ sản xuất như trước nữa, mà lại bắt đầu từ lĩnh vực tài chính - tiền tệ rồi mới lan sang lĩnh vực sản xuất. Các cuộc khủng hoảng 1980 - 1981, 1987 - 1988, 1997 -1998, và 2008 - 2013 đều là những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ; nguyên nhân thực sự của sự đảo chiều 180 độ này có lẽ còn phải cần nghiên cứu thêm, nhưng rất rõ ràng là từ năm 1980 đến nay, khủng hoảng kinh tế (ít nhất) cũng không còn trực tiếp bắt đầu từ sản xuất nữa. Vậy điều gì sẽ xảy ra khi mô hình sản xuất hàng hóa liên hiệp kết nối các chuỗi giá trị thành một tổ hợp sản xuất - thương mại như một kế hoạch gắn kết chặt chẽ từ sản xuất đến tận tiêu thụ, bán lẻ cho khách hàng và chia sẻ thặng dư kinh tế trở thành nền tảng của nền sản xuất xã hội, khi tầng lớp trung lưu đông đến gần 5 tỷ người vào năm 2030 như dự báo của OECD là hoàn toàn có thể tiên đoán được (nếu dự báo của OECD là đúng thì vào năm 2030 với dân số là 8,5 tỷ người, tầng lớp trung lưu chiếm gần 60% dân số thế giới). Rõ ràng khi đó, thặng dư kinh tế đã được chia sẻ rộng rãi làm cho cầu có khả năng thanh toán tăng lên mạnh mẽ và cũng chính vì thế mà xã hội không thể tích lũy thặng dư kinh tế quá mức để sản xuất quá mức như giai đoạn tư bản cá biệt và giai đoạn tư bản độc quyền - đó chính là cơ sở gốc của sự cân bằng giữa bán và mua. Có lẽ, hy vọng nhu cầu tiêu dùng lớn từ tầng lớp trung lưu đông đảo do xu hướng phi tập trung hóa và dạng thức sản xuất hàng hóa liên hiệp kết nối các chuỗi giá trị sinh ra sẽ giải cứu nền kinh tế toàn cầu... bởi sự phân phối của cải toàn cầu sẽ thay đổi hoàn toàn như dự báo của một số nhà kinh tế không phải không có cơ sở. 
Tóm lại, cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư mà nội dung cốt lõi là công nghệ điện tử, công nghệ thông tin và công nghệ số đang làm biến chuyển một cách cơ bản cách sản xuất và trao đổi hàng hóa của nhân loại (đang làm T - H - T’ biến chuyển dần dần thành H - T’ - H’); đó là kiểu sản xuất hàng hóa liên hiệp gắn kết trực tiếp giữa bán với mua và hàm chứa sự chia sẻ rộng rãi thặng dư kinh tế, làm xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp trung lưu để lấy lại sự cân bằng giữa tiêu dùng và tích lũy, giữa bán và mua (góp phần giải quyết mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa).
Đặc điểm của kinh tế chia sẻ (của sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị)
Dạng thức kinh tế chia sẻ hay dạng thức sản xuất hàng hóa liên hiệp (H - T’ - H’) có những đặc điểm khác hẳn với dạng thức sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa (T - H - T’):
Đặc điểm thứ nhất (nhìn từ góc độ nguyên tắc của tái sản xuất), nếu ở dạng thức T - H - T’ tiền là điểm kết thúc đã làm cho sự bù đắp về giá trị không gắn liền với sự bù đắp về hiện vật vì tiền chỉ là hình thái “trú ngụ độc tôn” của giá trị, không mang hình thái giá trị sử dụng của hàng hóa theo nghĩa tiêu dùng, thì ở dạng thức H - T’ - H’ giá trị sử dụng (H’) là điểm kết thúc lại làm cho sự bù đắp về mặt hiện vật luôn gắn liền với sự bù đắp về giá trị, bởi giá trị sử dụng của hàng hóa đồng thời cũng là “cái giá” mang giá trị. Nói một cách khác, nếu như dạng thức T - H - T’ tự bản thân nó đã hàm chứa và dung túng sự vi phạm nguyên tắc sản xuất phải được bù đắp cả về mặt giá trị và hiện vật; thì dạng thức H - T’ - H’ tự bản thân nó lại là một bảo đảm sự bù đắp hiện vật phải gắn liền với sự bù đắp về mặt giá trị; chính bằng cách đó mà sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị hay kinh tế chia sẻ đã cân bằng được giữa bán với mua. 
Đặc điểm thứ hai (nhìn từ góc độ chủ thể của hành vi mua và bán), nếu ở dạng thức T - H - T’ chủ thể sản xuất là những nhà sản xuất hàng hóa cá biệt đã làm cho bán không gắn liền mua, thì ở dạng thức H - T’ - H’ chủ thể sản xuất là những nhà sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị lại làm cho bán gắn liền với mua. 
Đặc điểm thứ ba và đây là đặc điểm cốt lõi nhất (nhìn từ góc độ sức sản xuất và sức mua), nếu ở dạng thức T - H - T’ chủ thể trong sản xuất là nhà sản xuất hàng hóa cá biệt đã làm cho toàn bộ phần thặng dư kinh tế trong giá trị của sản phẩm dưới hình thái tiền lợi nhuận thuộc về nhà sản xuất hàng hóa cá biệt, dẫn đến sự tích lũy và mở rộng sản xuất “vô hạn độ” làm cho sức sản xuất ngày càng cách biệt sức mua, thì chủ thể sản xuất ở dạng thức H - T’ - H’ là những nhà sản xuất tiêu thụ liên hiệp theo chuỗi giá trị mà theo đó các hoạt động, các công việc được chia sẻ, được kết nối hết sức rộng rãi và cũng theo đó mà thặng dư kinh tế dưới hình thái tiền lợi nhuận cũng được “phân chia rộng rãi” theo mức độ đóng góp giá trị gia tăng ở từng khâu của chuỗi giá trị sản phẩm, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ và tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo, tầng lớp tiêu dùng được mở rộng nhanh chóng, do đó mà nâng cao được sức mua, hạn chế được phần tiền của tích lũy cho sản xuất “vô hạn độ”, vì thế mà cách biệt giữa mua và bán cơ bản được giải quyết. 
Đặc điểm thứ tư, nếu như ở dạng thức T - H - T’ với chủ thể sản xuất là những nhà sản xuất hàng hóa cá biệt, chức năng thước đo giá trị và chức năng trao đổi của tiền đòi hỏi sự hiện diện rất lớn của tiền mặt để lưu thông hàng hóa giữa họ, thì ở dạng thức sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị (H - T’ - H’) với chủ thể sản xuất là những nhà sản xuất tiêu thụ liên hiệp, chức năng kế toán của tiền lại là chủ yếu (tiền chủ yếu được sử dụng để phân tích, tính toán đo lường sự gia tăng giá trị của các hoạt động ở từng khâu mắt-xích của chuỗi, để di chuyển hàng hóa theo chuỗi bằng phương thức thanh toán bù trừ), vì vậy mà sự hiện diện của tiền trong chuỗi giá trị chủ yếu chỉ là tiền trên ý niệm (chuỗi giá trị thực tế như Mai-cơn Pooc-tơ mô tả chỉ là chuỗi giá trị phân tích, chỉ là khái niệm từ quản lý sản xuất, kinh doanh) làm cho lượng tiền mặt thực tế lưu thông giảm đi rất nhiều. Và khi tiền công, hoạt động mua bán lẻ trong lĩnh vực tiêu dùng hoàn toàn được thanh toán bằng thẻ tín dụng thì H - T’ - H’ là dạng thức sản xuất hàng hóa gần như không còn tiền mặt; H - T’ - H’ chuyển hóa thành dạng thức H - H’, vì khi đó tiền hoàn toàn chỉ còn là tiền trên ý niệm, chỉ còn là tiền kế toán - đúng như C. Mác đã dự báo đó là nền sản xuất liên hiệp thực sự. 
Như vậy, H - T - H và T - H - T’ là những dạng thức sản xuất hàng hóa khác nhau trong lịch sử nhân loại và lịch sử nhân loại cũng đã minh chứng sự ra đời của dạng thức sản xuất hàng hóa sau là một tất yếu từ việc giải quyết mâu thuẫn ở dạng thức sản xuất hàng hóa trước, mà trong đó các cuộc cách mạng công nghiệp đóng vai trò quyết định. Bài viết này chỉ làm công việc là khái quát lại và dựa vào cái lô-gíc đó của lịch sử để phân tích mà rút ra được rằng: cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm dạng thức sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa (T - H - T’) chuyển hóa dần thành dạng thức sản xuất hàng hóa kiểu liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị (H - T’ - H’); mà theo đó, bán gắn liền với mua và thặng dư kinh tế được chia sẻ rộng rãi, hình thành kiểu kinh tế chia sẻ, làm gia tăng mạnh mẽ tầng lớp trung lưu; với những đặc điểm khác hẳn kiểu sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, nhưng lại hoàn toàn kiểm chứng được về mặt thực tiễn qua mô hình sản xuất hàng hóa liên hiệp theo chuỗi giá trị và kết nối các chuỗi giá trị xuất hiện ngày càng nhiều trong thế giới ngày nay./.
--------------------------------------------
(1) Như chúng ta đã biết, thuế là khoản thu gắn liền với nhà nước, nhà nước có từ bao giờ thì thuế có từ bấy giờ; nhưng mãi tới năm 1918, khái niệm thuế giá trị gia tăng mới xuất hiện do C.V. Xi-men - thành viên sáng lập Tập đoàn SIEMENS AS - tập đoàn sản xuất hàng kim khí điện máy lớn nhất nước Đức lúc bấy giờ đưa ra. C.V. Xi-men đã sớm nhận ra sự trùng lắp thuế khi thực hiện thuế doanh thu, bởi khi đó việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Tập đoàn phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau do nhiều nhà sản xuất, kinh doanh khác nhau thực hiện. Tuy nhiên, cũng phải đến tận năm 1948, thuế doanh thu mới tiếp tục được hoàn thiện bởi người Pháp theo hướng đánh vào từng công đoạn của quá trình sản xuất tiêu thụ (thuế phải nộp của giai đoạn sau được trừ số thuế phải nộp của giai đoạn trước); và năm 1954, Mo-ri-xơ Lo-rơ, một viên chức thuế Pháp đã hoàn chỉnh đạo luật thuế giá trị gia tăng và thuế giá trị gia tăng chính thức ra đời từ ngày 10-4-1954
(2) Chẳng hạn, The Supply-chain Council là một tổ hợp thương mại toàn cầu kết nối 700 công ty bao gồm cả thiết kế kế hoạch, cung ứng, sản xuất và bán lẻ...
(3), (4) Nguồn: bookhunterclub. com>bill-gates-ban-ve-. . 2thg5,2016; lee jong-Wha “Asia’s Almighty Middle”, Project Syndicate, 19-3-2015, nghiencuuquocte. org> trung-luu-chau-a; và kinhtai. vn>Sự kiện, 26 th12. 2017
Đồng Văn PhườngTS, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...