Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2018


QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ VÀ NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
Chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đây là một vấn đề chính trị - xã hội của quốc gia, dân tộc. Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn quan tâm và dành những tình cảm, trách nhiệm để chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công bằng những chính sách cụ thể, thiết thực và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Điều đó thể hiện đạo lý và truyền thống “uống nước, nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc Việt Nam.
Hơn bảy mươi năm qua, thấm nhuần sâu sắc đạo lý và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện lời dạy ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải yêu thương và giúp đỡ họ”(1), Đảng, Nhà nước, nhân dân và lực lượng vũ trang ta luôn luôn trân trọng, ghi nhớ công ơn và làm được nhiều việc tốt để tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, quý trọng đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với nước. Những việc làm đó không những có ý nghĩa về mặt đạo lý mà còn có tác động thiết thực tạo động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Ngày 16-02-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 20/SL Về chế độ hưu bổng thương tật đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Đây là Sắc lệnh đầu tiên về chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công; một sự kiện quan trọng trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của các thương binh, liệt sĩ và người có công với nước. Thấm nhuần sâu sắc và thực hiện lời dạy bảo ân cần của Người, Đảng, Nhà nước, nhân dân và lực lượng vũ trang ta luôn luôn trân trọng, ghi nhớ công ơn và làm nhiều việc tốt “đền ơn đáp nghĩa” đối với những người có công với cách mạng. Trong thư gửi Ban tổ chức ngày thương binh, liệt sĩ 27-7-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó đã ốm yếu. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn và giúp đỡ những người anh dũng ấy”(2). Trong Di chúc trước lúc đi xa Bác Hồ đã căn dặn: Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi một người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Người nhắc nhở: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Người cũng chu đáo, quan tâm đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ (người có công với nước) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”(3). Những lời dạy bảo của Bác đang được Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân ta phấn đấu thực hiện ngày càng tốt hơn và chu đáo hơn. Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta chỉ rõ phải: “thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách mạng...”(4). Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng”(5). Đến Đại hội VIII, Đảng ta chỉ rõ: “Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những người có công với đất nước và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú; bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ...”(6). Tại Đại hội IX, Đảng khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên”(7). 
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến...”(8). Đến Đại hội XII, Đảng ta yêu cầu: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công; giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập của người lao động; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân(9). Đồng thời tiếp tục: “Huy động tốt nhất nguồn lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”(10); “Tiếp tục hoàn thiện chính sách xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội,... ”(11). 
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ngày 18-6-2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi người có công lần thứ ba; ngày 15-11-2007, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 25/2007/TT-BLĐTBXH, hướng dẫn bổ sung việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Tiếp đó, để đánh giá toàn diện, đầy đủ việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người có công, ngày 27-10-2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Đồng thời, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xây dựng chương trình phối hợp, triển khai rà soát đối với 7 đối tượng, bao gồm: liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, người có công giúp đỡ cách mạng và cựu thanh niên xung phong. Trên cơ sở rà soát sẽ kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục hoàn thiện việc triển khai thực hiện chính sách đối với người có công. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã phối hợp với các bộ, ngành đề xuất với Đảng, Nhà nước tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với người có công với cách mạng, ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới, phù hợp, như sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Tuyên dương Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng; Chỉ thị của Bộ Chính trị, các văn bản, quy định của Chính phủ về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; các chủ trương, chính sách lớn đối với người tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. 
Thực hiện chủ trương của Đảng, các địa phương, đơn vị trong cả nước khắc phục những khó khăn, bất cập, khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh việc tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ; thúc đẩy phong trào đền ơn đáp nghĩa, đồng thời thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TTg, ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; Chỉ thị số 368-CT/QUTW, ngày 12-6-2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội giai đoạn 2016 - 2020; tăng cường bám sát cơ sở để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề cần giải quyết trong thực hiện chính sách. 
Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong những năm qua phát triển mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu. Cả nước đã đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”. Việc xã hội hóa công tác “Đền ơn đáp nghĩa” mang lại những kết quả to lớn, thực sự huy động được sức mạnh của toàn xã hội tự nguyện tham gia phong trào, gánh vác trách nhiệm cùng Nhà nước chăm lo đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Ngành chính sách của các bộ, các tỉnh, thành phố đã chủ động chỉ đạo, tham mưu, hướng dẫn thực hiện việc xác nhận và quản lý chi trả chế độ theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Theo đó, từ năm 2010 đến nay, đã lập hồ sơ, đề nghị xác nhận gần 600 liệt sĩ; cấp giấy chứng nhận thương binh cho gần 5.000 trường hợp, hơn 1.300 bệnh binh, bảo đảm chặt chẽ, chính xác; kịp thời khắc phục, chấn chỉnh những sai sót, tiêu cực trong tổ chức thực hiện; tham gia xác lập hồ sơ, đề nghị và tổ chức chu đáo việc phong tặng, truy tặng đối với gần 73.000 bà mẹ Việt Nam anh hùng,... Cùng với đó, công tác tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ được các đơn vị, địa phương hết sức chú trọng; công tác thông tin, tuyên truyền được quan tâm đẩy mạnh; tổ chức và bảo đảm được thực hiện tốt hơn, công tác đối ngoại, hợp tác về lĩnh vực này được xúc tiến và mở rộng. Từ khi thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đến nay (Đề án 1237 - năm 2013), các đơn vị, địa phương trong cả nước đã tìm kiếm, cất bốc, quy tập được gần 9.200 hài cốt (trong nước gần 4.500, ở Lào gần 1.500, Cam-pu-chia hơn 3.100). Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội lãnh đạo, chỉ đạo tích cực và triển khai toàn diện, đồng bộ với nhiều nội dung, hình thức phong phú, phù hợp với thực tế của đơn vị, địa phương và nguyện vọng của đối tượng chính sách. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, huy động được nhiều nguồn lực, mang lại hiệu quả thiết thực, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Từ năm 2010 đến nay, Quân đội tham gia đóng góp hơn 443 tỷ đồng vào Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; nhận phụng dưỡng 1.776 bà mẹ Việt Nam anh hùng; tuyển dụng tạo việc làm cho 321 trường hợp là vợ, con liệt sĩ và thương binh, bệnh binh nặng; xây dựng, sửa chữa hơn 7.200 nhà tình nghĩa, hơn 7.660 căn nhà chính sách xã hội; tặng hơn 5.000 sổ tiết kiệm, với số tiền trên 7,3 tỷ đồng cho các đối tượng chính sách; hỗ trợ phương tiện ô-tô, trang thiết bị cho các trung tâm điều dưỡng thương binh, bệnh binh với số tiền gần 70 tỷ đồng. Ngoài ra, các đơn vị còn đóng góp vật liệu, ngày công xây dựng, tu sửa các công trình tình nghĩa ở các địa phương nơi đóng quân; tổ chức khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hơn 900.000 lượt người có công và nhân dân; đỡ đầu, tổ chức kết nghĩa với các đoàn an, điều dưỡng thương binh, bệnh binh...
Ngoài những kết quả đã đạt được, chính sách hậu phương đối với người có công với nước còn một số hạn chế cần tiếp tục giải quyết. Nhiều trường hợp người tham gia cách mạng bị chết, bị thương hoặc mất tin chưa được các cơ quan có trách nhiệm kết luận, hàng vạn người mẹ, người vợ liệt sĩ vẫn mong đợi thông tin chính thức về phần mộ của người thân... Chế độ trợ cấp ưu đãi nói chung còn thấp; một số nội dung ưu đãi đã được quy định trong Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhưng còn thiếu những văn bản hướng dẫn thực hiện. Những sai sót, nhầm lẫn, tiêu cực trong thực hiện chính sách, chế độ xảy ra ở một số nơi đã gây không ít phiền hà cho người hưởng chính sách, gây dư luận không tốt trong xã hội. 
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta về chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng cần thực hiện tốt mấy giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng. Các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến các địa phương cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về thực hiện chủ trương, chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng; đồng thời chủ động xác định kế hoạch, giải pháp thực hiện phù hợp với đặc điểm của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Trong quá trình thực hiện, các đơn vị, địa phương cần gắn công tác này với nhiệm vụ chính trị được giao; chú ý kết hợp chặt chẽ với công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội địa phương vững mạnh. 
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công bằng các chương trình cụ thể; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện tốt việc chăm sóc người có công với trách nhiệm và lòng biết ơn sâu sắc. Sự đóng góp của cộng đồng là nguồn lực, là sức mạnh để đạt mục tiêu của Đảng đề ra và cũng là nguồn bổ sung phong phú cùng Nhà nước chăm sóc tốt hơn, chu đáo hơn đời sống người có công. Đồng thời, các cấp cần thường xuyên làm tốt việc sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến, làm tốt phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” và các đối tượng chính sách có nhiều cố gắng trong sản xuất, học tập và công tác. Bổ sung những nội dung xây dựng chính sách ngày càng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tập trung giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về xác nhận thương binh, liệt sĩ, người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; tu bổ, nâng cấp mộ, nghĩa trang liệt sĩ và các công trình ghi công liệt sĩ. Đây là công việc lớn, phức tạp và khó khăn. Vì vậy, cùng với sự cố gắng của Nhà nước, phải có sự chung tay của các ngành, các cấp và của toàn dân. Trước hết, từng ngành, từng địa phương cần nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình, tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; triển khai kế hoạch cụ thể, rà soát, xem xét, kết luận từng trường hợp theo đúng quy định, tránh để nhầm, sót những người thực sự có cống hiến mà không được hưởng chính sách. Đồng thời, coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách; kiên quyết xử lý những hành vi gian dối, vi phạm pháp luật về người có công.
Bốn là, tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi của Nhà nước; bảo đảm các khoản phụ cấp, trợ cấp được trao “tận tay, đúng kỳ, đúng số” cho các đối tượng. Theo đó, các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, những bất hợp lý trong công tác chính sách; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để người có công được thụ hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Trước mắt, tập trung triển khai thực hiện tốt Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg, ngày 9-11-2011, của Thủ tướng Chính phủ “Về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, giúp bạn Lào sau ngày 30-4-1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc” đúng tiến độ, đúng, đủ đối tượng.
Hậu quả chiến tranh trên khắp đất nước ta còn rất nặng nề. Kỷ niệm Ngày thương binh, liệt sĩ 27-7 hằng năm là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nêu cao truyền thống của dân tộc ta: “Đền ơn đáp nghĩa”, tiếp tục và đẩy mạnh hơn nữa đến công tác chăm sóc, ưu đãi thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng ngày càng phát triển mạnh mẽ, mang lại những hiệu quả thiết thực, làm cho các đồng chí, đồng bào yêu quý đó yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Các cấp ủy đảng, chính quyền có trách nhiệm đi sát cuộc sống thực tế của nhân dân, lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công, loại bỏ những điều không phù hợp, kịp thời bổ sung những điểm mới cần thiết nhằm giảm bớt khó khăn cho những người đã nêu cao tinh thần anh dũng vì nước, vì dân, cống hiến tài năng, hy sinh xương máu cho Tổ quốc./.
--------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 372
(2), (3) Chủ tịch Hồ Chí Minh với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 1.425 - 1.426
(4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 558
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 51, tr.102
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 115
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 301
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, tr. 229 - 230
(9), (10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 31, 136, 137
(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 136, 137
Trần Đơn
Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
http://hcma.vn/Home/Dien-dan-chinh-tri/6036/Quan-diem-cua-Dang-va-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-chinh-sach-thuong-binh-liet-si-va-nguoi-co-cong-voi-cach-mang

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2018


HÃY TÔN TRỌNG NHỮNG VIỆC LÀM BÌNH THƯỜNG, CẦN THIẾT VÌ SỰ THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT
Sau khi thông tin về việc xử lý các đối tượng biểu tình, gây rối, phá hoại ở Bình Thuận, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh... vừa qua được công bố, đã xuất hiện những ý kiến lạc lõng, thiếu khách quan của một số đài, báo nước ngoài và các thế lực thù địch để biện minh cho hành vi vi phạm pháp luật. Lố bịch hơn, họ còn đổi trắng thay đen, kêu gọi phải “trừng phạt Việt Nam vì đã đàn áp dã man những người biểu tình ôn hòa…”.
Việc xử lý bình thường và những ý kiến… không bình thường?
Ngày 13-7 vừa qua, Công an tỉnh Bình Dương ra quyết định khởi tố hai đối tượng rải truyền đơn trái phép nhằm kích động biểu tình, gây rối trật tự công cộng, phản đối dự thảo Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc tại Khu công nghiệp Sóng Thần ở thị xã Dĩ An (tỉnh Bình Dương).
Trước đó, ngày 12-7, Tòa án Nhân dân (TAND) TP Phan Thiết tuyên phạt từ 18 tháng tù treo đến 30 tháng tù giam đối với 7 đối tượng bị bắt giữ, tạm giam về tội gây rối trật tự công cộng vào ngày 11-6.
Báo chí ngày 13-7 cũng đưa tin theo kế hoạch, TAND TP Hồ Chí Minh đã có quyết định đưa ra xét xử vụ án gây rối trật tự công cộng đối với Nguyen William Anh (còn có tên gọi khác là Will Nguyen, Nguyen Anh William, William Nguyen, thường trú tại bang Texax, Hoa Kỳ) vì phạm tội gây rối trật tự công cộng theo Khoản 2, Điều 318 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Việc xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật nêu trên là điều bình thường và hết sức cần thiết để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thế nhưng, cách nhìn thiếu thiện chí, áp đặt của một số kênh truyền thông, báo chí hải ngoại đã biến những việc bình thường thành những sự việc không bình thường, cần sự “can thiệp” của các tổ chức quốc tế. Họ cho rằng những đối tượng trên đều chỉ tuần hành, “biểu tình ôn hòa” để “bày tỏ chính kiến” và việc chính quyền xử lý như vậy là “đàn áp dã man”. Tổ chức Ân xá Quốc tế còn hô hào gây sức ép “phải trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện những người biểu tình bị giam và phải tiến hành cuộc điều tra ngay, toàn diện và hiệu quả đối với những cáo buộc có những người biểu tình bị tra tấn trong khi bắt giữ”.
Còn với đối tượng William Nguyen, cũng xuất hiện không ít ý kiến thiếu khách quan, vu cáo lực lượng chức năng đã đàn áp anh này khi chỉ “tuần hành ôn hòa”. Luật sư Lê Công Định còn khuyến nghị “William Nguyen có thể kiện Công an Việt Nam theo luật của Hoa Kỳ”. Ba dân biểu của bang California đã gửi một bức thư tới Tổng thống Donald Trump yêu cầu can thiệp, “điều tra về sự vi phạm nhân quyền”…
Từ vụ việc các đối tượng bị xử lý, họ đưa ra những “giải pháp cho Việt Nam”, kêu gọi người dân phải đấu tranh để sớm có Luật Biểu tình, Luật về Hội thì mới bảo đảm dân chủ, nhân quyền đúng nghĩa.
"Thương vay khóc mướn" hay thiếu tôn trọng pháp luật?
Ý kiến của những cá nhân và tổ chức thích “thương vay khóc mướn” cho những đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam có khách quan và đúng sự thật? Không khó để trả lời câu hỏi đó nếu tìm hiểu ngay từ mỗi vụ việc.
Với 7 đối tượng ở Bình Thuận, nghiên cứu bản cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) TP Phan Thiết có thể thấy rõ những hành vi vi phạm pháp luật của họ. Các đối tượng đã có hành vi tụ tập đông người trước UBND tỉnh Bình Thuận để tham gia cùng với các đối tượng khác hò hét, ném gạch đá và bom xăng tự chế vào lực lượng công an đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự công cộng (đó là chưa kể có đối tượng mang bình ga loại 12kg đến nơi công cộng chuẩn bị châm lửa đốt thì bị lực lượng công an phát hiện bắt giữ). Hành vi của các đối tượng trên gây ồn ào, hỗn loạn, mất an ninh trật tự tại khu vực.
Theo quy định của pháp luật, hành vi của các đối tượng đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng” thuộc trường hợp “dùng hung khí” và "hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng", là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại Điểm b và Điểm đ, Khoản 2, Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Theo đó, khung hình phạt sẽ là từ 2 đến 7 năm tù nhưng TAND TP Phan Thiết chỉ tuyên phạt các bị cáo mức từ 18 tháng tù treo (với đối tượng vị thành niên) đến 30 tháng tù giam. Như vậy, mức xử phạt này là đã khoan hồng, nhẹ hơn so với khung hình phạt. Vậy thì căn cứ vào đâu để các tổ chức, cá nhân “lên tiếng” họ bị đàn áp dã man? 
Còn với đối tượng Nguyen William Anh, theo cáo trạng của Viện KSND TP Hồ Chí Minh, đối tượng là người gốc Việt có quốc tịch Hoa Kỳ, theo học thạc sĩ tại Singapore. Đối tượng này thường xuyên theo dõi tin tức đăng tải trên mạng xã hội liên quan đến Việt Nam nên biết thông tin có kêu gọi biểu tình phản đối dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc và Luật An ninh mạng vào ngày 10-6-2018 tại TP Hồ Chí Minh. Vì thế, Nguyen William Anh quyết định về Việt Nam để tham gia. Khi về Việt Nam biểu tình, Nguyen William Anh đã kêu gọi mọi người xô đẩy và phá hàng rào cảnh sát trên đường Nguyễn Văn Trỗi. Khi gặp 4 xe ô tô của cảnh sát chặn ngang đường, Nguyen William Anh tiếp tục yêu cầu cảnh sát rời xe cho đoàn biểu tình đi qua nhưng không được chấp thuận nên đã trèo lên xe bán tải kêu gọi mọi người trèo qua các xe, đồng thời tham gia rung lắc để lật đổ xe bán tải của cảnh sát… Với những hành vi trên, cho thấy đối tượng đã nhiều lần dẫn đầu, kêu gọi mọi người có hành vi bạo động chống lại lực lượng điều hành giao thông và giữ gìn trật tự; đã gây cản trở, ách tắc giao thông nghiêm trọng trong nhiều giờ liền từ sân bay Tân Sơn Nhất vào trung tâm thành phố, đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động bình thường trên các tuyến đường giao thông ở Việt Nam. Theo Viện KSND TP Hồ Chí Minh, hành vi của Nguyen William Anh đã xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên phải xử lý nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung. Vì thế, Nguyen William Anh đã bị truy tố về tội gây rối trật tự công cộng theo Khoản 2, Điều 318 Bộ luật Hình sự, song đã được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Việc Nhà nước Việt Nam xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật trong các vụ việc trên là hoàn toàn đúng pháp luật và cũng đã thể hiện sự khoan hồng, mang tính giáo dục cao, hoàn toàn không có căn cứ để kêu gọi can thiệp. Vừa qua, dư luận quốc tế cũng đã có nhiều thông tin về vụ việc của Nguyen William Anh. Dù gia đình đối tượng này đã gửi đơn đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ can thiệp, song vẫn phải thừa nhận thực tế “không có kết quả như mong đợi”. Về phía Bộ Ngoại giao Mỹ, Heather Nauert-người phát ngôn sau đó cũng phát biểu với tinh thần tôn trọng pháp luật Việt Nam: “Theo như chúng tôi hiểu về luật pháp (Việt Nam) thì họ sẽ tiến hành điều tra trước khi thực sự buộc tội một ai đó”. Đồng thời, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ cũng cảnh báo các công dân nước này: “Những thứ dường như là bình thường ở Mỹ thì có thể không bình thường ở một nước khác và bạn phải tuân theo những luật lệ của đất nước mà bạn đang tới thăm”.
Có một thực tế đáng suy nghĩ là ngay cả khi trang web của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) đăng tải các bài viết thiếu thiện chí, thiếu khách quan về sự việc trên thì đã xuất hiện không ít bình luận phê phán hành vi sai trái của Nguyen William Anh. Một bạn đọc viết: “Nhập cuộc tham gia biểu tình ở Mỹ là chuyện bình thường, nhưng nhảy lên xe cảnh sát ở Mỹ là “ăn kẹo đồng”, nhẹ lắm là dùi cui ngay và bị bắt nhốt, ra tòa! Công dân Việt Nam sang Mỹ đi du lịch nhưng lại tham gia biểu tình, rồi phá hoại tài sản của người Mỹ xem cảnh sát Mỹ sẽ làm gì, người dân Mỹ sẽ làm gì? Bất cứ nước nào cũng vậy, công dân nước khác vào du lịch phải tuân thủ luật pháp nước đó, vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý…”. Một bạn đọc khác nhận xét: “Nếu im lặng tuần hành giơ biểu ngữ, hoặc hò hét cũng được, nhưng không mang tính kích động người khác chống cảnh sát mà bị bắt thì chính quyền Việt Nam sai. Đằng này, rõ ràng anh ta kích động, xui người khác lật xe cảnh sát, còn nhảy lên xe cảnh sát đứng là sai rõ ràng…”.
Một bạn đọc khác phân tích: “Anh này chắc bị kẻ xấu xúi giục, không hiểu luật pháp do còn trẻ, đang đi học; hành vi cũng chưa gây thiệt hại lớn về tài sản, chưa xâm hại đến thân thể người khác và đã công khai nhận lỗi, cam kết không tái phạm nên chắc nếu Việt Nam không kết tội thì cơ hội kiếm việc làm ở Mỹ còn đỡ, nếu bị Việt Nam kết tội thì khó kiếm được việc làm ở Mỹ đấy, người Mỹ không thích những người như thế. Âu cũng là bài học cho lớp trẻ, khi sang nước khác tuyệt đối tuân thủ luật pháp nước đó”.
Không được cổ xúy cho những hành vi vi phạm pháp luật
Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là tôn trọng dân chủ, nhân quyền, tôn trọng những ý kiến, quan điểm khác biệt cũng như khuyến khích phản biện xã hội, đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực để xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, những điều đó phải được thực hiện đúng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Song, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Như vậy, những công dân bị xử lý vì gây rối khi biểu tình là đúng với quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà nước Việt Nam chỉ xử lý khi họ có hành vi gây rối, chống người thi hành công vụ, đập phá tài sản chứ không xử lý họ vì “biểu tình ôn hòa” như các quan điểm sai trái, bịa đặt. Không chỉ Việt Nam mà ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, công dân tham gia biểu tình nếu có hành vi quá khích, chống đối người thi hành công vụ, đập phá tài sản công thì sẽ đều bị ngăn chặn, trấn áp và bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Không thể mập mờ, đánh tráo khái niệm dân chủ, nhân quyền để biện minh và dung túng cho những hành vi coi thường kỷ cương phép nước cũng như can thiệp một cách thô thiển, không có căn cứ vào việc quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với tinh thần thượng tôn pháp luật, không thể cổ xúy cho những hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng biểu tình để gây rối, phá hoại an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Với tinh thần thượng tôn pháp luật, không chỉ mỗi công dân mà các cá nhân, tổ chức quốc tế cũng cần tôn trọng việc Việt Nam xử lý các công dân vi phạm pháp luật trong các vụ biểu tình, gây rối vừa qua, đó là một việc làm bình thường của mỗi quốc gia vì nó được thực hiện khách quan, công bằng, đúng pháp luật!
CÔNG MINH - NGUYÊN MINH
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/hay-ton-trong-nhung-viec-lam-binh-thuong-can-thiet-vi-su-thuong-ton-phap-luat-544135


KHÔNG ĐỂ NHỮNG “BÀN TAY ĐEN” TIẾP TỤC KÍCH ĐỘNG, PHÁ HOẠI
Sau khi kích động tụ tập, tuần hành, gây rối hòng tạo ra các đợt “biểu tình toàn quốc kéo dài”, điểm nóng bạo loạn bị thất bại, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng hai vấn đề Luật An ninh mạng và xây dựng dự luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt để thực hiện các chiêu trò nham hiểm. Cùng với sự tỉnh táo, rút kinh nghiệm đấu tranh vừa qua, chúng ta cần chủ động, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, không để những “bàn tay đen” tiếp tục ném đá giấu tay.
Những thủ đoạn  xuyên tạc, chống phá “hậu biểu tình”
Hiện nay chúng tiếp tục “la làng”, “tát nước theo mưa”, xuyên tạc trắng trợn rằng, việc xử lý những người vi phạm pháp luật vừa qua là “đàn áp dã man” những người biểu tình ôn hòa, yêu nước, kêu gọi đưa vấn đề ra Liên hợp quốc và kêu gọi các tổ chức quốc tế vào cuộc.  
Đặc biệt, sau khi Chủ tịch nước ký lệnh công bố ban hành Luật An ninh mạng, chúng tiếp tục thổi phồng đạo luật này nhằm “bịt mồm nhân dân”, đe dọa nghiêm trọng cuộc sống người dân và vi phạm chính bản Hiến pháp 2013. Từ đó, chúng kêu gọi người dân không chỉ dùng Facebook mà chuyển sang dùng nhiều mạng xã hội khác để “đấu tranh”. Chúng cũng phát động cái gọi là phong trào “bất tuân dân sự” đối với Luật An ninh mạng và sự quản lý của Nhà nước.
Còn đối với dự thảo Luật Đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt, mặc dù Quốc hội đã quyết định lùi thời hạn thông qua để có thời gian bổ sung, hoàn thiện nhưng chúng tiếp tục lập luận bậy bạ rằng đây là đạo luật “bán nước”; kích động phải đưa vấn đề này ra trưng cầu ý dân toàn quốc theo Luật Trưng cầu ý dân 2015.
Không dừng lại ở đó, chúng tiếp tục kích động, cho rằng để giải quyết tận gốc của vấn đề thì không chỉ dừng ở đấu tranh cho 1, 2 đạo luật mà phải thực hiện đa nguyên, đa đảng theo mô hình dân chủ phương Tây, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chúng tiếp tục lợi dụng lòng yêu nước, cổ súy các đợt biểu tình, tuần hành vừa qua bằng những mỹ từ mị dân như “khơi dậy lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân”, “nhiều người trong bộ máy cầm quyền thức tỉnh”… Chúng kêu gọi cần tiếp tục biểu tình phản đối với những chiêu trò mới như gây kẹt xe ở các đô thị, biểu tình trên mạng, hô hào các tổ chức phản động tổ chức biểu tình ở nước ngoài…
Tỉnh táo hơn, chủ động hơn, kiên quyết hơn
Những sự việc gần đây cho thấy, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch ngày càng thể hiện rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn chính trị; bộc lộ rõ lực lượng, phương tiện, phương thức, âm mưu thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm; có lúc công khai, trực diện, có sự hỗ trợ, tham gia của các đối tượng từ nước ngoài… Từ kích động tuần hành, biểu tình, tạo cớ đẩy lên thành bạo loạn; từ thăm dò phản ứng, hiệu quả ứng phó của cơ quan chức năng, chúng có thể tập dượt để đi tới tổng biểu tình đi kèm bạo loạn lật đổ chính quyền, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.
Thời gian vừa qua, tuy có địa phương xử lý ban đầu còn chậm trễ, lúng túng, thiếu linh hoạt, thiếu kiên quyết nhưng nhìn chung, chúng ta đã tập trung chỉ đạo xử lý quyết liệt, kịp thời, hiệu quả, chặn đứng những “bàn tay đen”, không để tình hình phức tạp kéo dài. Dù các thế lực thù địch ra sức cổ súy, ba hoa cho rằng, đó là “thắng lợi lớn” và tiếp tục nhiều lần kêu gọi các đợt “tổng biểu tình toàn quốc” vào các ngày nghỉ sau đó nhưng âm mưu của chúng đã bị ngăn chặn. Đông đảo nhân dân, trong đó có phần lớn người dân ở những nơi từng xảy ra sự cố đã đề cao cảnh giác, đấu tranh, lên án làm thất bại mọi thủ đoạn kích động.
Trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá “hậu biểu tình” hiện nay, từ kinh nghiệm thời gian qua, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương, địa phương và nhân dân phải tỉnh táo hơn nữa, cảnh giác hơn nữa, chủ động hơn và kiên quyết hơn trong phòng ngừa, đấu tranh. Cần chủ động nắm chắc tình hình, âm mưu, ý đồ của kẻ xấu để có biện pháp ngăn chặn, dập tắt ngay từ đầu những mầm mống mới phát sinh. Khi có tình huống phải xử lý kịp thời, linh hoạt, mạnh mẽ, kiên quyết, hiệu quả. Đối với lực lượng vũ trang (LLVT), phải làm tốt công tác phối hợp theo Nghị định số 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng. Đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ LLVT phải gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh và tuyên truyền vận động nhân dân, gia đình, người thân trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Bảo vệ, hoàn thiện pháp luật vì sự phát triển của đất nước
Không phải ngẫu nhiên mà Luật An ninh mạng được Quốc hội thông qua với tỷ lệ 86,86%. Đây là một đạo luật rất cần thiết không chỉ để bảo vệ an ninh quốc gia mà còn nhằm bảo vệ người dân, để có môi trường xã hội phát triển lành mạnh trên không gian mạng.
Theo thống kê, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 4 trong top 10 quốc gia bị mất an toàn an ninh mạng. Để giải quyết vấn đề an ninh mạng, hàng chục quốc gia trên thế giới đã ban hành, thậm chí có những quy định khắt khe hơn cả Việt Nam. Tại Đức, Facebook nếu không quản lý tốt để người dân kích động bạo lực, xuyên tạc xúc phạm cá nhân, tổ chức sẽ bị phạt nặng cả nhà cung cấp và người dùng; thậm chí nhà cung cấp phải lưu trữ dữ liệu về lịch sử truy cập lên đến 6 tháng để phục vụ điều tra. Các hành vi bịa đặt, nói xấu và bôi nhọ danh dự hoặc tổ chức, kích động bạo lực trên Facebook, kêu gọi gây rối trật tự công cộng sẽ bị truy tố. Tại Singapore, cơ quan an ninh mạng được phép tiến hành cuộc điều tra và công ty hoặc thực thể bị ảnh hưởng sẽ phải chia sẻ thông tin với cơ quan này trong vài giờ, nếu không sẽ bị phạt khoản tiền lên tới 100.000 SGD Singapore hoặc bị phạt tù đến 10 năm. Tại Thái Lan, Luật Tội phạm máy tính được thông qua từ năm 2016 quy định mức phạt tới 5 năm tù đối với những người đăng tải những thông tin sai sự thật nhằm phá hoại an ninh quốc gia, an toàn công cộng, gây hoang mang dư luận...
Những kẻ xuyên tạc cũng đưa ra không ít thông tin mù mờ, như Luật An ninh mạng sẽ khiến nhiều công ty lớn cung cấp dịch vụ mạng xã hội rời khỏi Việt Nam, sự ngăn chặn dòng chảy thông tin có thể giảm 1,7% GDP và giảm 3,1% vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam... Song thực chất, đây là thông tin được tung ra bởi chính những doanh nghiệp đang có hoạt động kinh doanh nhưng không đóng thuế, không làm tăng GDP cho Việt Nam nhiều năm qua. Họ đã cản trở Luật An ninh mạng để chậm nghĩa vụ đóng thuế.
Ngược lại, chính việc quản lý chặt chẽ, kể cả việc yêu cầu lưu trữ dữ liệu người dùng và các dữ liệu quan trọng khác tại Việt Nam, đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam cũng là cơ sở phục vụ tốt công tác quản lý doanh nghiệp và bảo vệ người dân. Thực tế, trong quá trình soạn thảo luật, nhiều công ty lớn như Google, Facebook, Amazon đề nghị được làm việc với ban soạn thảo và chính họ đã đồng ý phối hợp cơ quan chức năng Việt Nam. Trong khi đó, một số công ty nước ngoài khác, trong đó có nhiều công ty ở Mỹ đã tìm cách đối phó với hoạt động quản lý mạng chặt chẽ của các quốc gia ASEAN, trọng tâm là Việt Nam, Thái Lan và Indonesia. Song hiện nay, đã có 19 quốc gia trên thế giới trong đó có Mỹ quy định về lưu trữ dữ liệu quan trọng quốc gia trong nước. Các quy định của Việt Nam trong luật đã trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, không vi phạm các cam kết quốc tế.
 Còn đối với dự án Luật đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt, hiện nay Quốc hội đã lùi thời hạn thông qua để có thời gian rà soát, tiếp thu ý kiến của xã hội, tiếp tục hoàn thiện tốt nhất để trình Quốc hội thông qua. Tiếp xúc cử tri gần đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: Luật Đặc khu (gọi tắt của Luật đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt-PV) thì tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, có lợi thì thông qua”.
Trên báo chí quốc tế gần đây, đã có nhiều phân tích đáng suy nghĩ về vấn đề này. Thậm chí, BBC, hãng truyền thông từng đăng tải nhiều thông tin thiếu thiện chí về Việt Nam song cũng đã có bài viết đa chiều, trong đó có những ý kiến khách quan về đặc khu kinh tế. Theo đó, kinh nghiệm từ Ba Lan, một đất nước công nghiệp hóa thành công, từ "bán lông thú đi lên bán máy móc" hiện còn 14 đặc khu kinh tế. Tiến sĩ Beata Glinkowska, Đại học Lodz (Ba Lan) cho rằng, ở Trung và Đông Âu, trong đó có Ba Lan, đặc khu kinh tế trở thành công cụ biến đổi kinh tế. Đặc khu kinh tế phổ biến ở nhiều nước, hỗ trợ phát triển kinh tế. Các quốc gia cần tạo điều kiện thông thoáng cho doanh nghiệp và các điều kiện cần minh bạch”. Tiến sĩ Arpita Mukherjee, Hội đồng Nghiên cứu Quan hệ Kinh tế Quốc tế Ấn Độ cho rằng, nhiều nước, trong đó có Nhật Bản, hiện đang cổ vũ cho đặc khu kinh tế. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nơi có khoảng trống hạ tầng, các đặc khu này cung cấp hạ tầng tuyệt hảo để thu hút đầu tư (cả trong nước và nước ngoài) và công nghệ. Ban đầu, có thể có biểu tình nhưng chốt lại, chính sách đặc khu là có lợi nhưng phụ thuộc vào cách thiết kế và nội dung cụ thể”.
Những ý kiến nêu trên phần nào cho thấy, xây dựng các đặc khu kinh tế là chủ trương đúng chứ không phải là mô hình “lỗi thời, lạc hậu”, thậm chí bôi đen rằng là để “bán nước” như những luận điệu xuyên tạc. Vấn đề là việc hoàn thiện dự án luật phải làm sao cho thật chặt chẽ, bảo đảm hiệu quả, không để các lỗ hổng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và để các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng xuyên tạc, chống phá.
Thượng tôn pháp luật, không chấp nhận cái gọi là “bất tuân dân sự”
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Luật An ninh mạng đã được Quốc hội thông qua, được Chủ tịch nước ký lệnh ban hành thì đạo luật đó phải được tôn trọng, thực thi. Theo Bộ Công an, từ nay đến khi Luật An ninh mạng có hiệu lực, còn có tới 25 nghị định và thông tư được thông qua. Vì thế, không thể tiếp tay cho các thế lực xấu phá hoại sự thượng tôn pháp luật bằng những thông tin vu vơ, không có cơ sở.
Còn với dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt, người dân có quyền được tiếp tục góp ý để Quốc hội hoàn thiện. Chúng ta tin tưởng rằng, dự án luật sẽ được hoàn thiện tốt nhất, tiếp thu đầy đủ nhất mọi góp ý, không để tồn tại những sơ hở, thiếu sót phương hại đến an ninh quốc gia. Nhưng những góp ý phải trên cơ sở tìm hiểu dự thảo luật và có cơ sở khoa học, không tiếp tay cho sự xuyên tạc, kích động, phá hoại đất nước. Không thể dựa trên những bịa đặt vô căn cứ và những ý kiến phiến diện, không đúng quy định của Luật Trưng cầu ý dân để kêu gọi phải trưng cầu ý dân để thông qua dự án luật.
Mặt khác, cũng cần cảnh giác với cái gọi là bất tuân dân sự trước Luật An ninh mạng. Bất tuân dân sự với nguồn gốc là một phong trào đấu tranh từ đầu thế kỷ 20 chống thực dân về sau trở thành phong trào người dân phản kháng những đạo luật không công bằng. Nhưng gần đây, nó đã bị biến tướng gắn với các cuộc “cách mạng nhung” ở Đức, Tiệp Khắc, “cách mạng hoa hồng”, “cách mạng cam” ở Liên Xô (cũ)… Gần đây, các thế lực thù địch đang tìm cách du nhập nó về Việt Nam, kêu gọi nhen nhóm bất tuân dân sự bằng việc lợi dụng một số quy định của pháp luật hay vấn đề thu phí đường bộ… Tuy nhiên, ngay cả luật sư từng có nhiều hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước cũng từng phải thừa nhận, không nên cổ súy cho hành vi vi phạm pháp luật khi “bất tuân dân sự”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động” nhưng cũng chỉ rõ: “Người nào sử dụng quyền tự do quá mức của mình mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”. Pháp luật nước ta chỉ hạn chế quyền tự do của những người lợi dụng pháp luật xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cộng đồng. Chúng ta ủng hộ phản biện xã hội chân chính để hoàn thiện pháp luật, xây dựng xã hội thượng tôn pháp luật nhưng cái gọi là bất tuân dân sự để cổ súy và bảo vệ những hành vi vi phạm pháp luật cần phải được ngăn chặn, đẩy lùi.
CÔNG MINH - NGUYÊN MINH
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/khong-de-nhung-ban-tay-den-tiep-tuc-kich-dong-pha-hoai-542883


NHẬN DIỆN RÕ RÀNG, ĐẤU TRANH KIÊN QUYẾT VỚI ÂM MƯU LỢI DỤNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Không phải đến bây giờ mà cuộc đấu tranh PCTN đã được tiến hành ở Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam năm 1930 cho đến nay...
Có thể nói, chưa bao giờ công tác đấu tranh PCTN lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như thời gian gần đây. Giữa lúc quyết tâm chính trị, tinh thần đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang lên cao thì các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội lại ra sức lợi dụng vấn đề này để tiến hành các hoạt động chống phá. Hơn lúc nào hết, trách nhiệm của mỗi chúng ta là phải nhận thức rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn đó.
Những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn
Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, trong đó tham nhũng là vấn đề được chúng triệt để lợi dụng. Cả thế giới đã thừa nhận, tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, tham nhũng xuất hiện và tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới, các nước dù đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) hay tư bản chủ nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước... Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động lại ra sức rêu rao rằng: “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra...”; “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”... Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: Tham nhũng chỉ xuất hiện ở những nước đi theo con đường XHCN, “tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam”... Thực chất của giọng điệu ấy không gì khác là lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu hòng làm suy giảm uy tín tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Khi mà chúng ta chưa đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hoặc đã làm nhưng kết quả chưa rõ nét thì họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng tham nhũng, suy thoái”... Khi Đảng và Nhà nước ta thể hiện quyết tâm chính trị, đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, kiên quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì chúng lại tung ra những giọng điệu lạc lõng, dựng chuyện, xuyên tạc rằng thực chất cuộc đấu tranh PCTN ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng”, "là sự đấu đá nội bộ, phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam". Đề cập đến câu hỏi làm thế nào để dẹp bỏ nạn tham nhũng ở Việt Nam, họ cho rằng: “Chỉ khi nào ở Việt Nam có chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới có thể dẹp bỏ được”... Từ những thông tin cóp nhặt trên mạng xã hội, họ còn vẽ ra, dựng nên những câu chuyện nói rằng các phe nhóm nội bộ ở Trung ương và địa phương đang đấu đá nhau... Đặc biệt, họ thường suy diễn, chụp mũ, xuyên tạc những ý kiến chỉ đạo chống tham nhũng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... Những giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là xuyên tạc mục đích, ý nghĩa tốt đẹp của cuộc đấu tranh này; bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ ta, gây phân tâm trong xã hội, làm giảm sút ý chí, quyết tâm PCTN và lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Kết quả của công tác chống tham nhũng là không thể phủ nhận
Cần khẳng định rõ rằng những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, tinh vi, những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt lạc lõng ấy không thể phủ nhận được sự cố gắng, quyết tâm chính trị và những thành quả trong cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong 5 năm gần đây, đặc biệt là những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, công tác PCTN được Đảng, Nhà nước ta chỉ đạo rất quyết liệt, tạo được một bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội. Nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng và cố ý làm trái. Tòa án nhân dân các cấp cũng đã xét xử sơ thẩm 436 vụ án, với 1.118 bị cáo về các tội tham nhũng. Các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng đã được Thanh tra Chính phủ tập trung thanh tra, kiểm tra. Qua đó, đã chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 188 vụ với 335 đối tượng. Kiểm toán Nhà nước cũng đã kiểm toán 434 đơn vị đầu mối, kiến nghị thu hồi về cho ngân sách Nhà nước hơn 65.000 tỷ đồng.
Các cơ quan chức năng đã chủ động, công khai cung cấp thông tin, định hướng dư luận trong hoạt động PCTN, phát huy vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong PCTN. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội và người dân trong PCTN ngày càng được phát huy tốt hơn... Hoạt động hợp tác quốc tế về PCTN được mở rộng. Kết quả công tác PCTN của Việt Nam những năm gần đây đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam tăng liên tiếp trong hai năm sau nhiều năm giữ nguyên, từ 31 điểm năm 2015 tăng lên 35 điểm trong năm 2017.
Ngoài việc góp phần tạo ra bước phát triển về kinh tế-xã hội, công tác đấu tranh PCTN góp phần tăng cường, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, vào chế độ XHCN. Kết quả của công tác PCTN đã tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Những kết quả ấy càng khẳng định rõ quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về PCTN. Đồng thời đó cũng là minh chứng để khẳng định rõ việc đẩy mạnh PCTN, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không làm hạn chế sức sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của những người tâm huyết, vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, với động cơ trong sáng, lành mạnh, không “làm chậm” sự phát triển, mà ngược lại làm trong sạch, tạo sức mạnh thật sự của bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đó càng chứng tỏ những luận điệu của các thế lực phản động về cuộc đấu tranh PCTN của Việt Nam là xuyên tạc, bịa đặt, vô căn cứ.
Không thế lực nào có thể làm nhụt ý chí của chúng ta
Thực tế đã khẳng định cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là trong sáng, công khai, minh bạch, khách quan, tôn trọng nhân dân và coi trọng dư luận; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Những kết quả bước đầu đã để lại cho chúng ta những bài học quan trọng. Nhưng cần đặc biệt nhấn mạnh, đó là sự thống nhất một ý chí, một quyết tâm chống tham nhũng trong toàn Đảng. Chính quyết tâm chính trị của Đảng là lời hiệu triệu lòng dân và những cán bộ, đảng viên đồng lòng trong cuộc chiến này. Kết quả của cuộc đấu tranh PCTN thời gian qua cho thấy quần chúng nhân dân và toàn xã hội đã đặt trọn niềm tin, tích cực ủng hộ ý chí quyết tâm, nỗ lực đấu tranh PCTN của Đảng... Nhưng cũng cần phải thấy ngay rằng những kết quả quan trọng đạt được mới chỉ là bước đầu. Tình hình tham nhũng, tiêu cực và tệ quan liêu, lãng phí vẫn còn nhiều, phổ biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng, đơn vị, địa phương thì ở đâu đó vẫn còn những biểu hiện thiếu kiên quyết, né tránh, tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", "trên vội vã, dưới thư thả". Thực tế ấy đòi hỏi muốn làm sạch đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng, trong sạch đội ngũ cán bộ trong toàn bộ máy, Đảng ta phải có bản lĩnh và quyết tâm chính trị cao.
Thời gian tới, khi mà cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực càng được đẩy mạnh thì các thế lực thù địch, phản động cũng sẽ gia tăng sự chống phá. Dù cam go, phức tạp, dù khó khăn đến mấy cũng không ai có thể phủ nhận, xóa nhòa những thành công của chúng ta, không ai có thể làm nhụt ý chí, quyết tâm của chúng ta. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải đề cao cảnh giác, nhận diện rõ ràng về những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội để từ đó kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động hòng phá hoại, ngăn cản cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.
 KIM NGỌC
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/nhan-dien-ro-rang-dau-tranh-kien-quyet-voi-am-muu-loi-dung-van-de-tham-nhung-de-chong-pha-viet-nam-542295

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018


BÀN THÊM NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC
Đã quá nửa nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, cơ quan tham mưu, các tổ chức đảng cũng mới chỉ dành nhiều thời lượng để nói đến vấn đề đạo đức, lối sống của cá nhân cán bộ, đảng viên theo 9 dấu hiệu nhận biết mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã vạch ra. Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức, nhất là nội dung xây dựng Đảng về đạo đức vẫn chưa thực sự được làm sáng tỏ, chưa nhất quán và chưa tương xứng với nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Không phải đến bây giờ Đảng ta mới nói đến vấn đề đạo đức trong công tác xây dựng Đảng mà sách “Đường Cách mệnh” - “cuốn giáo trình đầu tiên” do chính Nguyễn Ái Quốc biên soạn và giảng dạy cho các thanh niên yêu nước để vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết về “Tư cách một người cách mệnh”. Đó là một trong 15 vấn đề của cuốn sách và được viết ngay từ trang đầu với đầy đủ các mối quan hệ xác định của đạo đức: đối với tự mình, đối với người và đối với việc. 
Ngay từ những năm đầu cầm quyền của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những khuyết điểm, nguy cơ thoái hóa, biến chất, quan liêu, xa dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - “cuốn giáo trình thứ hai” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn và triển khai học tập trong toàn Đảng cũng dành hẳn 1 chương nói về “Tư cách và đạo đức cách mạng” trong 6 chương của cuốn sách.
Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở, răn dạy cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng bằng rất nhiều bài phát biểu, bài viết trên báo. Đặc biệt, tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; và trong “Di chúc”, vấn đề đạo đức cách mạng được viết nghiêng trong những lời căn dặn căn cốt nhất về xây dựng Đảng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1).
Tuy vậy, từ khi giải phóng hoàn toàn đất nước, Đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước, vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng lại chưa được đặt xứng tầm. Tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta mới chỉ xác định phương châm “phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức”(2). Công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên thường chỉ được đề cập một cách khiêm tốn trong nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng. 
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào mà Đảng ta không đề cập đến tình trạng suy thoái về đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, coi đó là một trong 4 nguy cơ đe dọa đến vai trò lãnh đạo của một đảng cầm quyền. Vì thế, tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức lần đầu tiên được nhắc đến với tư cách là “mặt thứ tư” trong công tác xây dựng Đảng để trở thành một chỉnh thể: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(3).
Để nghiên cứu xây dựng Đảng về đạo đức ngang tầm với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cần nhất quán về sử dụng phương pháp tiếp cận tương thích với đầy đủ những yếu tố cấu thành, như lý luận xây dựng Đảng về đạo đức (khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức, quan điểm, nguyên tắc, nhận diện sự suy thoái về đạo đức...); thực trạng đạo đức trong Đảng và thực trạng công tác xây dựng Đảng về đạo đức (ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm); phương hướng và giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong thời gian tới... 
Xây dựng Đảng về đạo đức là hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên về xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng; giáo dục, rèn luyện đạo đức cho đội ngũ đảng viên, tạo sự thống nhất trong nhận thức, nâng cao ý thức tự giác rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng; đấu tranh chống nhận thức và hành động phi đạo đức và các quan điểm sai trái, thù địch về đạo đức, lối sống, góp phần giữ gìn, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 
Nội dung cụ thể xây dựng Đảng về đạo đức được thể hiện như sau:
Trước hết, xây dựng những chuẩn mực đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đảng viên.
Đạo đức là những chuẩn mực ứng xử do cộng đồng xã hội thừa nhận và hành động theo những chuẩn mực đó, thời nào cũng có và quốc gia nào cũng có. Điểm nhấn về đạo đức trong Đảng là đạo đức cách mạng xoay quanh những chuẩn mực giá trị: Cần - Kiệm - Liêm - Chính và những nguyên tắc sống: chí công, vô tư. Đạo đức đó đối lập với chủ nghĩa cá nhân, cho nên muốn xây dựng đạo đức cách mạng thì đồng thời và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. 
Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn mực giá trị đạo đức cách mạng đòi hỏi đạo đức trong Đảng phải trở thành phương châm hành động, vì lợi ích của nhân dân và vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Chuẩn mực đạo đức của mỗi tổ chức là những giá trị xã hội mà tổ chức hướng tới. Mỗi tổ chức đều phải tạo dựng hình ảnh cho mình. Hình ảnh đó mang tính ổn định, đặc trưng trong suốt quá trình ra đời, tồn tại và phát triển. Đó là những chân giá trị riêng do người sáng lập đưa ra, các thành viên trong tổ chức thuộc các thế hệ tự nguyện, thừa nhận, tôn trọng, giữ gìn và phát huy trong suốt thời gian công tác. 
Tổ chức đảng là cầu nối giữa Trung ương Đảng với nhân dân, là cơ quan lãnh đạo địa phương, đơn vị nên các giá trị về chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng là rất cần thiết và cần phải được đặc biệt quan tâm. Với vai trò là lực lượng lãnh đạo, tổ chức đảng phải thực sự là chuẩn mực về việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, trung tâm đoàn kết và bao gồm những người sống thực sự “có tình có nghĩa”; mẫu mực nhất trong thực hiện tự phê bình và phê bình vì sự phát triển của mỗi người và vì sự vững mạnh của tổ chức. Là cơ quan quyết định các chính sách, chủ trương, quyết định các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân, của địa phương, đất nước, vì thế, tính nhân văn của tổ chức đảng nằm ngay trong quá trình nghiên cứu, thảo luận và ban hành các quyết định thuộc thẩm quyền. Chuẩn mực đạo đức của mỗi tổ chức tạo thành văn hóa tổ chức - văn hóa đảng, nó đối lập với chủ nghĩa hình thức, bệnh quan liêu, lợi ích nhóm, tình trạng bè cánh trong tổ chức. Tình trạng độc đoán, chuyên quyền, mất đoàn kết hay những chủ trương sai lầm do tầm nhìn hạn hẹp và lợi ích nhóm chi phối chính là những hành vi vô đạo đức của một tổ chức đảng.
Chuẩn mực đạo đức của người đảng viên thống nhất với lý tưởng của Đảng; có tinh thần yêu nước, lòng trung thành, làm gương, nêu gương, danh dự, tinh thần bảo vệ lẽ phải, phê phán, đấu tranh với sai trái. Những chuẩn mực đạo đức được đúc kết, dễ nhớ, dễ thực hành sẽ làm nền tảng, là căn cứ cho mọi tổ chức đảng và đảng viên trong hành động. 
Theo đó, từ những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, của nhân loại nói chung, mỗi cấp, mỗi ngành cần căn cứ vào các quy định về tư cách của người đảng viên trong Điều lệ Đảng, Quy định những điều đảng viên không được làm hay không mắc những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống được chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII để xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng cho tổ chức của mình, chuẩn hóa hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên sát với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: chuẩn mực đạo đức của chiến sĩ công an, của anh bộ đội cụ Hồ, đạo đức của người thầy giáo, thầy thuốc, của doanh nhân... Đối với cán bộ, công chức, cần xác định rõ tinh thần trách nhiệm, bổn phận phục vụ nhân dân, tinh thần tiết kiệm chống tham nhũng, lãng phí và mối quan hệ với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội. 
Hai là, tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành vi đạo đức. 
Xây dựng Đảng về đạo đức được tiến hành thông qua giáo dục, tuyên truyền vai trò, nội dung đạo đức để nâng cao nhận thức, để mỗi đảng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng, gương mẫu, làm gương, nêu gương về đạo đức. 
Giáo dục, rèn luyện đạo đức không chỉ trên trường lớp mà còn trong cả môi trường lao động, chiến đấu và sinh hoạt đời thường; học tập mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời. 
Giáo dục đạo đức phải kiên trì, thường xuyên vì sự thay đổi tư duy, quan niệm giá trị đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài. Không phải ai cũng dễ dàng đồng thuận với những tiêu chí, chuẩn mực đạo đức mới vì những ảnh hưởng về văn hóa truyền thống, tập quán của địa phương, dòng họ và gia đình hay những vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo, thậm chí là lợi ích cá nhân chi phối.
Trong giáo dục đạo đức cách mạng, phải coi trọng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, học tập các tấm gương tiêu biểu của dân tộc, của ngành mình, địa phương mình. Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo tổ chức đảng, đảng viên, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan thông tấn, báo chí tuyên truyền, cổ vũ những tấm gương đạo đức, kiến tạo môi trường lành mạnh trong Đảng và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát và phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. 
Khi xây dựng được chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, cần công khai, tuyên truyền, vận động thực hiện, cổ vũ, khích lệ những tấm gương mẫu mực về đạo đức. Chuẩn mực đạo đức đó phải luôn được kiểm điểm, nhắc nhở nhau qua sinh hoạt của tổ chức đảng, của tập thể người lao động. Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần xây dựng kế hoạch rèn luyện đạo đức cách mạng hằng ngày và tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời; hình thành phương thức làm chủ bản thân, kiểm soát các ham muốn vật chất và tham vọng quyền lực, nâng cao ý thức cảnh giác, không một phút lơ là trước cám dỗ, cạm bẫy, phòng ngừa nguy cơ rệu rã tâm lý, sống buông thả trước tiền tài, quyền lực, dục vọng.
Làm gương, nêu gương là cách giáo dục đạo đức tốt nhất đối với cán bộ, đảng viên, nhất là việc làm gương của người lãnh đạo, quản lý. Phương châm giáo dục đạo đức là làm gương, nêu gương: “một tấm gương sáng bằng hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. 
Ba là, đấu tranh tự phê bình và phê bình trong nội bộ về giữ gìn chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình trong Đảng như việc “rửa mặt hằng ngày”. Người đòi hỏi phải “quét sạch”, phải “tẩy bỏ”, phải “đánh bại giặc nội xâm”, “căn bệnh gốc, bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con, xấu xa, hư hỏng, lỗi thời” của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.”(4). 
Tự phê bình và phê bình là tất yếu khách quan, trở thành quy luật phát triển của Đảng. Tự phê bình, phê bình trong Đảng chủ yếu diễn ra ở chi bộ mà đảng viên sinh hoạt và các cấp ủy đảng mà đảng viên tham gia. Vì vậy phải tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh cho lẽ phải. Ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hoặc những nơi có vấn đề về đoàn kết, nhất là khi cán bộ chủ chốt có khuyết điểm, cấp trên cần chủ động gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo.
Bốn là, phát huy tính tự giác rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. 
Với mỗi người, phải rèn đủ cả bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, phải đủ cả bốn đức mới là người hoàn toàn, thiếu một đức thì không thành người. Nếu đào tạo cán bộ là “công việc gốc” của Đảng thì việc giáo dục, rèn luyện cán bộ hằng ngày, phải lấy đức làm gốc. Tài là quan trọng, có đức phải có tài nhưng đức là gốc, là hàng đầu, tài phải được bảo đảm bằng đạo đức và bởi đạo đức.
Trong phương châm hành động, thực hành lối sống và thái độ ứng xử, yêu cầu về đạo đức đó là phải trung thực, khiêm tốn, giản dị, trách nhiệm, có lòng chân thành, có đức bao dung, có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Phải nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, đã nói thì phải làm, không được làm gì tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, tới lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Phải biết trọng liêm sỉ, danh dự, khí tiết, trong sáng, chính trực, không có gì mờ ám, khuất tất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao sự gương mẫu, tính tiên phong “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Người căn dặn cán bộ, đảng viên, nhất là thanh niên tuổi trẻ, phải cần cù và chịu khó, siêng năng và tiết kiệm, chỉ ham muốn phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, ham học, ham làm, ham tiến bộ; không ham tiền tài, không ham danh vọng, địa vị, quyền chức. Nếu cá nhân cán bộ, đảng viên tự mình không làm chủ được, thì dễ rơi vào hư hỏng, thậm chí vi phạm pháp luật. Cho nên, người có đạo đức gương mẫu là người có đức hy sinh, có lòng vị tha, nhân ái, không vị kỷ, vụ lợi, vượt qua những cám dỗ tầm thường cá nhân chủ nghĩa, tuyệt đối không tham vọng quyền lực.
Đạo đức của Đảng và trong Đảng là đạo đức cách mạng, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân và phải suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân - “giặc nội xâm” ở trong lòng, chú trọng phát triển mọi khả năng sáng tạo của cá nhân, quan tâm tới lợi ích cá nhân nhưng kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng thể hiện ở cách ứng xử hằng ngày của mỗi người đối với công việc, sinh hoạt hay giao tiếp nên nó gắn bó suốt đời với mỗi cán bộ, đảng viên. Chính vì thế mà mỗi người phải tu dưỡng, tạo dựng, rèn luyện và giữ gìn đạo đức cách mạng suốt đời. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(5).
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức cách mạng.
Giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và các quy định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong phát hiện những đảng viên vi phạm phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”(6).
Tăng cường kiểm tra, giám sát cũng là tăng cường kiểm soát quyền lực trong điều kiện Đảng cầm quyền. Không một cá nhân nào, tổ chức nào của Đảng được phép đặt mình ra ngoài sự kiểm tra, giám sát của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của nhân dân. Siết chặt nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất và bình đẳng trong thực thi Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với mọi cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị, không có “vùng cấm”, “hạ cánh an toàn”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ.
Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra của tổ chức, sự giám sát của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, ở bất cứ đâu, trên bất cứ phương diện hoạt động, trên lĩnh vực công tác và địa bàn sinh sống nào... Phát huy dân chủ một cách đúng hướng và thật sự rộng rãi là điều tối cần thiết, nếu không nói là nhân tố quyết định thành công. Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 
Thiết lập, hoàn thiện định chế xử lý kịp thời cho tất cả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, của bộ máy đảng, của nhân dân đối với mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên. Cùng với việc đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức, các cấp ủy, các tổ chức đảng hết sức chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, sự phát hiện của công luận về cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên thuộc quyền quản lý của mình một cách toàn diện, theo hướng chặt chẽ, minh bạch. 
Sáu là, đấu tranh chống nhận thức và hành động phi đạo đức và các quan điểm sai trái, thù địch về đạo đức, lối sống.
Đấu tranh với các quan niệm sai trái, phản động đi ngược lại các giá trị đạo đức cách mạng, như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa tự do. Trong điều kiện thông tin nhiều chiều, cần phải hết sức cảnh giác chống lại những luận điệu xuyên tạc của chúng. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập quốc tế, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho nhiều chuẩn mực đạo đức thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
Như vậy, yêu cầu đấu tranh chống tư tưởng của các thế lực thù địch trong tuyên truyền về lối sống thực dụng, vụ lợi với chủ nghĩa cá nhân - “giặc nội xâm” phá hoại Đảng từ bên trong ngày càng trở nên phức tạp và cấp bách. Do vậy, cần chủ động thông tin trung thực, kiên trì, thường xuyên những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, trên cơ sở khoa học làm rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đấu tranh trên lĩnh vực nhận thức về những chuẩn mực đạo đức, lối sống để tạo nên truyền thống đạo đức mới của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Cần xây dựng ý thức đạo đức cách mạng và tổ chức thực hành đạo đức cách mạng; chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng thành tình cảm đạo đức cách mạng (về lẽ sống, nghĩa vụ, lương tâm, danh dự...); biến các đòi hỏi của Đảng và xã hội đối với người đảng viên thành nhu cầu nội tâm, hành vi tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, trong phong cách công tác và lối sống đời thường. Đó cũng là cách miễn dịch tốt nhất trước những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch.
Bảy là, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng về đạo đức.
Các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Xây dựng các cơ chế bảo đảm và phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, nhất là xây dựng đội ngũ đảng viên về phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần nêu gương và giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân. 
Xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(7). /. 
-----------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 611 - 612
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 625
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 202
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 612
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64 - 65
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 - 612
Nguyễn Minh Tuấn
PGS, TS, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2018/51513/Ban-them-noi-dung-xay-dung-Dang-ve-dao-duc.aspx

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...