QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ "CÁCH LÃNH ĐẠO" VÀ VẬN DỤNG TRONG LÃNH ĐẠO HIỆN NAY
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” (1947) của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứa đựng hệ thống những luận điểm, chỉ
dẫn sâu sắc về thái độ và phương pháp làm việc, nhất là về cách thức lãnh đạo.
Dựa vào việc phân tích một khuynh hướng nghiên cứu mới của khoa học lãnh đạo
hiện đại - Kiến tạo tri thức như chức năng của lãnh đạo, bài viết làm sáng tỏ
hơn và khẳng định giá trị khoa học mang tính thời đại trong những luận điểm về
“Cách lãnh đạo”. Qua đó gợi mở hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong nghiên
cứu, đào tạo và thực hành lãnh đạo trong bối cảnh thế giới “phẳng” ngày nay.
1. Những chỉ dẫn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo
Ngay từ năm 1947, trong
tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn sâu sắc về cách
lãnh đạo huy động trí tuệ quần chúng, học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi
quần chúng, chủ động dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức của tập thể, cộng đồng
để tạo nên những quyết định lãnh đạo sáng suốt.
Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu thấu và kinh
nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh
nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của
dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình... Nghĩa là phải lắng tai nghe ý
kiến của đảng viên, của nhân dân, của “những người không quan trọng”(1).
Người đã lập luận hết sức
thuyết phục rằng: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc,
của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có
hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một
mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy,
muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại. Muốn
như thế, người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng
lớp người, với dân chúng”(2).
Là một người có trí tuệ
uyên bác, nhưng trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào trí
tuệ của nhân dân, luôn tin rằng họ là người hiểu nhất vấn đề của chính họ, cái
mấu chốt là cán bộ lãnh đạo phải làm sao để khơi dậy nguồn lực trí tuệ đó.
Người chỉ rõ: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không
ra”(3).
Theo Hồ Chí Minh, muốn
huy động được trí tuệ quần chúng nhân dân, phải từ bỏ cách lãnh đạo quan liêu,
mệnh lệnh, áp đặt từ trên xuống rồi bắt quần chúng theo; thay vào đó là cách
lãnh đạo “Làm theo cách quần chúng”.Khi đề cập cách thức lãnh đạo Làm theo cách
quần chúng, Người chỉ rõ: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng
bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng
vui lòng ra sức làm”(4).
Để thực hiện cách thức
lãnh đạo này một cách có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn rất
cụ thể:
Thứ nhất,cán bộ cần phải
hiểu rõ đặc điểm tâm lý, trình độ của quần chúng nhân dân, xem đó như một phần
tất yếu của bối cảnh lãnh đạo. Người đã chỉ ra thuộc tính tĩnh của dân chúng:
có lớp tiền tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu.Vì lý do đó, như một lẽ tất
nhiên, ý kiến của mọi người sẽ rất khác nhau. Người nhấn mạnh ưu thế động của
dân chúng, là sự cảm nhận, so sánh theo thời gian, so sánh theo bối cảnh không
gian cụ thể. Cùng với đó là năng lực tổng quát của dân chúng trong việc phát
hiện ra mâu thuẫn và đề ra cách giải quyết.
Thứ hai,khi đã hiểu rõ
đặc điểm tâm lý, trí tuệ của quần chúng thì cán bộ nên sử dụng phương pháp gợi
mở vấn đề và kích thích tư duy phản biện trong chính những người dân để cùng
nhau giải quyết vấn đề. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “khi đem vấn đề ra bàn trước dân
chúng, họ đem các ý kiến khác nhau so sánh. So đi sánh lại, sẽ lòi ra một ý
kiến mà mọi người đều tán thành, hoặc số đông người tán thành. Ý kiến đó, lại
bị họ so sánh tỷ mỷ từng đoạn, họ thêm điểm hay vào, bỏ điểm dở đi. Ý kiến đó
trở thành ý kiến đầy đủ, thiết thực. Sau khi bàn bạc, so sánh, thêm thắt, thành
một ý kiến đầy đủ, ý kiến đó tức là cái kích thước nó tỏ rõ sự phát triển trình
độ của dân chúng trong nơi đó, trong lúc đó. Theo ý kiến đó mà làm, nhất định
thành công. Làm không kịp ý kiến đó, là đầu cơ, nhút nhát. Làm quá ý kiến đó là
mạo hiểm, hẹp hòi, “tả””(5).
Hồ Chí Minh hết sức phê
phán những cán bộ có thái độ coi thường trí tuệ của nhân dân. Người viết: “Có
người thường cho dân là dốt, không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì
vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng. Đó là
một sai lầm nguy hiểm lắm. Ai có sai lầm đó, phải mau sửa đổi. Nếu không sẽ
luôn luôn thất bại”(6).
Thứ ba, tin vào trí tuệ
của nhân dân, nhưng người lãnh đạo không được “theo đuôi quần chúng” mà phải
chịu trách nhiệm trước nhân dân, phải đóng vai trò chủ động, tích cực, năng
động, sáng tạo trong dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức tập thể để đưa ra các
quyết định hợp lý. Vai trò của lãnh đạo trong quá trình ra quyết định thể hiện
ở chỗ biết phát huy những kiến thức, phương pháp lý luận khoa học đã được học
để so sánh, tổng hợp các ý kiến của nhân dân, làm sâu sắc hơn, lý giải cơ sở
khoa học của nó và tiếp tục đưa sản phẩm tư duy, sáng tạo của mình cho nhân dân
phản biện. Về luận điểm này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cố nhiên, không phải dân
chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ cũng phải dùng cách so
sánh của dân chúng mà tự mình so sánh. Nghĩa là đem các ý kiến khác nhau để so
sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các tầng lớp xã hội có cái ý kiến đó.
Tìm ra mối mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau đó. Xem rõ cái nào đúng, cái
nào sai. Chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để
nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng”(7). “Gom góp ý kiến và
kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ phận, đem làm ý kiến chung. Rồi lại đem ý
kiến chung đó để thí nghiệm trong từng bộ phận. Rồi lại đem kinh nghiệm chung
và mới, đúc thành chỉ thị mới. Cứ như thế mãi. Biết làm như vậy mới thật là
biết lãnh đạo”(8).
Như vậy, trong chu trình
vận động và phát triển tri thức của tập thể, của cộng đồng, Hồ Chí Minh vừa coi
trọng vai trò của quần chúng nhân dân, vừa nhấn mạnh đến vai trò, sứ mệnh của
người lãnh đạo trong việc tổ chức, dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức - tổ
chức đối thoại, tranh luận nhằm tìm ra chân lý và tổ chức thực hành để kiểm
nghiệm chân lý trong thực tiễn, rồi lại nâng kinh nghiệm thực tiễn (cũ và mới)
thành lý luận mới, chính sách mới.
2. Vận dụng trong lãnh
đạo phù hợp thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
Lãnh đạo bao gồm nhiều
hoạt động, từ việc xây dựng tầm nhìn, xác định mục tiêu, ra quyết định đúng,
đổi mới để tổ chức phát triển, đến việc xây dựng văn hóa tổ chức, tạo động lực
và sự cam kết của các thành viên hướng tới tầm nhìn, mục tiêu chung... Trong
tất cả các hoạt động đó, việc tiếp nhận, xử lý thông tin, dữ liệu (đầu vào) để
đi đến các quyết định quản lý hoặc quyết định chính sách hợp lý (đầu ra) có vai
trò hết sức quan trọng. Các nhà khoa học đã ước tính 70% thời gian của lãnh đạo
là dành cho việc tiếp nhận, xử lý các loại hình thông tin, dữ liệu thông qua
các kênh khác nhau. Sự khác biệt về “chất” giữa đầu vào - đầu ra thể hiện ở các
phương án quyết định mà nhà lãnh đạo cần phải lựa chọn: tính chất tổ hợp, khả
năng phản ánh hiện thực khách quan, tính khả thi... Bên cạnh năng lực tổng hợp,
phân tích và cảm nhận cá nhân của lãnh đạo thì chất lượng thông tin, dữ liệu
đầu vào có tác động quan trọng đến chất lượng phương án quyết định quản lý hoặc
quyết định chính sách đầu ra. Chính ở đây, có nhiều câu hỏi quan trọng được đặt
ra như: làm thế nào để thu nhận được các thông tin, dữ liệu đầu vào có chất
lượng trong hoạt động lãnh đạo quản lý; đánh giá mức độ tin cậy của các nguồn
thông tin; giữa các loại thông tin dữ liệu khác nhau thậm chí mâu thuẫn nhau,
thì làm thế nào để lựa chọn đúng, xây dựng phương án phù hợp?...
Từ đầu thế kỷ XXI đến
nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ
thông tin, truyền thông, dữ liệu thì khoảng cách trong tiếp nhận thông tin giữa
các nhóm xã hội khác nhau ngày càng bị thu hẹp. Bên cạnh đó, như nhiều nhà khoa
học đã chỉ ra, với một lượng thông tin hằng ngày rất lớn, đa dạng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, thì con người có thể bị chìm ngập trong thông
tin mà không đem lại kiến thức và tri thức đáng kể nào. Nhà lãnh đạo, với yêu
cầu đưa ra được các quyết định đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ mà thực tiễn
cuộc sống, công việc đặt ra, càng cảm nhận thấy tình trạng mất cân đối giữa một
bên là thông tin ngày càng nhiều - và một bên là sự không theo kịp của năng lực
xử lý thông tin để tạo ra tri thức có ích cho công việc. Trong hoàn cảnh đó,
các nhà khoa học đã nhấn mạnh đến quá trình kiến tạo tri thức(knowledge
creation) mang tính ứng dụng cao trong khi đối diện với các thách thức lãnh
đạo. Nói cách khác, nếu coi việc ra quyết định là sự lựa chọn một trong các
phương án hành động thì chất lượng thông tin, dữ liệu đầu vào và tính khả thi
của các phương án đưa ra sẽ có tác động rất lớn đến hiệu quả của việc thực thi
quyết định.
Herbert Simon đã lập luận
về “Lý trí giới hạn - bounded rationality” (1972) dẫn đến các phương pháp ra
quyết định dựa vào trí tuệ tập thể thông qua các phương pháp như delphi, hay
lấy ý kiến bậc thang(9). Tuy nhiên, hạn chế lớn của cách tiếp cận
này là tập trung vào việc lấy ý kiến các chuyên gia, trong giới hạn nhóm nhỏ
của tổ chức, công ty hoặc công ty tư vấn.
Năm 2004, James
Surowiecki (người Mỹ) đã công bố cuốn sách: “Trí tuệ đám đông - Vì sao đa số
thông minh hơn thiểu số”, đưa ra nhiều dẫn chứng lịch sử và thực nghiệm xã hội
khẳng định rằng sự đa dạng, độc lập của các ý kiến khác nhau của nhóm đông
người là vô cùng cần thiết để đi đến những phán đoán sát với thực tế; một nhóm
bình thường đông người có thể đưa ra quyết định hợp lý hơn cả các chuyên gia(10).
Công trình nghiên cứu này gợi ý cho chúng ta rằng việc tìm kiếm phương án giải
quyết các thách thức lãnh đạo không nên chỉ giới hạn bởi ý kiến của nhóm có
trình độ cao mà cần huy động trí tuệ của nhiều người, kể cả người rất bình
thường. Thách thức lớn nhất khi cần huy động trí tuệ tập thể - ý kiến quần
chúng - là làm sao để họ tham gia vào quá trình cung cấp thông tin và gợi ý
phương án hành động một cách chân thật nhất. Các ý kiến đó nên và cần xuất phát
từ chính góc nhìn của chủ thể chứ không phải bị áp đặt bởi góc nhìn của nhà
lãnh đạo hay một ai khác.
Trong thời gian dài, đã
có định kiến về tương quan chênh lệch kiến thức, tri thức giữa người lãnh đạo
và người dân bình thường. Theo đó, đa số ý kiến cho rằng người lãnh đạo luôn có
nhiều thông tin, kiến thức hơn so với người dân; những cán bộ dưới quyền chỉ là
người thừa hành, tiếp nhận thông tin và kiến thức từ lãnh đạo, vận dụng sáng
tạo để thực hiện nhiệm vụ do lãnh đạo giao. Nói cách khác, dòng chảy thông tin,
kiến thức mang tính một chiều từ lãnh đạo đến nhân viên, từ cán bộ đến người
dân thường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin,
truyền thông, khả năng và cơ hội khai thác thông tin, dữ liệu của người dân đã
được cải thiện rất nhiều. Việc nâng cao trình độ học vấn, cơ hội giao lưu văn
hóa liên quốc gia đã gia tăng khả năng tổ hợp tri thức của chính những người
dân bình thường. Thông qua đó, năng lực của người dân trong nhận biết mâu thuẫn
và tìm phương án giải quyết vấn đề cũng có bước phát triển vượt trội. Vậy tri
thức tổ hợp của lãnh đạo sẽ phải được gây dựng như thế nào, ở trình độ nào mới
thể hiện được năng lực lãnh đạo và dẫn dắt?
Trong khoa học xã hội đã
đề cập đến Tri thức bối cảnh hóa- contextualized knowledge như một trong những
luận điểm có sức sống nhất trong các lý thuyết quản trị tri thức hiện đại. Theo
đó, với tiến trình gia tăng mức độ phức tạp và phức hợp của các hiện tượng và
tiến trình trong xã hội được cộng hưởng bằng sự tương tác hàm chứa nhiều điều
“bất định” hơn là “tất định” thì sự hiểu biết của con người về bất kỳ một sự
kiện hiện tượng nào cũng không thể “bất biến” mà phải gắn với bối cảnh cụ thể,
không gian - thời gian của sự kiện, hiện tượng(11). Tri thức bối
cảnh hóa (contextualized intelligence/knowledge) trở nên hết sức hữu dụng, đặc
biệt đối với việc xử lý các thách thức lãnh đạo thì hiểu biết về bối cảnh cụ
thể và có thể đang thay đổi từng ngày, từng giờ càng trở nên quan trọng. Thiếu
thông tin, hiểu biết về bối cảnh của thách thức rất dễ đưa ra các quyết định
sai lầm.
Các thách thức lãnh đạo
và chính sách trong thực tiễn, luôn khác xa so với những kiến thức được học tập
trong nhà trường. Trong rất nhiều trường hợp, tri thức khoa học truyền thống,
những kiến thức hiện có của bản thân nhà lãnh đạo cũng như của tổ chức không đủ
để giúp nhà lãnh đạo giải quyết được các thách thức đó. Trong hoàn cảnh này đòi
hỏi nhà lãnh đạo và tổ chức phải kiến tạo tri thức mới, do đó, năng lực hỗ trợ
và dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức trở nên hết sức quan trọng đối với nhà
lãnh đạo. Trong quá trình kiến tạo tri thức này, mỗi chủ thể liên quan, cho dù
là người có trình độ cao, hay những người học vấn thấp, lạc hậu, vẫn có một vị
trí nhất định. Vai trò của họ không chỉ giới hạn ở việc trở thành đối tượng
hưởng lợi của quá trình kiến tạo tri thức mà họ có khả năng đóng góp nhất định
cho tri thức bối cảnh hóa đó.
Lý thuyết “Quản trị dựa
vào tri thức” của Ikujiro Nonaka - một trong 20 nhà quản trị nổi tiếng thế giới
thế kỷ XXI, nhấn mạnh kiến tạo tri thức (knowledge creation) là nền tảng cốt
lõi để lãnh đạo, quản lý tổ chức/cộng đồng ngày càng phát triển thích ứng được
với những thay đổi liên tục của thị trường, xã hội. Khi so sánh, đối chiếu chu
trình kiến tạo tri thức SECI gồm 4 giai đoạn: xã hội hóa - ngoại hóa - tổng hợp
- nội hóado I.Nonaka và các cộng sự phát hiện, khái quát trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn quá trình kiến tạo tri thức trong hàng loạt doanh nghiệp thành công
nổi bật ở Nhật Bản(12), chúng ta nhận thấy có sự trùng hợp với những
chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh như đã trình bày ở trên.
Mô hình SECI khẳng định
rằng quá trình tạo ra tri thức là quá trình biến hóa liên tục giữa tri thức ẩn
(tacit knowledge) và tri thức hiện (explicit knowledge).Tri thức ẩnlà những
hiểu biết của cá nhân, nó có tính chủ quan và là tri thức dựa trên trải nghiệm
cá nhân, nhiều khi không thể thể hiện bằng lời, con số, hay công thức (nó phụ
thuộc vào bối cảnh cụ thể). Tri thức hiệnlà những tri thức có tính khách quan,
logíc có thể thể hiện bằng lời, con số hoặc các công thức (nó không phụ thuộc
vào bối cảnh). Tất cả mọi tri thức đều ở dạng tri thức ẩn hoặc bắt nguồn từ tri
thức ẩn. “Tri thức mới được tạo ra từ sự tương tác liên tục giữa tri thức ẩn và
tri thức hiện”(13). Theo I.Nonaka, tương tác qua lại giữa tri thức
ẩn và tri thức hiệnlà sự di chuyển liên tục qua lại giữa cách nhìn chủ quan và
khách quan, hướng đến chân lý; trong đó đối thoại và thực hành đóng vai trò
quan trọng để khách quan hóa tri thức ẩn của cá nhân và kiểm chứng nó, giúp nó
tiệm cận đến chân lý.
Điều này đúng như Chủ
tịch Hồ Chí Minhđãnhấn mạnh: dân chúng so sánh đúng, giải quyết đúng, là vì tai
mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe cũng thấy. Đây chính là nguồn tri thức ẩnvô
tận mà bất cứ một nhà lãnh đạo, quản lý nào muốn thành công thì khôngthể bỏ
qua, coi nhẹ. Sự kiến tạo tri thức đối với người lãnh đạo, không chỉ giới hạn
ởviệc tự mình tìm ra tri thức mới, hoặcdựa vào đội ngũ chuyên gia. Họ cần phải
tìm ra các phương thức, công cụ khác nhau, để đối thoại với người dân, kích
hoạt quá trình làm nổi lên tri thức ẩn (ngoại hóa tri thức ẩn) và từ đó, chuyển
hóa thành tri thức hiện(khách quan, khái quát hóa tri thức ẩn) mang tính hữu
dụng để sẵn sàng đối diện và vượt qua các thách thức. Đó chính là vai trò lãnh
đạo và dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức, trong phạm vi hẹp ở cơ quan, tổ
chức, haytrên bình diện cộng đồng, xã hội rộng lớn.
Đối với cán bộ lãnh
đạo,quản lý khu vực công (đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội,...), việc
phát triển năng lực lãnh đạo dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức sẽ đi cùng với
việc xây dựng các công cụquản trị tri thức, rèn luyện các kỹ năng thông qua đào
tạo, kèm cặp, trải nghiệm thực tiễn. Tuy nhiên,trước hết cần phải rèn luyện một
năng lực quan trọng đầu tiên trong quan hệ với dân chúng, như Hồ Chí Minhđã chỉ
ra:“Muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu
khó, phải khéo khơi cho họ nói”(14).
Trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp 4.0, người dân có thể tìm kiếm, trao đổi thông tin và học hỏi nhanh
hơn, nhiều hơn thông qua sử dụng mạng internet; vai trò của trí tuệ nhân tạo,
của sức sáng tạo ở con người ngày càng quan trọng thì năng lực dẫn dắt quá
trình kiến tạo tri thức trong cơ quan, tổ chức, cộng đồng xã hội, để hóa giải
những thách thức trong lãnh đạo, quản lý càng trở thành đòi hỏi cấp thiết đối
với người lãnh đạo. Năng lực đó được coi là một trong những năng lực cốt lõi
của nhà lãnh đạo hiện tại và tương lai.
Năng lực lãnh đạo, dẫn
dắt quá trình kiến tạo tri thức có thể được đào tạo, bồi dưỡng, do đó, nó cần
trở thành hợp phần quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
ở Việt Nam và trong hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
_______________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý
luận chính trị số 9-2017
(1), (2), (3), (4),
(5), (6), (7), (8), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr 285, 286, 295, 294, 296, 295, 297, 291, 295.
(9) Simon, H. (1972):
“Theory of boubded rationality” trong sách Guire, C.B.Mc. and Radner, R. (Eds),
Decision and organization, North-Holland Publishing Company.
(10), (13) James
Surowiecki: Trí tuệ đám đông - Vì sao đa số thông minh hơn thiểu số, Nxb Trí
Thức, Hà Nội, 2014.
(11) Helga Nowotny, Peter
Scott and Michael
Gibbons: Tư duy lại khoa học - tri thức và công chúng trong kỷ nguyên bất định, Nxb Tri thức, 2009.
Gibbons: Tư duy lại khoa học - tri thức và công chúng trong kỷ nguyên bất định, Nxb Tri thức, 2009.
(12) Nonaka, I., Toyama,
R. và Hirata, T:Quản trị dựa vào tri thức, Nhà xuất bản Trẻ, 2011.
TS Bùi Phương Đình
TS Nguyễn Thị Thanh Tâm
Viện Lãnh đạo học và
chính sách công,
Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2412-quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-%E2%80%9Ccach-lanh-dao-va-van-dung-trong-lanh-dao-hien-nay.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét