Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018

ÂM MƯU ĐEN TỐI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI TA
Khánh Anh

Một là, xác định phi chính trị hóa quân đội là một trong 3 lĩnh vực cơ bản để hướng lái, chuyển hóa cách mạng Việt Nam.
Các thế lực thù địch công khai nhận định: muốn chuyển hóa Việt Nam, phải chuyển hóa trên ba lĩnh vực cơ bản. Trong đó phá vỡ nền tảng chính trị là then chốt; chống phá về kinh tế là biện pháp cơ bản, thường xuyên, lâu dài; phi chính trị hóa quân đội là nhiệm vụ trọng yếu. Đây là thủ đoạn rất xảo quyệt và cực kỳ nguy hiểm. Bởi lẽ, khi Quân đội bị phi chính trị hóa thì chắc chắn sẽ suy yếu, không còn khả năng ngăn chặn các cuộc tiến công cả từ bên trong và bên ngoài của các thế lực thù địch, không giữ vững được sự ổn định chính trị. Điều đó sẽ dẫn đến mất độc lập, tự chủ và thông qua “cách mạng hoa hồng”, “cách mạng đường phố”, các thế lực phản động sẽ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Rõ ràng mục đích là không đổi, nhưng thủ đoạn, cách thức thực hiện có những biểu hiện rất tinh vi, thâm độc.
Hai là, tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng cách mạng của quân đội bằng những luận cứ tưởng chừng như rất khách quan, khoa học.
Sinh thời, V.I.Lênin khẳng định: sự nghiệp cách mạng cần có Quân đội cách mạng, vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng bạo lực cách mạng và tổ chức Quân đội cách mạng là lực lượng nòng cốt của bạo lực cách mạng. V.I.Lênin yêu cầu Quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thành lập các chi bộ đảng trong mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, thực hiện chế độ chính ủy,… coi đó là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Hồng quân.
Trước những khó khăn của phong trào cách mạng, nhất là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, các thế lực thù địch tung hô đề cao tính khoa học của các luận thuyết tư sản, nhưng tuyên bố hết sức võ đoán rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, cáo chung, là bóng ma ám ảnh thế giới đương đại, không còn vai trò, ý nghĩa gì đối với xã hội. Do vậy, luận điểm Quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam là sai lầm; Quân đội phải đứng ngoài chính trị, phi chính trị.
Ba là, tập trung cổ súy cho luận điệu “quân đội phi giai cấp”; “Quân đội chuyên nghiệp, Quân đội nhà nghề”.
Họ tập trung luận giải “không cần phân biệt chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, không cần chính trị, chỉ cần tiền, cần vũ khí, do đó bỏ Đảng cũng được vì Quân đội không thuộc một thể chế chính trị, đảng phái nào...”.
Họ nhấn mạnh, Quân đội nên là lực lượng đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị của các đảng phái nhằm giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước; việc tổ chức ra quân đội chỉ là để bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Bởi thế, Quân đội phải trung lập, đứng ngoài chính trị, không cần đặt và chịu sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái nào…
Bốn là, tấn công gây tâm lý hoang mang, dao động, mất phương hướng trong đội ngũ cán bộ, chiến sỹ của quân đội.
Các thế lực thù địch cho rằng, trong điều kiện hiện nay chưa thể xóa bỏ được ngay nền tảng tư tưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam nên chúng tìm cách tác động làm cho cán bộ, chiến sĩ hoang mang, dao động, không xác định rõ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Chúng dùng mọi thủ đoạn để xuyên tạc đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam, làm cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội mất niềm tin, thấy đúng không kiên quyết bảo vệ, thấy sai không biết đấu tranh.
Lợi dụng đường lối đối ngoại của Việt Nam là mở rộng hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị, chúng cho rằng Quân đội không cần có đối tượng tác chiến, từ đó làm xuất hiện tư tưởng chủ quan, mất cảnh giác, rệu rã sức chiến đấu của Quân đội. Chúng ra sức khoét sâu, thổi phồng những hạn chế, yếu kém trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, gây phân tâm trong tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ.
Đặc biệt hiện nay chúng triệt để lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta để làm giảm niềm tin, gây mâu thuẫn giữa lãnh đạo, chỉ huy với cán bộ, chiến sĩ, phá hoại khối đoàn kết thống nhất nội bộ quân đội, kích động hình thành bè phái và các nhóm lợi ích trong nội bộ.
Năm là, tập trung phá hoại các nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Quân đội, xóa bỏ công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chúng cho rằng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận làm mục đích, lấy vật chất làm đòn bẩy tinh thần, nên công tác đảng, công tác chính trị không còn phát huy tác dụng. Vì vậy cần xóa bỏ công tác đảng, công tác chính trị; xóa bỏ hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội.
Cùng với đó, lợi dụng chiêu bài mở rộng dân chủ, chúng đưa ra yêu sách xây dựng “quân đội toàn dân”, “trả Quân đội về cho Nhà nước”, thực hiện Quân đội là của toàn dân, sự can dự vào chính trị sẽ phá hoại tính chuyên nghiệp của Quân đội.
Sáu là, bôi nhọ và xuyên tạc lịch sử, truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và các giá trị dân chủ phương Tây.
Thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, các thế lực thù địch còn tập trung chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc tính chính nghĩa của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; xuyên tạc sự kiện chiến tranh biên giới Tây Nam, quan hệ Việt-Trung, quan hệ Việt - Mỹ…; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang.

Với mục tiêu làm tha hóa quân đội ta, chúng ra sức truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thờ ơ lãnh đạm, không quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội… nhằm tạo khoảng trống về ý thức hệ, hòng làm phai nhạt bản chất cách mạng, tạo điều kiện cho hệ tư tưởng tư sản thẩm thấu vào đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Mỗi cán bộ, chiến sĩ QĐNDVN cần nêu cao cảnh giác để nhận diện và làm thất bại âm mưu đen tối đó của các thế lực thù địch.

Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018

Cuộc sống đời thường của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Cao Bằng
Mùa Xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.Người sống và hoạt động cách mạng tại Pác Bó (Cao Bằng), giữa núi rừng, hang đá lạnh lẽo, trong điều kiện sinh hoạt vô cùng kham khổ, thiếu thốn. Thời gian lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở Cao Bằng không dài nhưng cuộc sống đời thường của Người tại đây đã khắc sâu thêm cốt cách của vị lãnh tụ vĩ đại đã hiến cả đời mình cho dân tộc.

1. Cuộc sống đời thường kham khổ, tiết kiệm nhưng nề nếp, khoa học
Từ ngày 8-2-1941, Người bắt đầu sống và làm việc tại hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Người sống ở đây hơn mười ngày, trong điều kiện khắc nghiệt, đêm nồm, đá chảy mồ hôi, nước nhỏ giọt thấm qua chăn. Người bị mất ngủ nhưng không hề lộ chút nào mệt mỏi. Giặc lùng sục, Người lại di chuyển lên Lũng Lạn, chỗ ngủ không ván, không chiếu, chỉ có lá cây rừng trải xuống đất để nằm. Đồng chí Lê Quảng Ba kể lại trong hồi ký: “Sau những đêm vật lộn với mưa gió và sương lạnh, bọn thanh niên chúng tôi đã đau xương, mỏi lưng, ê ẩm khắp người. Người vẫn không phàn nàn nửa lời nhưng chắc Người đã phải chịu đựng vất vả hơn chúng tôi nhiều”(1). “Cơ quan ở cái hang sâu và kín đáo ở sườn núi mé trên, lên phải leo dốc đá vài chục thước. Cửa hang này nhỏ, luôn luôn ẩm ướt, phải bíu tay vào thành đá mới có thể chui được vào bên trong. Ngoài các cửa ra vào, nhỏ và tối, hang còn có một cửa lớn ở phía trên cao bị cây cối um tùm che khuất. Trong hang có những phiến đá to chỉ cần xếp ít cành rồi trải lá lên là có thể ngả lưng được. Chỉ ban đêm mới vào đây ngủ, còn ban ngày vẫn ra bờ suối, chỗ bãi cỏ nhỏ trong thung lũng để làm việc và thường cũng chỉ tiếp khách ở nơi này. Ở trong hang không khí ẩm thấp, nhất là ngày mưa, nước thường nhỏ giọt theo nhũ đá xuống nền lách tách không bao giờ ngớt”(2). Có đồng chí đề nghị làm mái để tránh mưa nhưng Người không đồng ý vì khi có động phải rời hang, giặc đến sẽ biết dấu vết để truy bắt. Mưa lớn, nước rỏ lênh láng vào cả chỗ nằm, Người chỉ lấy một cây que dài ghếch lên làm “máng” lựa đón giọt nước chảy ra chỗ khác. Ở Lũng Lạn được sáu ngày, cuối tháng 3-1941, do địch lùng sục, Người rời sang Khuổi Nậm, địa thế thuận tiện cho việc di chuyển mỗi khi bị lộ. Đây là nơi ở tương đối lâu dài và “sang” nhất của Người trong thời kỳ ở Pác Bó. Lán dựng ngay ở trên lòng con suối đang mùa khô, cây cối rất rậm rạp, ở ngoài nhìn vào khó nhận ra. Lán dựa vào một cây “mạ” làm cột cái, mái lán lợp bằng gianh; vách lán, chiếu nằm đều đan bằng lá đào rừng. Tháng 5-1942, Người rời Khuổi Nậm, về các huyện Hòa An, Nguyên Bình. Mấy tháng sau, Người lại quay về Pác Bó, tiếp tục ở Khuổi Nậm và di chuyển nhiều nơi khác.
Bữa ăn của Người rất kham khổ, ngày chỉ có hai bữa, món ăn chính là cháo bẹ, rau măng, rau rừng, cơm độn bắp; nước lá ổi thay chè. Thỉnh thoảng Người câu được con cá hay anh em mua được cân thịt lại đem kho thật mặn làm “món ăn chiến lược” để ăn dần- 1kg thịt, 1kg muối, 1 nửa kg ớt xào lên cho vào ống, đi đến đâu dùng cũng tiện.Người thường căn dặn anh em chú ý tiết kiệm, ăn uống tuyệt đối không được để thừa hoặc đổ đi. Đồng chí nào mang quà về hoặc có quà của quần chúng gửi cho, nếu có nhiều thì phải tính giảm bớt gạo. Mỗi bữa cơm, Ngườichỉ ăn hai bát đầy bằng miệng vì cơ quan ở bí mật, gặp nhiều khó khăn. Để ăn mừng Ngườidịch xong cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô, bữa cơm cũng chỉ có thêm ít rau rừng và ít thịt.
Cuộc sống thiếu thốn, kham khổ lại di chuyển nhiều nơi nhưng Người luôn có ý thức rèn luyện sức khỏe. Dù trời ấm áp hay mưa lạnh đến đâu, Người đều dậy sớmleo núi, đi quyền rồi xuống suối tắm. Ngườichọn những quả núi cao nhất quanh vùng để leo lên với bàn chân không. Việc leo núi của Người không chỉ nhằm mục đích tập luyện mà còn để tìm hiểu địa hình để ứng phó linh hoạt nhất khi quân thù bất ngờ ập đến. Nhiều đồng chí đề nghị Người đigiày cho khỏi đau chân. Ngườitrả lời: Tôi tập leo núi chân không cho quen vì con đường cách mạng chông gai lắm. Sau giờ tập, Người thườngtắm nước lạnh để luyện chịu đựng giá rét. Để luyện bàn tay, Ngườibóp tay vào hai hòn đá tròn và nhẵn như quả trứng gà. Sống cạnh Người, ai tinh ý lắm mới biết được mỗi khi mỏi mệt là Người đứng dậy đi đi lại lại hoặc làm một việc gì đó, trừ trường hợp không đi lại được nữa, Người mới chịu nằm nghỉ. Có lần bị sốt rét, người gầy đi nhiều, nhưng Người cũng không chịu nghỉ, vẫn kiên trì leo núi cho mồ hôi vã ra.
Người làm việc có kế hoạch và cần mẫn với một nghị lực phi thường. Ngay hôm đầu tiên về nước, Người đã bắt tay ngay vào công việc. Thấy Người làm việc có nề nếp, quy củ, anh em cứ ngỡ như Người đã từng ở đây từ rất lâu. Về Pác Bó được ít ngày, Người đã hoàn thành một công việc có ý nghĩa lịch sử trọng đại là chuẩn bị các điều kiện cho Hội nghị Trung ương.Thỉnh thoảng mua được một tờ báo, Người tranh thủ xem rất kỹ, những chỗ quan trọng bao giờ Người cũng gạch dưới và đánh dấu cẩn thận. Người viết nhiều bài cho báo Việt Nam độc lập bằng văn vần dễ thuộc, dễ nhớ, để tuyên truyền đường lối cách mạng trong quần chúng. Tuy công việc bề bộn, ngổn ngang, nhưng giờ nào việc ấy, rất có trật tự. Những thứ giá trị như máy chữ, đá in và tài liệu sách báo bí mật đều được sắp đặt gọn gàng, ngăn nắp. Sau mỗi buổi làm việc, Người xếp máy chữ vào một túi riêng, tài liệu thì bỏ thùng sắt đậy lại cẩn thận. Thời gian ở Pác Pó, Người thường mặc bộ quần áo Nùng màu chàm, đi giầy vải chẳng khác gì một ông cụ người địa phương. Người ở Pác Bó hơn một năm, nhưng bà con trong thôn xóm chỉ biết đó là cán bộ cách mạng tên Sáu Sán. Người thường hỏi han công việc của mỗi người trong ngày. Ai chưa có việc, Người cắt đặt cho. Người thường nhắc nhở mọi người: nhàn cư vi bất thiện, muốn ai cũng có việc làm dù là những việc lớn như xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào hay chỉ là việc nhỏ như vá quần áo. Ở bên Người, mỗi cán bộ cách mạng lại thấy mình trưởng thành hơn. Tư tưởng, tình cảm bao la của Người tỏa chiếu thấm đượm, chan hòa, làm ấm lòng đồng chí, đồng bào, tiếp thêm sức mạnh lớn lao để vượt qua những khó khăn, thử thách trong những bước đường hoạt động cách mạng, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
2. Tinh thần lạc quan cách mạng, gần gũi với thiên nhiên, yêu lao động, yêu đồng bào, đồng chí
Ở lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luôn ngời sáng tinh thần lạc quan cách mạng. Có thể nói không một giây phút hiểm nguy, gian khó nào làm mất đi ở Người tình yêu cuộc sống, yêu lao động, yêu con người và thiên nhiên.
Dù thường xuyên phải di chuyển nhưng ở đâu Người cũng nhắc mọi người phải tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống và bao giờ cũng tự mình làm trước. Thời kỳ ở Pác Bó không dài nhưng một vườn rau nho nhỏ đã bén rễ, có cả cà chua và ớt. Ở Khuổi Nậm, Người trồng vườn rau cải, nuôi một đàn gà. Cơ quan chuyển đi, Người vẫn nhắc trồng rau cải cho các đồng chí ở lại và cán bộ bí mật qua, nấu ăn đỡ đói. Người lo lắng, thương yêu đồng chí, đồng bào từ những điều nhỏ nhất cũng nghĩ rất xa.
Cuộc sống tuy kham khổ, thiếu thốn nhưng Người vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” đã thể hiện rõ diều đó:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Cho dù không bao giờ tự nhận mình là nhà thơ nhưng những sáng tác của Người cũng chính là sự thể hiện rõ nét tình yêu thiên nhiên trong trái tim người nghệ sĩ - chiến sĩ cách mạng, một người luôn ung dung, tự tại, luôn nắm vững quy luật vận động phát triển của cuộc sống, chủ động và lạc quan trong mọi hoàn cảnh.                                                                                                                                                                                             
Cuộc sống trong núi rừng, hang đá lạnh lẽo nhưng luôn có hơi ấm tình thương của Người.Người thường nói: “Chúng ta ở rất bí mật nhưng đó là bí mật với tụi tổng đoàn, với bọn mật thám, bọn Tây, bọn thống trị chứ không bí mật với nhân dân”. Tết đến, Người dặn dò cán bộ địa phương phải bố trí bảo vệ chu đáo cho dân làng ăn tết. Người bảo mua giấy đỏ về làm phong bao, trong gói một đồng xu, ngoài đề “chúc mừng năm mới”. Mọi người đến chúc Tết đều được Người tặng một phong bao. Người tặng cho em Nông Thị Trưng, cán bộ mới thoát ly, phải xa nhà cái Tết đầu tiên chiếc khăn mùi xoa có hoa đỏ và một chiếc còng gà luộc. Người hiểu thấu phong tục người Tày rất quý trẻ con, mổ gà bao giờ cũng để phần cho trẻ còng gà. Người chu đáo với nhân dân dù là việc nhỏ. Có lần ra suối sáng sớm, trên đường quay về lán, Người phải trèo qua một cái loỏng đã được cọ rửa sạch úp bên bờ ruộng, cái loỏng chông chênh, Người vừa bước qua thì đổ ụp xuống ruộng. Cái loỏng nặng, gần đấy không có ai để nhờ giúp nhưng Người không bỏ đi mà rửa sạch, cố hết sức úp lại như cũ. Tại hang Kéo Quảng, nghe cán bộ báo cáo về bệnh đậu mùa đang hoành hành ở địa phương, Người giới thiệu một bài thuốc và dặn nhớ phổ biến cho dân biết để chữa bệnh. Hàng ngày nếu không bận họp hay nghiên cứu, viết bài, Người xuống làng hỏi thăm đồng bào, vào rừng lấy củi, hái rau, vun trồng khoai sắn, xuống suối xách nước tưới cây với anh em. Người trò chuyện với mọi người, hỏi chuyện làng xóm, gia đình, để nắm được tình cảm, nguyện vọng của bà con và thực tế cơ sở. Sự quan tâm thăm hỏi, cử chỉ thân mật của Người gây được cảm tình với đồng bào. Đồng bào đều nhớ ông Sáu Sán, nhớ đồng chí già có vầng trán cao, cặp mắt sáng, râu dài, rất hiền từ và trung hậu, được nhân dân các dân tộc kính yêu. Cao Bằng từ ngày có Người về, mỗi cán bộ cách mạng và đồng bào các dân tộc cảm nhận rõ tình cảm mến thương, niềm tin yêu, sự quan tâmchăm lo của Người.
Người sống gần gũi và không bao giờ muốn mình làm ảnh hưởng đến người khác.Các đồng chí mua gạo nấu riêng cho Người nhưng Người không đồng ý. Có món ăn ngon, Người không quên những anh em vắng nhà, dặn rang mặn gửi cho người đi công tác. Ban đêm, quanh khu vực Người ở có nhân dân bảo vệ, có tự vệ tuần tra nhưng các đồng chí vẫn thay nhau gác. Các đồng chí không để Người gác nhưng Người yêu cầu phải làm lịch gác, cứ theo lịch lần lượt thay nhau. Có lần Người mệt, mọi người bàn nhau không để Người gác nữa, dặn trước khi thay phiên giữ thật im lặng, nhưng cách đó không đạt kết quả, ra gác một lúc, giơ tay đập muỗi đã chạm phải Người ở sau lưng, có lần vừa ra tới vọng gác đã thấy Người ngồi đó rồi.“Từ trang phục đến lời nói, việc làm. Lúc thổi cơm, ngồi câu cá, khi tắm suối, ngủ rừng... Người hoà hợp với tất cả mọi người. Không thấy một nét gì khác lạ, cách biệt, ở một người vốn là đại diện của quốc tế cộng sản, từng dự Đại hội Tua, từng tiếp xúc với nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng trên thế giới...”(3). Đêm xuống, anh em thường quây quanh bếp lửa nghe Người nói chuyện thời sự và kinh nghiệm hoạt động cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về với thế giới người hiền gần 50 năm, nhưng tinh thần lạc quan cách mạng, gần gũi với thiên nhiên, yêu lao động, yêu đồng bào, đồng chí của Người mãi mãi là nguồn cổ vũ cho toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức, vượt qua những ham muốn vật chất, những cám dỗ trong cuộc sống, khắc phục cho được chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, những biểu hiện “tự suy thoái”, “tự chuyển hóa” để xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
___________________
(1) Đỗ Hoàng Linh: Hồ Chí Minh, Hành trình 79 mùa xuân, Nxb Hồng Bàng, tr.120
(2) Đỗ Hoàng Linh: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh giai đoạn 1941-1945, Nxb Hồng Bàng, tr.24
(3) Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Người Hồ soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990, tr. 47- 48

Nguyễn Thị Thu Hằng
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/2381-cuoc-song-doi-thuong-cua-lanh-tu-nguyen-ai-quoc-tai-cao-bang.html


Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2018

“Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc” - một luận điểm xuyên tạc trắng trợn, lố bịch của những kẻ thù địch, cơ hội
Cả nước bước vào năm 2018 với tâm thế tự tin và phấn khởi trước những thành tựu đạt được trong năm 2017 và đón chào ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Song, như thường lệ, cứ vào dịp này, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị lại gióng lên hồi chuông hùa nhau chống phá Đảng ta một cách trơ trẽn, lố bịch. Một trong những luận điệu cũ rích mà họ đưa ra là: “Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc”.
Họ xuyên tạc rằng, ngay từ khi thành lập, Đảng đã coi lợi ích giai cấp trên lợi ích dân tộc và thậm chí, đặt lợi ích của mình cao hơn lợi ích dân tộc; chỉ chú ý củng cố quyền lực của giai cấp, thao túng, bao che cho “các nhóm lợi ích” làm giàu, bất chấp nhân dân nghèo đói, đất nước tụt hậu(!) Với lập luận đó, mưu đồ của họ là làm mất uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, với dân tộc!
Sự xuyên tạc của luận điệu này bị chính thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng bác bỏ. Bởi, ngay từ đầu và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của dân tộc gắn liền với lợi ích giai cấp. Điều đó xuất phát từ quan điểm: cách mạng Việt Nam gắn liền và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Thực tế lịch sử cho thấy, vấn đề lớn nhất của nhân dân ta trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là làm sao giải phóng được dân tộc khỏi áp bức, thống trị của thực dân, phong kiến, để đất nước độc lập, nhân dân được tự do. Để trả lời câu hỏi ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra, nhiều chí sĩ cách mạng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, nhưng đều thất bại. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, với ý thức dân tộc mạnh mẽ đã làm tất cả để tìm ra câu trả lời cho dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Khát vọng cao cả, ước mơ cháy bỏng của Nguyễn Ái Quốc: dân tộc được giải phóng, được làm chủ; Tổ quốc được độc lập, thống nhất, giàu mạnh; nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và đó cũng là động lực, là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Để đi đến mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, từ buổi đầu tìm đường cứu nước và trong mỗi giai đoạn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đều nhìn nhận đúng vấn đề dân tộc và giải quyết hài hòa quan hệ giai cấp - dân tộc. Trong khi Quốc tế Cộng sản (do yêu cầu của châu Âu lúc đó) chỉ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, thì Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi, “nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”2. Chính vì vậy, trong “Chánh cương vắn tắt”, Người chủ trương:“Tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh, để đi tới xã hội cộng sản3. Tư tưởng đúng đắn, phù hợp đó được cụ thể hóa thành đường lối của Đảng, lập tức thu hút và tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân; đồng thời, khắc phục triệt để xu hướng dân tộc cải lương tư sản cũng như chủ nghĩa phiêu lưu tiểu tư sản (đang là trào lưu chính lúc đó), bảo đảm cho cách mạng phát triển và vượt qua những thách thức thời kỳ Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), vận động dân chủ (1936 -1939), cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945).
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03-02-1930), trên thế giới đã có các cuộc cách mạng của giai cấp công nhân giành được chính quyền, trong đó điển hình là Cách mạng Tháng Mười Nga (07-11-1917) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đứng đầu là V.I. Lê-nin. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là cuộc vùng dậy giành chính quyền với sức mạnh to lớn của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là thành quả vĩ đại của sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; thành quả của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của tinh thần: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Thắng lợi đó, trước hết là nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có đường lối đúng, nắm bắt và triệt để tận dụng thời cơ chín muồi; đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết, nên đã động viên, tập hợp được lực lượng cho cách mạng. Sức mạnh của đoàn kết dân tộc cũng là nhân tố bảo đảm cho chính quyền cách mạng non trẻ đứng vững trước “thù trong, giặc ngoài”, trong bối cảnh tình thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược là cuộc đụng đầu lịch sử, lâu dài, khó khăn và vĩ đại nhất của dân tộc ta với những tên đế quốc sừng sỏ nhất. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”4, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”5, nhân dân cả nước và kiều bào nước ngoài, “không phân biệt tôn giáo, đảng phái”, đã đoàn kết muôn người như một, phát huy cao độ truyền thống của dân tộc, chiến đấu, hy sinh, chiến thắng vẻ vang quân xâm lược, thu giang sơn về một mối. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước gặp những khó khăn mới, bị bao vây cấm vận từ mọi phía. Cả dân tộc lại cùng với Đảng gồng mình vượt qua “thiếu thốn trăm bề”, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc. Kết quả đó là nhờ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, luôn đặt “độc lập, tự do” của dân tộc lên trên hết, quy tụ và lãnh đạo toàn dân chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhận thức rõ trách nhiệm trước dân tộc, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới và coi đó là “vấn đề sống còn” của đất nước, dân tộc. Để đổi mới thực sự vì lợi ích của nhân dân, phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, Đảng đã “nhận thức lại” một số vấn đề về lý luận, nhất là những nội dung giáo điều, xơ cứng. Trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương đẩy mạnh thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường hội nhập quốc tế, coi trọng phát triển kinh tế tư nhân,…; đồng thời, phê phán những tư duy rập khuôn, máy móc, cản trở sức sáng tạo của nhân dân. “Ý Đảng hợp lòng dân”, Đảng ta vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua khó khăn, thử thách, đưa đất nước ngày càng phát triển. Sự nghiệp đổi mới xét về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc, vì nó bắt nguồn từ lợi ích dân tộc, quyền lợi của quần chúng và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến từ cơ sở, từ cuộc sống được tổng kết thành đường lối đổi mới của Đảng nên phù hợp với nhu cầu thực tiễn, được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo. Nhờ đó, công cuộc đổi mới đã giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm năng của đất nước, khơi dậy được nhân tài, vật lực cho công cuộc phát triển.
Những năm qua, trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, nhưng kinh tế nước ta vẫn giữ mức tăng trưởng ổn định. Đặc biệt, năm 2017, trong điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, thiên tai khắc nghiệt, nhưng nước ta đều đạt và vượt 13 chỉ tiêu kế hoạch đề ra; trong đó, tăng trưởng GDP đạt 6,81%, là mức cao so với khu vực và thế giới. Việt Nam được đánh giá kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đạt cao; là điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế và thu hút đầu tư. Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia khởi nghiệp mạnh mẽ; có trên 50% dân số (50 triệu người) dùng in-tơ-nét, luôn bắt kịp với sự phát triển của công nghệ thông tin thế giới. Cùng với kinh tế - xã hội, lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối ngoại cũng đạt được nhiều thành tựu. Sức mạnh quốc phòng được tăng cường đáng kể, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ý thức rõ vai trò của một đảng cầm quyền và trọng trách trước dân tộc, nhân dân, nên luôn coi trọng “tự chỉnh đốn”, “tự soi, tự sửa”. Trước tình hình một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham nhũng, hối lộ, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng trong công tác cán bộ và quản lý kinh tế,... Đảng ta đã nhấn mạnh: bất cứ ai, ở cương vị nào mà vi phạm kỷ luật đều phải xử lý nghiêm, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Quán triệt quyết tâm của Đảng, thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả cụ thể, tích cực. Các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp đã được xử lý rất kiên quyết, nghiêm minh, theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kể cả đối với cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, cán bộ đương chức và cán bộ đã nghỉ hưu. Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ tập trung kiểm tra, thanh tra, kết luận các sai phạm và quyết định kỷ luật hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét kỷ luật nghiêm đối với nhiều tổ chức, cá nhân để xảy ra sai phạm. Riêng ngành Thanh tra đã triển khai hơn 6.800 cuộc thanh tra hành chính, gần 260.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 219 vụ, 481 bị can; Tòa án Nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 205 vụ, 433 bị cáo về các tội tham nhũng, v.v. Kết quả nêu trên đã thể hiện quyết tâm của Đảng trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Gần chín thập kỷ đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn phấn đấu vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, đưa đất nước không ngừng phát triển. Thực tiễn đó là minh chứng thuyết phục nhất phản bác luận điệu “Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc”. Luận điệu đó của những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” là sự xuyên tạc trắng trợn, trơ trẽn và lố bịch.
VINH HIỂN
_______________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 9.
2 - Sđd, tr. 513.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 2.
4 - Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 196.
5 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 15, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 131.

Nguồn: http://tapchiqptd.vn/vi/lam-that-bai-chien-luoc-dbhb/dang-dat-loi-ich-giai-cap-len-tren-loi-ich-dan-toc-mot-luan-diem-xuyen-tac-trang-tron-lo-b/11223.html
Cấn Thị Thêu: Người đàn bà “mặt dày, lưỡi cong”
Cấn Thị Thêu – một trong số những nhân vật bị xử lý hình sự về tội chống người thi hành công vụ, sau khi ra tù lại tiếp tục có hành vi chống đối và xuyên tạc trắng trợn nhằm đánh bóng tên tuổi của mình. Sau đó thị tiếp tục bị bắt giam, tuyên phạt 20 tháng tù. Ngày 10/2/2018, thị đã chấp hành xong hình phạt trở về địa phương.
Cấn Thị Thêu, người đàn bà quỷ quyệt, gian ngoan luôn dùng miệng lưỡi để chống đối và đánh lừa nhân thế. Phải chăng, chị sinh ra đã là con người của sự lừa lọc, gian manh và xảo trá. Một thông tin mà chị đưa ra, trong thời gian chấp hành án Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung (Giám đốc Công an TP Hà Nội) và ông Vương Tiến Dũng (Trưởng Công an Quận Hà Đông) thường xuyên đến gặp Thị để trao đổi về việc chị sẽ không chống đối nữa thì sẽ nhận được một khoản tiền là “100 tỷ đồng, một số lô đất, bố trí công việc cho 3 con chị”. Thật trò bỉ ổi và vô liêm sỉ của những kẻ chuyên dùng lưỡi để sống, để lừa lọc và để kiếm tiền.
Lật lại vụ án của Cấn Thị Thêu
Ngày 19/9/2014, Tòa án nhân dân quận Hà Đông (Hà Nội) đã mở phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm đối với 3 bị cáo: Trịnh Bá Khiêm (sinh năm 1958, trú tại tổ Trung Bình, phường Dương Nội, quận Hà Đông, Hà Nội); Cấn Thị Thêu (sinh năm 1962, là vợ bị cáo Khiêm); Lê Văn Thanh (sinh năm 1965, trú tại tổ Quyết Tiến, phường Dương Nội, quận Hà Đông) về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 257, khoản 1 – Bộ luật hình sự.
Theo cáo trạng, thực hiện kế hoạch 101/KH – UBND ngày 23/4/2014 của UBND quận Hà Đông về việc bảo vệ thi công phần diện tích phía Tây đường Lê Trọng Tấn, thuộc khu B dự án đô thị mới Lê Trọng Tấn – Geleximco, hồi 8h15′ ngày 25/4/2014, UBND phường Dương Nội chủ trì, cùng với các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện bảo vệ thi công, giải tỏa mặt bằng để các đơn vị chủ đầu tư thi công thực hiện dự án xây dựng khu đô thị mới nêu trên.
Sau khi Chủ tịch UBND phường Dương Nội dùng loa thông báo nội dung kế hoạch bảo vệ thi công và yêu cầu những người không có nhiệm vụ đang tụ tập tại vị trí thi công rời khỏi khu bảo vệ, một số đối tượng đã có hành vi chống đối không chấp hành yêu cầu. Phần lớn số đó là những đối tượng không chấp hành Quyết định thu hồi đất để giải phóng mặt bằng, nhiều lần có đơn khiếu nại đến nhiều nơi, nhiều cấp về việc này.
Mặc dù các đơn khiếu nại đã được UBND quận Hà Đông, UBND thành phố Hà Nội, Thanh tra Chính phủ trả lời, nhưng những đối tượng này vẫn cố tình chống đối, cản trở tiến độ thi công của dự án. Trong số này có vợ chồng Trịnh Bá Khiêm – Cấn Thị Thêu và Lê Văn Thanh.
Tại buổi bảo vệ thi công, giải tỏa mặt bằng sáng 25/4/2014, Trịnh Bá Khiêm đã cầm can nhựa loại 5 lít màu trắng có chứa chất lỏng màu xanh (về sau được xác định là có dấu vết của xăng), tay kia cầm bật lửa đứng chặn ngay lối vào khu vực bảo vệ thi công, thách thức lực lượng làm nhiệm vụ. Khiêm mở nắp can ném về phía anh Võ Quốc Trung (là cán bộ thanh tra xây dựng phường Dương Nội) và lực lượng đang làm nhiệm vụ bảo vệ thi công. Khi Khiêm bị ngăn cản không cho bật lửa thì Lê Văn Thanh xông tới, bốc đất, cát ném vào người anh Võ Quốc Trung và lực lượng chức năng. Khiêm và Thanh đã bị bắt giữ sau đó để lực lượng bảo vệ thi công tiếp tục thực thi nhiệm vụ.
Tại khu vực bảo vệ thi công có căn chòi bằng tre, nứa (cao hơn 5m, dựng trái phép), Cấn Thị Thêu và Trần Văn Tuyên đã đến đó từ sớm và đang ghi hình các hoạt động của lực lượng bảo vệ thi công. Khi được vận động rời khỏi khu vực bảo vệ, Tuyên đã chấp hành, còn Thêu vẫn tiếp tục dùng máy quay ghi hình, không rời khỏi chòi và có lời lẽ xúc phạm lực lượng bảo vệ thi công. Do đó, anh Lê Xuân Bính (cán bộ Công an phường Dương Nội), anh Nguyễn Xuân Xương (Phó Ban bảo vệ dân phố) và anh Nguyễn Văn Ngọc (thành viên Ban bảo vệ dân phố) được cử lên chòi yêu cầu Cấn Thị Thêu xuống, nhưng Thêu quyết liệt chống đối, dùng tay cào vào cổ, ngực và giằng đứt cúc áo anh Bính nên đã bị bắt giữ.
Đối với hành vi của Trần Văn Tuyên, sau khi được lực lượng bảo vệ thi công thuyết phục, nhắc nhở, Tuyên đã tự rời khỏi chòi để lực lượng bảo vệ thi công thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, cơ quan chức năng xác định hành vi của Tuyên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, Khiêm và Thanh đã thành khẩn khai nhận tội, đồng thời nhận thức được những sai phạm do hành vi của mình gây ra. Riêng Thêu không khai nhận có hành vi, lời nói chống đối lại lực lượng bảo vệ thi công. Tuy nhiên, căn cứ vào các tình tiết diễn ra tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ sơ vụ án… Hội đồng xét xử xác định có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thêu phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Hội đồng xét xử nhận định, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, xét các bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, Hội đồng xét xử đã cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo và tuyên phạt: Bị cáo Trịnh Bá Khiêm lĩnh án 18 tháng tù giam, Cấn Thị Thêu bị phạt 15 tháng tù giam, bị cáo Lê Văn Thanh bị phạt 12 tháng tù giam.
Người đàn bà gian manh
Với vụ án quá rõ ràng và sự “cứng họng” của Thị tại Tòa án quân Hà Đông thì có lý do gì để Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung và ông Vương Tiến Dũng phải đến nhiều lần để thỏa hiệp với một tên tội phạm bị trừng trị bởi pháp luật. Mặt khác, sau khi Thị ra tù từ ngày 25/7/2015 thì việc mà Thị cho rằng họ sợ phải trao đổi với Thị là gì ? và Thị đã làm được gì để minh chứng rằng, việc đó quan trọng đến mức họ phải bỏ ra 100 tỷ, cùng một số lô đất cho Thị chọn cùng với việc sẽ bố trí công việc cho con Thị ?
Quả thật, những người chuyên dùng lưỡi để sống thì phải có tài, có khiếu nói, nói làm sao để cho người khác còn nghe, nói còn phải để cho con kiến trong lỗ cũng bò ra thì người ta với khâm phục. Đẳng này, Thị cũng dùng lưỡi nhưng sao cái lưỡi nó dày và khúc khủy quá nên đến trẻ mẫu giáo cũng phải buồn cười.
Cấn Thị Thêu định thanh minh cái gì ? hay định thanh minh với bà con, chú bác nhà Thị ở Dương Nội rằng thị trong sạch? Thị không đi lừa mọi người vướng vào vòng lao lý để nhận tiền trợ cấp từ hải ngoại ? Trong phiên tòa, Lê Văn Thanh và Trịnh Bá Khiêm cúi đầu nhận tội và thành khẩn khai báo còn Thị thì sao ? Trong tù, Thị giở hết chiêu này, trò nọ để tạo cớ mong muốn được tha tù trước thời hạn thì thử hỏi, nếu có sự thỏa thuận trên thì sao Thị không yêu cầu trả tự do cho Thị ? Sao thị không yêu cầu buộc phải tuyên lại bản án là Thị vô tội ? để lấy lại danh dự và chứng minh cho thế giới biết là Việt Nam bắt dân oan, bỏ tù dân oan ? nếu như Thị thực sự không cần tiền.
Những câu hỏi trên có lẽ đã đủ để chứng minh miệng lưỡi của Cấn Thị Thêu dày đến mức nào và có lẽ nó có độ dày tương ứng với khuôn mặt của Thị. Cha ông ta vẫn từng nói “gái đĩ già mồm” quả là không ngoa chút nào với Cấn Thị Thêu. Hành vi của Cấn Thị Thêu sau khi ra tù vẫn chứng nào, tật ấy tiếp tục kiếm tiền từ việc kích động người dân khiếu kiện.
Cấn Thị Thêu bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp máu mủ ruột già sẵn sàng đưa cô, gì, chú, bác, cháu trong họ tộc mình đi tù miễn là có tiền. Bản chất này bộc lộ ra khi Cấn Thị Thêu tiếp tục nâng cấp hội dân oan Dương Nội lên thành Hội dân oan 3 miền nhằm tăng thu nhập thông qua những vụ biểu tình thuê. Ngày 25/7/2015, Cấn Thị Thêu mãn hạn tù trở về và tiếp tục quay trở lại thống lĩnh Hội dân oan Dương Nội và sau khi có sự hỗ trợ của hai bà già Trần Thị Hài ( 61 tuổi) và Trương Thị Quang (69 tuổi) đã tuyên bố thành lập Hội dân oan 3 miền vào ngày 10/6/2015.
Đây là trò kiếm tiền của Cấn Thị Thêu, Trần Thị Hài và Trương Thị Quang thông qua hai hình thức: kêu gọi lòng hảo tâm và nguồn chủ yếu viện trợ từ hải ngoại của Việt Tân. Đối với việc kêu gọi lòng hảo tâm thì chắc cũng chẳng được bao nhiêu nhưng đối với nguồn viện trợ từ Việt Tân họ sẽ chi trả theo vụ việc. Mỗi lần biểu tình, có hình ảnh, video sẽ được tính theo đầu người tham gia và có mức chi thỏa đáng cho kẻ cầm đầu. Hình thức chi tiền này của Việt Tân cũng giống như trả tiền nhuận bút cho một số cây viết phản động, tuyên truyền chống đối.
Nếu Cấn Thị Thêu không có khả năng viết lách như Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải,… thì Cấn Thị Thêu lại được trời phú cho cái mồm rộng và cái lưỡi dày. Tuy nhiên, cũng như các ngòi bút trên việc sử dụng bút không đúng, luôn bẻ cong nên đã phải nhận những bản án thích đáng còn Thị việc sử dụng cái miệng, cái lưỡi không phù hợp, đúng chỗ nên bản án với Thị cũng là điều dễ hiểu.
Theo TTCPĐ

Nguồn: http://ngheanthoibao.com/can-thi-theu-nguoi-dan-ba-mat-day-luoi-cong/

Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH
VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI HIỆN NAY
Trần Trí Nam
Trong những năm gần đây, lợi dung xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là trước những khó khăn, thách thức nảy sinh do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng với những diễn biến phức tạp trong đời sống quan hệ quốc tế, các thế lực thù địch liên tục tăng cường đẩy mạnh các thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hòa bình", đặc biệt tung ra những luận điệu sai trái để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thực tế cho thấy, cứ vào những dịp Việt Nam có sự kiện chính trị - xã hội lớn, thì tình trạng phát tán những thông tin với các luận điệu xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, cá nhân các đồng chí lãnh đạo, chế độ xã hội... lại được thực hiện một cách dồn dập trên Internet, các trang mạng xã hội, các Đài phát thanh, báo, tạp chí... có trụ sở từ bên ngoài. Có thể nhận thấy một số xu hướng biểu hiện chính mà những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch tập trung chống phá cách mạng Việt Nam như sau:
Một là, tung ra những thông tin và quan điểm sai trái phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; Gây mâu thuẫn nội bộ, vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Kêu gọi thay đổi chế độ chính trị, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Kêu gọi biểu tình gây áp lực đối với Đảng, Nhà nước; Âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và đòi phi chính trị hóa quân đội...
Hai là, dùng các trang mạng xã hội và blog làm "nóng" các vấn đề trong nước để tuyên truyền, chống phá Cương lĩnh, đường lối của Đảng và kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xuyên tạc, tung tin thất thiệt gây chia rẽ nội bộ;
Ba là, lợi dụng tình hình phức tạp trong đời sống quốc tế hiện nay, nhất là việc Trung Quốc hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và đang bồi lấp xây đảo nhân tạo ở khu vực Biển Đông, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh tuyên truyền bôi nhọ, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chúng kêu gọi biểu tình, bề ngoài thể hiện lòng yêu nước nhưng thực chất là lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc đường lối đối ngoại và chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc giải quyết tình hình căng thẳng trên Biển Đông và các vấn đề quốc tế hiện nay.
Bốn là, lợi dụng chiêu bài "Dân chủ", "Nhân quyền", "Tôn giáo" để vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, gây sức ép về chính trị và kinh tế, gắn vấn đề "Dân chủ", "Nhân quyền" với các điều kiện về hợp tác kinh tế; Tìm cách tác động, kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế gia tăng sức ép với Việt Nam... nhằm gây chú ý của dư luận, tạo áp lực với Đảng, Nhà nước ta; Nhào nặn, lan truyền những thông tin thất thiệt, gây tâm lý bi quan, hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta; Làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từng bước hướng Việt Nam theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Năm là, triệt để lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội, những vấn đề "nóng", "bức xúc" trong xã hội như chống tham nhũng, tiêu cực,… để xuyên tạc, bóp méo, lấy hiện tượng quy thành bản chất nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Sáu là, sử dụng chiêu bài đòi tự do lập hội để đẩy mạnh tuyên truyền, tập hợp lực lượng, thành lập các hội, nhóm bất hợp pháp (Ví dụ: "Văn đoàn độc lập Việt Nam", "Hội nhà báo độc lập Việt Nam"...) dưới vỏ bọc các tổ chức "Xã hội dân sự", "Diễn đàn dân chủ"; Liên kết thực hiện các hoạt động "đấu tranh cho nhân quyền"; Nhằm tập hợp, thu hút thành viên tham gia để gia tăng hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Bẩy là, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, định hướng thông tin ở một số cơ quan báo chí để xảy ra tình trạng một số bài viết phản ánh về các vụ việc phức tạp, nhạy cảm sai sự thật, thiếu khách quan; cá biệt một số tờ báo có những bài viết "giật tít" câu khách; tần suất, số lượng bài viết về các mặt trái, tiêu cực xã hội quá nhiều, nhất là trên một số báo điện tử, để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta[1].
Để phát tán các luận điệu sai trái này, các thế lực thù địch phân loại đối tượng để có cách thâm nhập tương thích theo lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tôn giáo... Chúng đặc biệt chú trọng khai thác những kẻ cơ hội, bất mãn, khủng hoảng niềm tin, kể cả những người đang chán nản vì gặp trắc trở trong cuộc sống. Điểm cần lưu ý là, ở bất kỳ trường hợp nào, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cũng diễn ra rất bài bản, tinh vi, xảo quyệt, với các chiêu thức tưởng chừng vô hại song vô cùng nham hiểm, gây ra những tác hại không nhỏ đối với đời sống xã hội. Do đó, đấu tranh chống những luận điệu sai trái hiện nay, là một trong những nhiệm vụ chính trị sống còn, thường xuyên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, việc đấu tranh chống những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch cũng đã được các cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, truyền thông... đặc biệt là sự tham gia đông đảo, mạnh mẽ và quyết liệt của các cơ quan báo chí, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhất là trong lực lượng vũ trang. Điều này, đã có những tác động tích cực, phát huy tác dụng, góp phần nâng cao nhận thức cho nhân dân về bản chất, thủ đoạn, quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, các bài viết phản bác về những luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc thường chỉ xuất hiện khi các thế lực thù địch công khai tấn công, chống phá, mà chưa thực sự được tiến hành thường xuyên, rộng khắp. Nội dung nhiều bài phản bác có chất lượng chưa cao, chưa sâu sắc; có những cơ quan báo chí ít thấy có tin bài; Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và các lực lượng chưa thực sự nhịp nhàng, hiệu quả... Vì vậy, đấu tranh với những luận điệu sai trái, phản động là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng rất cam go, phức tạp, khó khăn, và có ý nghĩa rất quan trọng đến sự thành công trong phòng, chống chiến lược "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả đấu tranh, nhằm ngăn chặn, vô hiệu hóa những âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, nên chăng chúng ta cần phải tập trung thực hiện tốt một số giải pháp như sau:
Một là, các cơ quan chức năng của Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan báo chí cần chủ động cung cấp kịp thời, chính xác những kiến thức, định hướng để mọi người có thể tự sàng lọc, nắm bắt những thông tin chính thống, đáng tin cậy, loại bỏ những thông tin xấu, độc hại, sai trái. Qua đó, giúp người dân nhận thức một cách đúng đắn, thấy rõ bản chất của vấn đề, để từ đó có một cơ chế tự phòng vệ, tạo được hệ miễn dịch, không bị sa đà, vấp ngã trước những thông tin sai trái, độc hại, phản động.
Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền những thành quả trên mọi lĩnh vực mà sự nghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng trên 30 năm qua đã đạt được. Đây là cơ sở thực tế vững chắc nhằm chống lại những luận điệu xuyên tạc, thù địch, sai trái. Hiệu ứng thông qua những thông tin về kết quả đạt được của nhân dân ta không những phản bác có hiệu quả đối với những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch mà qua đó còn giúp cộng đồng quốc tế hiểu hơn và tin hơn vào Việt Nam.
Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ những "chiến sĩ xung kích" trên mặt trận tư tưởng, văn hóa với bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ nghiệp vụ cao, có tâm huyết, có trách nhiệm, có ngòi bút sắc bén trong đấu tranh chống những luận điệu sai trái, xuyên tạc. Thực tế cho thấy, hiệu quả của cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái phụ thuộc rất nhiều vào nội dung của các thông tin, bài viết, bài nói chuyện. Nội dung thể hiện tính “tư tưởng”, tính “chiến đấu” phụ thuộc rất nhiều vào tài trí của đội ngũ "chiến sĩ xung kích" này. Vì thế, họ cần có cơ chế đãi ngộ xứng đáng, thường xuyên được trau dồi kiến thức, bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ nghiệp vụ, thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, nhiệm vụ đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xuyên tạc, bịa đặt là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, chứ không phải của riêng các cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí. Do đó, các tổ chức trong hệ thống chính trị cần tăng cường tổ chức sinh hoạt, sử dụng phương pháp tuyên truyền miệng để thông tin kịp thời tình hình và định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, hội viên trong phạm vi tổ chức của mình, nâng cao nhận thức chính trị, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, phản động. Bên cạnh đó, cần phối kết hợp trao đổi thông tin, kịp thời phát hiện, đề xuất tham mưu với cấp ủy đơn vị những giải pháp, phương án đấu tranh ngăn chặn ảnh hưởng tác hại của những thông tin xuyên tạc, những luận điệu sai trái do các thế lực thù địch tung ra nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Năm là, các cơ quan báo chí, nhất là các báo chính trị - xã hội, các báo Trung ương cần tiên phong, đóng vai trò chủ đạo trong nhiệm vụ đấu tranh chống những luận điệu sai trái, thù địch. Vì thế, ngoài việc tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các loại hình báo chí, cần chủ động xây dựng và duy trì thường xuyên chuyên trang, chuyên mục đăng tải các tin, bài đấu tranh phản bác các thông tin, luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cần quan tâm hiện đại hóa phương tiện tác nghiệp cho tập thể và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí, giúp hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, nắm bắt thông tin, tuyên truyền trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển rất nhanh như hiện nay./.




[1] Dẫn theo Công văn số 7515/CV-BTGTW ngày 30/12/2014 của Ban Tuyên giáo Trung ương "về tuyên truyền trong nội bộ và định hướng đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch trên In-tơ-nét".
KIÊN QUYẾT CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC – GIÁ TRỊ
KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN
Trần Trí Nam
Sáng 22/01/2018, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã tiến hành Phiên họp thứ 13. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chủ trì phiên họp. Kể từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đến nay, hoạt động phòng, chống tham nhũng đã góp phần quan trọng khôi phục niềm tin của nhân dân với chế độ. Tuy nhiên, lợi dụng vào vấn đề này, các thế lực thù địch cho rằng đó chỉ là dấu hiệu của việc thanh trừng, đấu đá trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, các quan điểm của các thế lực thù địch về việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, là hoàn toàn phi lý, suy diễn và thiếu thiện chí. Bởi vì, hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trên tinh thần phòng, chống tham nhũng không có “vùng cấm”, “ngoại lệ” đang tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tình cảm, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đặc biệt, với sự chỉ đạo kiên quyết, toàn diện, kịp thời, cụ thể của đồng chí Tổng Bí thư - Trưởng ban Chỉ đạo và các đồng chí Phó Trưởng ban chỉ đạo; sự nỗ lực cố gắng, trách nhiệm cao của các thành viên Ban Chỉ đạo; sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ của các cơ quan chức năng; sự nỗ lực cố gắng vượt bậc của các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương. Những năm qua, hầu hết các nội dung trong chương trình công tác của Ban Chỉ đạo đã được thực hiện nghiêm túc, hoàn thành theo kế hoạch, tạo chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ, không có "vùng cấm", không có "ngoại lệ" trong công tác phòng, chống tham nhũng, được nhân dân tin tưởng, phấn khởi, đồng tình cao, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội.
Mặc dù đã tạo ra bước chuyển rất mạnh mẽ và có sức lan tỏa trong toàn xã hội, nhưng trong phát biểu kết luận phiên họp thứ 13 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh các thành viên Ban Chỉ đạo đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc, thể hiện sự đồng tình thống nhất cao về đánh giá kết quả công tác năm 2017; định hướng công tác và nhiệm vụ trọng tâm năm 2018. Trong những thành tựu chung toàn diện trên các lĩnh vực của đất nước, công tác phòng chống tham nhũng đã có những bước chuyển rất mạnh mẽ. Tổng Bí thư yêu cầu Ban Chỉ đạo tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, với cách làm bài bản, nghiêm túc, trách nhiệm, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, không làm thay cơ quan chức năng, mà định hướng, tạo đà cho các cơ quan chức năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, theo đồng chí Tổng Bí thư, công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần phải ráo riết, quyết liệt với quyết tâm cao cao hơn nữa; các ngành, các cấp phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng. Và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải tiếp tục trở thành phong trào, xu thế, tạo được dấu ấn tốt, lan tỏa rộng rãi, củng cố niềm tin trong nhân dân.
Thực tiễn cho thấy, chủ trương kiên quyết phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thể chế hóa thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, quy định về công tác kiểm tra giám sát, phân cấp quản lý, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ... Đây là cơ sở pháp lý để cảnh báo, răn đe, ngăn chặn, đồng thời có căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm. Nhờ đó, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được tăng cường. Qua đó phát hiện, xử lý nghiêm các sai phạm, kiến nghị thu hồi cho ngân sách nhà nước hàng ngàn tỷ đồng. Dưới sự chỉ đạo và hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, nhiều vụ việc đã được kết luận và tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật, nhất là các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Đáng chú ý, nhiều vụ trước đây chưa làm được thì nay đã làm được, tạo hiệu ứng tốt trong dư luận xã hội. Thông qua sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, các cơ quan tiến hành tố tụng, các bộ, ngành chức năng trong phát hiện, làm rõ, xử lý sai phạm và tội phạm ngày càng chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả.
Ngoài ra, vai trò của các cơ quan báo chí được phát huy. Việc chủ động công khai thông tin về kết quả kiểm tra, xử lý các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên sai phạm; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong công tác phòng chống tham nhũng, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Như vậy, với quyết tâm cao độ của hệ thống chính trị, và sự chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân với hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, đang ngày càng hiệu quả, tạo chuyển biến rất tích cực, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và khôi phục niềm tin của nhân dân với chế độ. Do đó, mọi luận điệu suy diễn, áp đặt, quy chụp thiếu thiện chí của các thế lực thù địch về hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam đều vô căn cứ và bị chính thực tiễn ở Việt Nam phủ nhận./.

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

ĐẠI SỨ QUÁN HOA KỲ CẦN NHÌN THẲNG
VÀO SỰ THẬT, NÓI ĐÚNG SỰ THẬT!
Vừa qua, sau khi cơ quan chức năng của Việt Nam đưa ra xét xử công khai một số người vì có hành vi tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam lập tức một số tổ chức và đại diện một số quốc gia, trong đó có Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội lại bất chấp sự thật để lên tiếng bênh vực, đồng thời phê phán Nhà nước Việt Nam và đưa ra các đòi hỏi phi lý!
Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội vào ngày 2/2 ra thông cáo báo chí bày tỏ quan ngại về các bản án mới nhất mà tòa tại Việt Nam tuyên đối với các nhà “hoạt động” trong nước.
Theo Đại sứ quán Hoa Kỳ thì cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” dùng để tuyên án các bị cáo Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc và Hồ Văn Hải là “mơ hồ”?!.
Phía Hoa Kỳ kêu gọi “Việt Nam lập tức trả tự do ngay cho bốn bị cáo trên”. Đồng thời “cho phép các các nhân tại Việt Nam được bày tỏ quan điểm chính trị của bản thân họ một cách ôn hòa mà không sợ bị trừng phạt”.
Trước đó, ngày 31/01/2018, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm các bị cáo Vũ Quang Thuận (sinh năm 1966, quê Thái Bình), Nguyễn Văn Điển (sinh năm 1983, quê Yên Bái) và Trần Hoàng Phúc (sinh năm 1994, quê TP Hồ Chí Minh) bị VKSND TP Hà Nội truy tố về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, theo quy định tại Điều 88 BLHS năm 1999. Kết thúc phiên tòa, HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Vũ Quang Thuận 8 năm tù, Nguyễn Văn Điển 6 năm 6 tháng tù, Trần Hoàng Phúc 6 năm tù về cùng tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
Tiếp đến, vào ngày 01/02/2018, TAND TP HCM xử sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo Hồ Văn Hải 4 năm tù về tội “Ttuyên truyền chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
Trước tiên cần khẳng định, những phiên tòa trên đã diễn ra theo đúng pháp luật với bản án được tuyên dựa trên những chứng cứ về sự vi phạm pháp luật Việt Nam rõ ràng của các bị cáo.
Theo cáo trạng: “từ tháng 10/2016 đến tháng 3/2017, Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển có hành vi làm, đăng tải 17 video clip lên mạng internet; tàng trữ tài liệu có nội dung chống phá Nhà nước ta, phỉ báng chính quyền nhân dân.  Các đối tượng cũng phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật về sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, kích động kêu gọi chống đối Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Từ tháng 1/2017, Trần Hồng Phúc có hành vi giúp sức cho các bị cáo Điển và Thuận tàng trữ tài liệu, làm, đăng tải 3 video cố nội dung chống Nhà nước ta lên mạng internet.
Quá trình làm, đăng tải các video nói trên, Vũ Quang Thuận đã nhận 50 triệu đồng của các cá nhân ủng hộ bằng hình thức chuyển khoản hoặc trực tiếp. Số tiền này được các bị cáo dùng để mua thiết bị và chi phí ăn uống hằng ngày.”
Trong khi đó, tại vụ án “Hồ Văn Hải phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước”, các cơ quan chức năng cũng có đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng này. Theo kết quả điều tra, Hồ Văn Hải, chủ tài khoản Facebook “Hồ Hải” và blog “BS Hồ Hải” đã phát tán thông tin, tài liệu chống Nhà nước. Trong số 75 bài viết đã được đăng tải trên mạng và tàng trữ trong máy tính của Hải, có 36 bài vi phạm quy định của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
Hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” của các đối tượng Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc và Hồ Văn Hải đã vi phạm Điều 88 BLHS. Hành vi ấy là hành vi phạm tội có tổ chức, có sự móc nối với bên ngoài… Hành vi đó là biểu hiện của chủ nghĩa tự do cực đoan, không chỉ gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức, mà còn gây nguy hiểm cho xã hội, làm phương hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Việc các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam bắt giữ, khởi tố, điều tra và đưa ra xét xử các đối tượng trên về tội “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng luật pháp Việt Nam và phù hợp với công ước quốc tế.
Đó là bộ mặt thật của những kẻ mà Đại sứ quán Hoa Kỳ kêu gọi trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện. Thiết nghĩ, trước khi lên tiếng bảo vệ, bao che một số cá nhân được gán nhãn hiệu “nhà bảo vệ nhân quyền”, Đại sứ quán Hoa Kỳ cần nhìn thẳng vào bản chất sự thật để qua đó không dung túng cái xấu, không về hùa với những kẻ vi phạm pháp luật, chống phá đất nước Việt Nam./.
Phúc Sơn (VNTL)
Nguồn:http://ngheanthoibao.com/dai-su-quan-hoa-ky-can-nhin-thang-vao-su-that-noi-dung-su-that/


Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và giá trị định hướng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
170 năm đã qua kể từ khi tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, song nhiều luận điểm được nêu trong Tuyên ngôn đến nay vẫn còn nguyên giá trị mà mỗi nước trên con đường xây dựng CNXH đều có thể vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với điều kiện của nước mình. Đối với nước ta, con đường quá độ lên CNXH mà Việt Nam lựa chọn có sự định hướng, soi rọi của Tuyên ngôn, rộng hơn là của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sức sống của Tuyên ngôn tiếp tục truyền cảm hứng đòi hỏi chúng ta cần bổ sung, phát triển lý luận về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh mới.
170 năm trước, xuất phát từ nhu cầu phải xây dựng, phát triển lý luận để soi rọi cho thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa, thay mặt Liên đoàn những người cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Từ khi ra đời, Tuyên ngôn không chỉ là cương lĩnh chính trị của tổ chức mà còn có sức lan tỏa nhanh chóng mang tầm ảnh hưởng quốc tế, trở thành cương lĩnh cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuyên ngôn là tác phẩm lý luận khoa học và cách mạng mang tầm khái quát cao toàn bộ tiến trình của cuộc cách mạng XHCN và luận giải một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh lật đổ ách áp bức thống trị hàng trăm năm của chủ nghĩa tư bản để cho ra đời một chế độ xã hội mới - xã hội XHCN, một xã hội mang bản chất nhân văn giải phóng con người.
Từ trong Tuyên ngôn, các đảng cộng sản ở mỗi nước đều có thể tìm thấy những chỉ dẫn lý luận nền tảng để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng. Giá trị, sức sống của Tuyên ngôn phản ánh giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong suốt 170 năm qua với mục tiêu xuyên suốt là giải phóng con người, thiết lập một xã hội trên thực tế mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(1).
Bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách khoa học và cách mạng về tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của nhân loại. Theo đó, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những tiền đề hiện thực để phá hủy, tiêu diệt chính chủ nghĩa tư bản và một chế độ xã hội mới sẽ thay thế - đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là vì trong chủ nghĩa tư bản,“giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất”(2).
Song chính quá trình “cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội(3)sẽ khách quantạo ra những điều kiện,tiền đề hiện thực để phủ định chủ nghĩa tư bản -bởi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩasẽ trở nên gay gắt, đặt ra yêu cầu phải thiết lập những quan hệ sản xuất mới với trình độ xã hội hóa cao - tức là tất yếu phải thiết lập một chế độ sở hữu mới - chế độ sở hữu xã hội, thì mới phù hợp với trình độ cao của lực lượng sản xuất và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Tuyên ngôn viết: “...Lịch sử công nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch sử cuộc nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống lại những quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản(4).Tính biện chứng chính là ở chỗ, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì càng gần đến chỗ bị sụp đổ, gần với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này sẽ được tiến hành qua hai giai đoạn: Bước thứ nhất, giai cấp công nhân “lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản”(5), “biến thành giai cấp thống trị, và giành lấy dân chủ”(6)về tay mình. Bước thứ hai, giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng chính quyền như một công cụ có hiệu lực nhất để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuyên ngôn cũng gợi ý những biện pháp cần thực hiện để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen lưu ý rằng: “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”(7). Nói cách khác, các ông chỉ dẫn mỗi nước phải căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mình để vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của Tuyên ngôn.
Toàn bộ lý luận về cách mạng XHCN (bao gồm mục tiêu, đặc trưng, con đường, các giai đoạn tiến hành, các biện pháp...) đã được phác thảo trên những nét căn bản nhất trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tiếp tục được bổ sung, phát triển, làm rõ hơn trong các tác phẩm tiếp sau của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khẳng định giá trị vững bền của Tuyên ngôn, V.I.Lênin viết: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”(8).
Đối với Việt Nam, những tư tưởng của Tuyên ngôn và trong toàn bộ học thuyết Mác - Lênin có giá trị lý luận nền tảng vô cùng quan trọng cho việc lựa chọn định hướng con đường phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Vào thời điểm này, Việt Nam đang là một nước thuộc địa nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản chi phối bóp nghẹt đời sống xã hội: mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Đã có nhiều cuộc đấu tranh yêu nước theo các xu hướng  khác nhau nhằm đánh đuổi thực dân xâm lược, đồng thời tìm đường đi cho cách mạng Việt Nam. Song tất cả đều rơi vào bế tắc! Câu hỏi cách mạng Việt Nam sẽ đi con đường nào luôn đau đáu thường trực và trở thành động lực thôi thúc mạnh mẽ các lực lượng yêu nước. Chỉ khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với “Tuyên ngôn”, câu hỏi này mới có lời giải. Do vậy, Tuyên ngôn của Đảng cộng sảnvà chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự có giá trị định hướng con đường phát triển của Việt Nam. Điều này đã được thực tiễn lịch sử kiểm chứng qua các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Tuyên ngôn và chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tìm ra con đường phát triển mang tính đặc thù của Việt Nam - con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Cách thức phát triển này cho phép giải quyết một cách triệt để cả hai mâu thuẫn, và con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một tất yếu lịch sử mang tính đặc thù của Việt Nam đã được Tuyên ngônsoi rọi, định hướng. Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1975), cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH theo con đường phát triển rút ngắn (hay còn gọi theo phương thức quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa). Đây là sự lựa chọn đúng đắn đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh trong nhiều thập niên qua.
Sau đổ vỡ của CNXHhiện thực ở Liên Xô,Đông Âuvà những khó khăn đang gặp phải của nhiều nước XHCN hiện thực còn lại, không ít người, bao gồm cả một số người cộng sản đã tỏ ra hoài nghi về con đường quá độbỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đilên CNXH của Việt Nam. Họ cho rằng: Việt Nam cần xem xét lại con đường phát triển vì đó là sự phát triển vi phạm quy luật khách quan; và rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay đổi về bản chất trở thành chủ nghĩa tư bản nhân đạo, vì dân. Do vậy, Việt Nam cần phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa để  bảo đảm đúng quy luật!
Trước hết phải khẳng định rằng:chủ nghĩa tư bảnhiện đạiđã phát triển mang tính toàn cầu, và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là trong lĩnh vực phát triển lực lượng sản xuất, khoa học -công nghệ hiện đạivà hiện nay đạt đến trình độ Cách mạng công nghiệp 4.0 với đặc trưng là ứng dụng rộng rãi những thành tựu của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để tạo ra nhiều sản phẩm thông minh kết nối toàn thế giới, giữa thế giới thực và ảo. Đây là điều kiện để chủ nghĩa tư bản thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, đồng thời cónhững điều chỉnh về chế độ phúc lợi, an sinh xã hội tiến bộ, làm cho đời sống vật chất, tinh thần của công nhân và người lao động trong nhiều nước tư bản chủ nghĩa đượccải thiện vượt bậc so với trước. Song bản chất “bóc lột” của chủ nghĩa tư bản vẫn không hềthay đổi. Trên thực tế, các nước tư bản phát triển nhất hiện nay vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải như:bất ổn xã hội,phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ đói nghèo cao (năm 2014, tỷ lệ đói nghèo ở Mỹ là 17,4% và thuộc những quốc gia có tỷ lệ chênh lệch giàu nghèo lớn nhất thế giới(9)). Tình trạng bạo lực, xung đột sắc tộc; nạn khủng bố, người di cư khó kiểm soát,... vẫn là bài toán khó tìm lời giải đối với nước Mỹ và các nước TBCN khác. Người dân ở những nước này luôn phải sống trong cảnh lo âu thường trực vì bạo lực, bất ổn, tình trạng sử dụng vũ khí tràn lan không kiểm soát được có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Một cuộc sống như vậy chắc chắn không phải là “thiên đường hạnh phúc” như nhiều người suy nghĩ. Do vậy, kiểu phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện nay không phải là một sự phát triển bền vững để Việt Nam có thể lựa chọn.
Những tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới theo định hướng XNCH. Giá trị khoa học thể hiện trước hết ở chỗ giúp cho Đảng ta có cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn trong bổ sung, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Sau 30 năm đổi mới, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khá toàn diện trên các lĩnh vực. Năm 2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 6,81%, là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng một thập kỷ trở lại đây, trên nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc hơn. Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 5 bậc, lên thứ 55/137. Ngân hàng thế giới xếp hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc, lên thứ 68/190 quốc gia, vùng lãnh thổ(10).
Chính trị - xã hội được ổn định, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được củng cố nhờ những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế và đặc biệt là sự chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả của Đảng trong công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng; những nỗ lực của Chính phủ trong việc đổi mới thể chế kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư; sự đánh giá ngày càng cao của các nước về Việt Nam trên trường quốc tế... Đây là những minh chứng cho thấy sự lựa chọn con đường quá độ lên CNXH của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Mặc dù vậy, về mặt lý luận, con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên CNXH ở nước ta đến nay vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ. Việc xác định thời kỳ quá độ lên CNXHnằm ở đâu trong chiều dài phát triển của lịch sử nhân loại là điều cần thiết,vì đó là cơ sở khách quan để xác địnhđặc điểm của đất nước, của thời đại và những cải biến xã hội tất yếu diễn ra; đồng thời trên cơ sở đó mà xác định đường lối, chủ trương, chính sách và phương pháp tổ chức thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phù hợp. Nếu không xác định đúng vị trí của nó sẽ dễ dẫn đến những quyết sách chủ quan, duy ý chí.
Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta(1875), khi đưa ra quan niệm về thời kỳ quá độ lên CNXH, C.Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(11).Do vậy,thời kỳ quá độ lên CNXH chỉ có thểlà thời kỳ nằm trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và là giai đoạn đầu của hình thái này. Bởi theo định nghĩa của C.Mác thì tiêu chí để nhận diện thời kỳ quá độ lên CNXHbắt đầu từ khi giai cấp công nhân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng XHCNvà bắt tay vào thiết lập, xây dựng nhà nước của mình, đồng thời thiết lập “nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ chế độ mới, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới qua hai giai đoạn (đây đồng thời là tinh thần mà Tuyên ngôn đã chỉ ra) -đó là xã hội XHCNvà tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Cũng cần làm rõ thời kỳ quá độ lên CNXHliệu có trùng khít với giai đoạn đầu -nghĩa là xã hội XHCNhay không ? Nếu đúng vậy thì có nghĩa là sau khi tiến hành xong thời kỳ quá độ lên CNXHcũng có nghĩa là về cơ bản đã hoàn thành các nội dung, nhiệm vụ của giai đoạn đầu để bước vào giai đoạn cao - chủ nghĩa cộng sản.
Nghiên cứu về thời kỳ quá độ lên CNXH, một câu hỏi thường xuyên được đặt ra kể cả trong giới lý luận và trong xã hội: khi nào kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXHở Việt Nam? Liệu có thể xác định được độ dài của nó hay không?Tại Đại hội XII (2016), Đảng ta xác định Việt Nam “phấn đấu sớm trở thành một nước công nghiệp hiện đại”, nhưng chưa đưa ra dấu mốc cụ thể. Cách diễn đạt này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.
Chúng tôi cho rằng: sẽ khó có thể đưa ra được thời hạn cụ thể của thời kỳ quá độ lên CNXH, bởi vì, thời kỳ này dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, trước hết là phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền và sự đồng thuận của dân. V.I. Lênin từng nói: Đảng phải đại biểu cho lương tri và trí tuệ của thời đại. Nếu tạo được sự hòa quyện, gắn kết chặt chẽ giữa hai yếu tố này thì thời kỳ quá độ sẽ sớm hoàn thành, nói cách khác xã hội XHCNsẽ sớm trở thành hiện thực. Ngược lại, nếu Đảng và Nhà nước mắc những sai lầm lớn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý; nếu tổ chức Đảng yếu kém, nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tư tưởng và tham nhũng thì chắc chắn sẽ không nhận được sự đồng thuận của dân. Trong trường hợp này, độ dài của thời kỳ quá độ lên CNXHkhó mà xác định, thậm chí những thành quả mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản rất có thể sẽ bị tiêu tan. Bài học của Liên Xô và các nước XHCNĐông Âu sẽ mãi là lời cảnh tỉnh có giá trị đối với các nước trên con đường quá độ lên CNXH.
Nếu nhìn vào nền kinh tế và thể chế chính trị của Việt Nam những năm qua, nhất là những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội theo chiều hướng tích cực đi lên, và nếu kinh tế - chính trị thế giới không có những biến động lớn tác động đến Việt Nam thì mục tiêu Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại nhiều khả năng sẽ đạt được vào những năm giữa thế kỷ XXI.
Cho dù còn nhiều khó khăn, thách thức ở phía trước, song con đường quá độ lên CNXH mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnvà chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng sẽ mãi là lý tưởng mà Việt Nam kiên định và phấn đấu để đạt được.
___________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1 năm 2018
 (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, Hà Nội, tr.628, 600, 600-601, 604, 612, 626, 627.
(8) V.I.Lênin: Toàn tập, t.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.1.
(9) Những quốc gia có chênh lệch giàu nghèo lớn nhất thế giới, http://kenh14.vn.
(10)Kinh tế Việt Nam 2017 ngược dòng lập kỷ lục,  https://news.zing.vn.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen; Toàn tập, t.19, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.47.

PGS, TS Bùi Thị Ngọc Lan
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...