Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

PHÒNG, CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
                                                             Trần Trí Nam
Thời gian qua, bên cạnh những kết quả tốt đẹp về thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam, ở một số nơi vẫn còn nảy sinh một số vụ việc va chạm giữa chính quyền với tổ chức tôn giáo mà nguyên nhân có khi thuộc về khuyết điểm của cấp chính quyền địa phương, có khi thuộc về một số cá nhân của tổ chức tôn giáo. Về phía chính quyền ở một số nơi, còn không ít cán bộ, đảng viên có nhận thức chưa đúng, có thái độ mặc cảm, định kiến với tổ chức tôn giáo và chức sắc tôn giáo, nên trong giao tiếp và xử lý công việc, có biểu hiện thiếu thân thiện, công bằng và khách quan. Vụ việc xảy ra tại Nhà thờ Thái Hà, Nhà Chung ở Hà Nội là tranh chấp về đất đai liên quan tới cơ sở cũ của tổ chức tôn giáo. Vụ việc này xuất phát từ khuyết điểm của các cấp chính quyền không thực hiện đúng chỉ thị của Thủ tướng, cụ thể là Khoản a Điều 3 của Chỉ thị 1940/2008 về đất đai trong “trường hợp cơ sở tôn giáo có nhu cầu chính đáng sử dụng nhà, đất đó vào mục đích tôn giáo thì tùy từng trường hợp cụ thể, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thể xem xét giao nhà, đất với diện tích phù hợp; hoặc tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo xây dựng cơ sở mới theo quy định của pháp luật”.
Ngoài ra, hiện tượng các cá nhân hoặc nhóm cá nhân lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để có các hành vi trục lợi, lừa bịp, buôn thần bán thánh, mê tín dị đoan ngày càng gia tăng và tạo ra những hệ lụy, dẫn đến làm mất uy tín của tôn giáo, gây khó xử cho chính quyền. Hiện tượng muốn Nhà nước “ưu tiên, ưu đãi”, hoặc lạm dụng sự thân thiện của chính quyền để khuếch trương tôn giáo, gây hiểu lầm trong xã hội về thái độ của Nhà nước đối xử không công bằng giữa các tôn giáo, ưu đãi tôn giáo này, khó khăn với tôn giáo kia đang ngày càng phức tạp. Đáng chú ý, một số phần tử cơ hội chính trị, lấy danh nghĩa linh mục giáo sứ, trụ trì cơ sở thờ tự như Nguyễn Văn Lý, Thích Quảng Độ, Đặng Hữu Nam… lợi dụng phương tiện truyền thông và quan hệ với bên ngoài chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân bằng cách tán phát thông tin, tài liệu vu cáo, xuyên tạc, thổi phồng một số khuyết điểm nhỏ của chính quyền thành hành động đàn áp giáo dân, gây căng thẳng không đáng có giữa chính quyền và tôn giáo. Hành động của họ đi ngược lại hoàn toàn với chính sách nhất quán về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam, cũng như phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Có thể khẳng định rằng, từ khi nước ta giành được độc lập đến nay đã hơn 70 năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm và coi trọng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, thực hiện đoàn kết chặt chẽ lương - giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhất quán với chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở trong các văn kiện của Đảng, Điều 24, Hiến pháp 2013 hiến định: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”[1].
Cụ thể hóa Điều 24 Hiến pháp 2013 và trước sự phát triển của tình hình trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 18/11/2016, Quốc hội đã thông qua và ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 gồm 09 chương, 68 điều, quy định chi tiết các vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo. Đáng chú ý, ngoài các vấn đề được kế thừa, phát triển so với các văn bản pháp luật trước đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo dành hẳn Chương VIII quy định về quản lý nhà nước và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, chính sách, pháp luật ở Việt Nam khẳng định nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng như cam kết bảo đảm các quyền đó gắn với lợi ích quốc gia, dân tộc. Những chính sách đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam được ban hành những năm gần đây, đã định hướng và tạo hành lang pháp lý cũng như chỉ dẫn cần thiết cho các cấp ủy đảng, chính quyền trong đối xử với các tổ chức tôn giáo, các chức sắc và tín đồ tôn giáo ở các địa phương trong toàn quốc. Đồng thời, đó cũng là hành lang pháp lý để các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc và tín đồ tôn giáo hoạt động.
Theo khẳng định của đồng chí Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân khi tiếp Đức Hồng y Reinhard Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức (Báo điện tử Chính phủ, ngày 11-1-2016): Trước năm 2000, Nhà nước ta công nhận và cấp phép cho 3 tổ chức tôn giáo, tới nay đã  công nhận và cấp phép hoạt động cho 40 tổ chức thuộc 14 tôn giáo. Còn về số lượng người theo các tôn giáo cũng đang tăng lên. Theo số liệu Tổng điều tra dân số năm 2009, cả nước có 15.651.467 người theo tôn giáo. Trong đó Phật giáo có 6,8 triệu, Công giáo 5,7 triệu, Tin lành 734.168 người. Đến năm 2011, theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, cả nước có 25,4 triệu người là tín đồ các tôn giáo, trong đó Phật giáo là 10 triệu, Công giáo 6,1 triệu, Tin lành là 1,5 triệu[2]. Như vậy, số lượng tín đồ các tôn giáo sau hơn 10 năm đã tăng tới 10 triệu người, trong đó Tin lành tăng gấp 2 lần. Hàng chục nghìn cơ sở thờ tự (nhà thờ, chùa chiền, thánh thất...) được xây dựng mới, được tu sửa, nâng cấp. Các trường đào tạo chức sắc được mở ra ở nhiều nơi với nhiều cấp học, số lượng người theo học ngày càng đông, số lượng chức sắc tăng lên. Riêng Công giáo có 7 đại chủng viện, 26 tổng giám mục, 5 nghìn linh mục, 3 người là đại biểu Quốc hội khóa XIII, 38 người tham gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, hơn 300 người tham gia Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận[3].
Bên cạnh sự phát triển về số lượng, quy mô tín ngưỡng, tôn giáo thì sách, báo, ấn phẩm văn học tôn giáo được xuất bản với số lượng lớn; các ngày lễ của các tôn giáo được tổ chức long trọng, nhiều sự kiện tôn giáo có tầm quốc gia và quốc tế được tổ chức (thí dụ Đại lễ Vesak của Phật giáo); quan hệ giữa nhà nước Việt Nam và các giáo hội trong và ngoài nước ngày càng thân thiện, hiểu biết lẫn nhau. Mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo trong nước và ngoài nước rộng mở.
Những kết quả của chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo hơn 70 năm qua ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Do đó, tất cả những biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đều trái với tinh thần tự do tín ngưỡng, tôn giáo và hành lang pháp lý về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Song để phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, hơn lúc nào hết, chúng ta cần hướng dẫn các chức sắc tôn giáo hoạt động tôn giáo theo đúng chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước. Phải tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, làm cho các chức sắc tôn giáo, giáo dân thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm trong các giáo hội ở một nước văn minh, tiến bộ. Đồng thời, chúng ta cần giáo dục, giác ngộ cho họ nâng cao tinh thần cảnh giác, kịp thời chống âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” gắn với thực hiện phương châm “Tốt đời - đẹp đạo”, “Nước vinh - đạo sáng”./.




[1] Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.203-204.
[2] Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân tiếp Đức Hồng y Reinhard Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, Báo điện tử Chính phủ, ngày 11-1-2016.
[3] TS Phạm Huy Thông: “Tình hình tôn giáo và những yêu cầu đặt ra với công tác tôn giáo vận”, http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/2263/Tinh_hinh_ton_giao_va_nhung_yeu_cau_dat_ra_voi_cong_tac_ton_giao.

Thứ Năm, 27 tháng 4, 2017

SỰ CỐ TÌNH XUYÊN TẠC, BÓP MÉO CHIẾN THẮNG

30 THÁNG 4 NĂM 1975

Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội có nhiều bài viết của những kẻ được cho là “dân chuyên đi nghiên cứu lịch sử” đã đăng tải nội dung bài viết ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam 30 tháng 4 năm 1975. Nếu tâm tư của họ như vậy thì hoàn toàn tốt, đằng này, tâm địa của họ lại không phải vậy. Đằng sau những lời sẽ mà họ tung hô đó là những luận điệu xuyên tạc, cố tình làm sai lịch sử, họ đưa những nghiên cứu không có căn cứ ra để hòng bóp méo lịch sử, gây ra sự hoài nghi trong lòng người dân Việt Nam.

Trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc Việt Nam đã viết nên những trang sử hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong những trang lịch sử rực rỡ đó có thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đúng như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. 
Lịch sử không thể thay đổi. Người ta chỉ có thể thay đổi cách nhìn nhận về lịch sử tùy theo quan điểm và lợi ích chính trị của mình mà thôi. Vì những lý do khác nhau, trong thời gian qua, không ít kẻ đã cố tình xuyên tạc, bóp méo lịch sử dân tộc Việt Nam, trong đó có ngày Chiến thắng 30-4-1975. Có kẻ nói rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ là “nồi da, nấu thịt”, là “Cuộc chiến tranh của Hà Nội”, “Ngày 30-4-1975 không phải là ngày giải phóng miền Nam vì quân đội Mỹ đã rút”… Thậm chí gần đây có kẻ còn nói: “Người Mỹ không thua vì tổng số thương vong, người Mỹ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương”; hay: “Cuộc chiến tranh này với mục tiêu ngăn chặn làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á nên không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại”(!).
Lịch sử dân tộc Việt Nam từng ghi nhận nhiều chiến công hiển hách, đã từng đánh bại nhiều đội quân xâm lược hùng mạnh bậc nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại phải đương đầu với một lực lượng xâm lược ở một trình độ phát triển cao hơn mình về nhiều phương diện đến thế. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đương nhiên không phải là một thắng lợi dễ dàng mà đây còn là cuộc đối đầu về ý chí, bản lĩnh và trí tuệ của hai bộ máy lãnh đạo chiến tranh. Để đi đến thắng lợi 30-4-1975, quân và dân Việt Nam đã đánh bại 3 chiến lược chiến tranh của Mỹ và với 5 đời tổng thống Mỹ.
Vì vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam đã được bè bạn quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Trong điện chúc mừng thắng lợi của nhân dân Việt Nam, ngày 30-4-1975, các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc viết: “Thắng lợi của nhân dân Việt Nam một lần nữa chứng minh hùng hồn rằng, nhân dân một nước, dù là nhân dân một nước nhỏ, miễn là dám vùng dậy đấu tranh, dám cầm vũ khí, lấy chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa, thì nhất định có thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào… nhằm bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, giải phóng dân tộc”. Trong điện mừng của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cu-ba, có đoạn viết: “Trong hơn 20 năm qua, toàn thể nhân dân Việt Nam ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, với chủ nghĩa anh hùng tuyệt vời đã chiến đấu chống lại những hình thức xâm lược đế quốc tàn bạo nhất… Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở ra một giai đoạn mới cho nhân dân Việt Nam”.
Còn từ phía bên kia, trong cuốn hồi ký với tiêu đề “Nhìn lại quá khứ- Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam”, Robert S.McNamara, từng là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thời kỳ chiến tranh Việt Nam, không chỉ thừa nhận thất bại của Mỹ, coi đó là “một thảm kịch”, mà còn thừa nhận đây là cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ gây ra do những sai lầm về chính trị của nhiều đời tổng thống! Trong những sai lầm đó có những sai lầm về: “Đánh giá sai những chủ đích địa chính trị của các đối thủ, đã phóng đại những mối nguy hại của họ đối với nước Mỹ”; rồi: “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh tinh thần dân tộc của họ”; và: “Cách nhìn nhận của chúng ta về bạn và thù phản ánh sự dốt nát sâu sắc của chúng ta về lịch sử, văn hóa và chính trị của nhân dân Việt Nam”.
Ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại của Chiến thắng 30-4-1975 đã được lịch sử kiểm chứng sáng tỏ, rõ ràng như vậy. Nhưng thời gian gần đây, vẫn có những kẻ hoặc là thiển cận về chính trị, hoặc vì “đầu óc nô lệ” đã không thể hoặc không muốn thừa nhận thắng lợi vĩ đại đó của dân tộc Việt Nam. Thế nên, họ cố tình lập luận một cách phi lý rằng: Những cuộc xuống đường của nhân dân Mỹ và sự nhân nhượng của Chính phủ Mỹ đâu phải là “thắng lợi của Việt Nam”(!), hay như: Thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (sau khi Mỹ rút dần quân đội ở chiến trường) đâu phải là trách nhiệm của quân đội Hoa Kỳ(!).
Trên thực tế, những kẻ xuyên tạc cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta không biết một điều căn bản rằng, cách nhìn nhận một cuộc chiến tranh trước hết phải bắt đầu xem xét tính chất của cuộc chiến tranh đó, tức bên nào là chính nghĩa, bên nào là phi nghĩa. Trong cuộc chiến tranh này không chỉ là cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia mà còn là cuộc đấu tranh giữa hai phía: Chính nghĩa và phi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam đã làm rõ ý nghĩa, giá trị của chính nghĩa trong việc huy động sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại như thế nào. Bởi vậy, không phải là không có lý khi nhiều nhà nghiên cứu chiến tranh Việt Nam đã thừa nhận rằng, lực lượng hiếu chiến, chống cộng Mỹ “đã thua Việt Nam ngay trên đất nước mình”. Còn ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng chính quyền Sài Gòn sau 30 năm chiến tranh kết thúc, năm 2004, lần đầu tiên trở về quê hương đã nhìn nhận về chính quyền cũ như sau: “Quân đội miền Nam không có ai đáng giá cả, kể từ ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh trở xuống. Trong số những vị cùng vai với tôi, cứ mười ông thì đến mười một ông tham sống sợ chết!”.
Tôn trọng tính chân thực của lịch sử, không chỉ vì bảo vệ các giá trị của dân tộc mà còn để bảo đảm sự công bằng đối với các thế hệ đi trước. Đồng thời còn giúp cho các thế hệ sau nắm bắt được những bài học quý báu của thế hệ cha anh. Tôn trọng lịch sử không chỉ là vấn đề chính trị mà còn là vấn đề đạo đức. Vì vậy chúng ta không cho phép bất cứ ai xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược vì đó là sự xúc phạm đến danh dự, phẩm giá chính nghĩa của cả một dân tộc anh hùng, xúc phạm đến anh linh của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
                                                                                                   Q.C.504


Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

THẮNG LỢI CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975 - THẮNG LỢI CỦA
TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH

                                                                                                                                                                        HC

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã ghi vào lịch sử của dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc. Đó cũng là thắng lợi của tư tưởng nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn còn một vài bài viết của một số tác giả có dụng ý xuyên tạc, hạ thấp thắng lợi vĩ đại của dân tộc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nghệ thuật quân sự nói riêng và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đây là một biểu hiện không bình thường, dù vô tình hay cố ý nhưng đã cổ súy cho tư tưởng “chống Cộng” của các thế lực thù địch, chống phá cách mạng nước ta, đi ngược lại truyền thống hào hùng của dân tộc. Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, bài viết này xin được làm sáng tỏ thêm, vai trò của Đảng trong vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Trước hết, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là thắng lợi của nghệ thuật nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, luôn giữ quyền chủ động.
Tư tưởng tiến công, “kiên quyết không ngừng thế tiến công” là nét đặc sắc trong nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có tiến công mới giành được thế chủ động, giành được thế chủ động mới phát triển được thế tiến công. Đồng thời Người cũng chỉ rõ, muốn tiến công phải chuẩn bị tốt về mọi mặt. “Chuẩn bị càng đầy đủ, thật đầy đủ, thì thời giờ tổng phản công càng mau chóng”[1].
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã khẳng định tính đúng đắn đường lối quân sự của Đảng trong chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Một trong những biểu hiện đúng đắn, sáng tạo đó là Đảng ta luôn nắm vững và quán triệt sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công, tích cực chủ động xây dựng, phát triển lực lượng rộng khắp trong cả nước; gắn bó chặt chẽ giữa hậu phương với tiền tuyến, giữa xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng, giữa các binh đoàn chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương. Đặc biệt, coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng có khả năng tiêu diệt lớn quân chủ lực của địch trên các mũi, các hướng chủ yếu và địa bàn chiến lược quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.
Hai là, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là thắng lợi của nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp.
Chiến tranh là sự thử thách toàn diện giữa các bên tham chiến, muốn giành thắng lợi nhất thiết phải mạnh hơn đối phương. Hồ Chí Minh cho rằng, “không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”[2]. Theo đó, toàn dân đánh giặc phải gắn với đánh giặc toàn diện; phát huy lực lượng toàn dân mới thực hiện được đánh giặc toàn diện, đánh giặc toàn diện cũng là nhằm huy động cao nhất lực lượng của toàn dân để giành thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tư tưởng về phát huy sức mạnh tổng hợp đã được quân và dân ta phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh. Nổi bật là sáng tạo của quân và dân ta trong việc kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức, lực lượng, quy mô tác chiến của ba thứ quân, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược và giữa đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ... Đó cũng là thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đường lối chính trị đúng đắn với đường lối quân sự tài giỏi, giữa chiến lược cách mạng với phương pháp cách mạng sáng tạo của Đảng ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Chính vì vậy, chúng ta đã huy động được cao nhất nguồn sức mạnh chính trị - tinh thần và nguồn sức mạnh vật chất của mọi lực lượng, phương tiện, hình thức, qui mô trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn áp đảo, đè bẹp sự phản kháng của địch, tiến lên giành toàn thắng.
Ba là, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là thắng lợi của Nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời và dùng mưu
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thể hiện sự vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh về tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu và phát huy các nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Về lực, Đảng ta chủ trương huy động sức mạnh của toàn dân cả về vật chất và tinh thần, xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh ở chiến trường và sức mạnh của địa phương tại chỗ.
Cùng với tạo lực, Đảng ta luôn chú trọng và phát huy cao độ thế mạnh của cuộc chiến tranh chính nghĩa, được lòng dân. Đồng thời, chỉ đạo tích cực xây dựng, phát triển thế trận thuận lợi trên toàn bộ chiến trường, chặn hướng tiến công chính của địch, bao vây, chia cắt địch, làm thay đổi thế và lực trên chiến trường, chủ động tổ chức những trận đánh then chốt, thúc đẩy thời cơ đến gần. Khi thế và lực của ta đã có, thời cơ đã đến còn phải biết dùng mưu. Mưu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được thể hiện trong toàn bộ các chủ trương, kế hoạch chiến lược, chiến dịch, tài chỉ huy, thao lược của tướng lĩnh, binh sĩ trong chiến đấu, tài nghi binh đánh lừa địch... Trong chiến tranh nhân dân, mưu kế, mưu lược là của nhân dân, của toàn quân, của mỗi cán bộ, chiến sĩ, không riêng gì của bộ thống soái.
Việc Bộ chính trị quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công mở màn là thể hiện nghệ thuật nghi binh lừa địch tài giỏi của Đảng ta. Tiếp đó, thừa thắng xốc tới Bộ chính trị quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng đập tan ý đồ “tử thủ” của địch trong một thời gian ngắn, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng về mặt chiến lược, hoàn toàn có lợi cho ta, tạo điều kiện để tập trung một lực lượng lớn vào trận quyết chiến tại Xuân Lộc - “cánh cửa thép” vào Sài Gòn. Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ chính trị đã nhận định, thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có đủ khả năng và lực lượng để kết thúc chiến tranh ngắn hơn so với thời gian dự kiến. Theo đó, chiến dịch giải phóng Sài Gòn được mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh với quyết tâm “thần tốc, táo bạo, quyết thắng”. Đến sáng 30/4/1975, năm cánh quân của ta từ năm hướng đồng loạt tiến thẳng vào Sài Gòn, chiếm Dinh Độc lập và các mục tiêu trọng yếu, bức hàng Chính phủ ngụy quyền, làm tan rã hoàn toàn bộ máy chính quyền của chúng, giành thắng lợi hoàn toàn.
 Bốn là, Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 - thắng lợi của nghệ thuật biết thắng từng bước.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thắng lợi của nghệ thuật quân sự, “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. “Thắng từng bước là qui luật phản ánh tính tất yếu của chiến tranh cách mạng đối với các dân tộc nhỏ, chống lại chiến tranh xâm lược của các nước đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, có đội quân xâm lược nhà nghề. Đồng thời, đó cũng là qui luật giành thắng lợi của Cách mạng việt Nam.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngay từ đầu Đảng ta đã xác định phương châm chỉ đạo cách mạng miền Nam, phát triển theo hướng giành thắng lợi từng phần, tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi hoàn toàn. Nghị quyết Trung ương 9 (12/1963) chỉ rõ: “Đánh lui địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến tới giành thắng lợi toàn bộ”[3]. “Thắng từng bước”, còn được Đảng ta nhấn mạnh là “phải biết thắng từng bước cho đúng… để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”[4].
 Thực tế cho thấy, sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu thân 1968, như “một đòn sét đánh” làm cho Mỹ, ngụy choáng váng, buộc Mỹ từng bước xuống thang, rút quân về nước và chuyển sang thi hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, hòng kéo dài chiến tranh ở nước ta. Cuối năm 1972, quân và dân miền Bắc đã đánh bại lần thứ hai cuộc tập kích đường không của quân đội Mỹ, làm nên thắng lợi “Điện Biên phủ trên không”, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari (1/1973), rút hết quân về nước. Nắm vững phương châm chiến lược “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, Đảng ta đã hạ quyết tâm nhanh chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam, càng sớm càng tốt và đã làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất Tổ quốc.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, không những là thắng lợi của nghệ thuật quân sự biết thắng từng bước mà còn là thắng lợi của nghệ thuật biết khởi đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời, thực hiện triệt để lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”[5]. Khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và về quân sự nói riêng đối cách mạng Việt Nam, trong cuốn sách “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự của Bác đã mang về thắng lợi trọn vẹn cho sự  nghiệp giải phóng dân tộc”[6].
Ngày nay, chúng ta đang ra sức thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình hình thế gới, trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường... Những thành quả mà nhân dân ta đã giành được là rất to lớn, rất đáng tự hào, cần phải được bảo vệ và phát triển vào điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Tuy nhiên, để đi tới thắng lợi cuối cùng, đòi hỏi mỗi chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nghệ thuật quân sự nói riêng, trên cơ sở đó biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với sự phát triển của tình hình mới, theo đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, phải thường xuyên nêu cao cảnh giác cách mạng, tích cực, chủ động đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch, hòng xuyên tạc, bóp méo lịch sử dân tộc, lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam, phủ nhận tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và vai trò của Đảng đối với cách mạng nước ta, nhất là tình hình hiện nay.



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, Tập 7, tr. 31
[2]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, Tập 4, tr. 344.
[3] ĐCSVN, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 24, tr. 832
[4] ĐCSVN, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 34, tr. 142
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, Tập 10, tr. 360
[6] Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, Nxb CTQG, Hà Nội.2000, tr 343.

Thứ Tư, 19 tháng 4, 2017

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ HOÀN TOÀN ĐÚNG ĐẮN, KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC
                                                                       Nghĩa Trí
  Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là một tư tưởng khoa học và cách mạng, điều đó được Đảng ta vận dụng trong toàn bộ tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập và tiếp tục theo đuổi lý tưởng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng trong tình hình hiện nay, kẻ thù luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo để tư tưởng của Người về vấn đề độc lập dân tộc nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh trong trái tim mọi người dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
  Bằng cách thông qua việc sử dụng các cơ quan phát thanh, báo chí, xuất bản...cùng với thủ đoạn sử dụng Internet, mạng xã hội và blog có nội dung xấu, độc hại, liều lượng, tần xuất ngày càng tăng. Chúng tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Chúng xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là trước thềm đại hội Đảng các cấp. Chúng cho rằng, Hồ Chí Minh thực chất chỉ là người “dân tộc chủ nghĩa”. Chúng cố chứng minh tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, không có gì quý hơn độc lập tự do của Hồ Chí Minh là “phi nhân tính”.  Chúng suy luận: “Nhân dân Việt Nam đi theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh là sai lầm, là đi vào ngõ cụt”... Do vậy, khi cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là “chủ nghĩa dân tộc” là một cách diễn đạt thiếu chính xác, không đầy đủ. Cách diễn đạt này dù vô tình hay hữu ý đã bỏ qua tính giai cấp, làm mờ đi lập trường, quan điểm giai cấp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Với cách diễn đạt ấy đã tước bỏ nội dung cách mạng, tiên tiến nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh và thực chất là để phủ nhận tư tưởng của Người. 
  Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc gắn bó thống nhất với tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, trong thời đại ngày nay, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc do đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo sẽ là tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Bởi: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do; về bản chất, chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm là không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học -kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh, trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ thực sự dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự phản ánh chính xác mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc, không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên CNXH. Do những đặc trưng nội tại của mình, CNXH sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và sự phát triển của dân tộc.
  Tư tưởng độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. CNXH không chỉ củng cố những giá trị nêu trên mà còn làm phong phú về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hóa các nội dung đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng XHCN mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính. Hiện nay, đất nước chúng ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, nó kích thích chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng phát triển, coi tiền là tất cả mà coi thường đạo lý, coi nhẹ lý tưởng, tình đồng chí, làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm tăng phân hóa giàu nghèo, khuyến khích lối sống hưởng thụ ích kỷ, không có tình nghĩa. Trong bối cảnh đó, nếu cán bộ, đảng viên không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên thì rất dễ dao động về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, dễ sa ngã bởi những cám dỗ vật chất tầm thường, rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân.
  Như vậy, đấu tranh chống quan điểm sai trái như một nhiệm vụ tất yếu chúng ta cần làm và nhất định phải làm thật tốt. Để thực hiện được điều đó, cần nhận rõ các dạng quan điểm sai trái để có những đối sách phù hợp. Yêu cầu chung nhất của việc đấu tranh chống quan điểm sai trái chính là làm tốt công tác tư tưởng trong Đảng và toàn dân bằng cách tuyên truyền, tổ chức, giáo dục hướng tới sự thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động trong toàn xã hội.





KHÔNG THỂ TÁCH RỜI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
                                                       Đồng Mạnh
Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch đang tăng cường thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt Nam trên mặt trận tư tưởng, văn hóa nhằm làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng chế độ ngày một quyết liệt hơn, với âm mưu, thủ đoạn cũng tinh vi, xảo quyệt hơn. Trong đó, chúng tập trung phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, xóa bỏ vị trí thống trị của hệ tư tưởng vô sản trong Đảng và trong xã hội, từ đó đòi thay nền tảng tư tưởng trong xã hội ta bằng hệ tư tưởng tư sản. Trong số những quan điểm chống phá đó, có quan điểm đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng cùng với đó phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, với biện giải học thuyết này đã lỗi thời, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là “đáng giá” và rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, bởi trong đó đã bao hàm chủ nghĩa Mác - Lênin, thậm chí còn cao hơn chủ nghĩa Mác - Lênin!
Chúng ta khẳng định quan điểm sai trái trên là rất nguy hiểm và thâm độc, vì chúng đã tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm này thể hiện tính ngụy biện, dễ làm cho một số người cả tin, ngộ nhận khi chúng không phủ nhận sạch trơn nền tảng tư tưởng của Đảng ta mà lại nâng tầm một cách giả tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - đã viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1]. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng - CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô, ngày 15-7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “…chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lê-nin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết. Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Khi nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ tư tưởng của Người có nguồn gốc từ chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin một cách cơ bản, hệ thống. Ngày 12-7-1946, trả lời trong cuộc họp báo tại biệt thự Roayan Môngxô, Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Hồ Chí Minh không bao giờ “tách mình” ra khỏi C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin để đưa ra các quan điểm riêng, mà như Người nói là “cố gắng vận dụng” tư tưởng của các nhà kinh điển đó, “nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”Nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ khi tiếp nhận được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mới thực sự được xác lập và phát triển.
Trong bài “con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Hồ Chí Minh đã nói: trước khi đến với chủ nghĩa Lênin, “tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên”[2], tham gia Đảng Xã hội Pháp vì họ ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, còn “Đảng là gì, công đoàn là gì, CNXH và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi không hiểu”[3]. Thế rồi, “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ[4].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu của sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt “hòn đá tảng” những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về phương pháp chỉ đạo cách mạng. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây để hình thành tư tưởng của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó có được trước hết do Người đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật.
Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Người không bao giờ coi chủ nghĩa Mác - Lênin là “cái gì đã xong xuôi hẳn”, là “đơn thuốc vạn năng”, mà như Người nói: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[5]. Trong bài “V.I.Lênin, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam” đăng trên báo Sự thật (Liên Xô), Hồ Chí Minh khẳng định: “Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là một thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước trước đây là thuộc địa. Những kinh nghiệm thành công của cách mạng Việt Nam cũng góp phần ít nhiều vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin”[6].
Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, không thể tách rời mối quan hệ vốn có giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và ngược lại. Cũng không thể đề cao được tư tưởng Hồ Chí Minh, khi mà bằng cách này hay cách khác lại phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,…”. Vì thế, những quan điểm tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đều sai trái, thậm chí thù địch, với dụng ý xấu. Như thế, không phải là ca ngợi, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng giá trị đích thực, vốn có trong tư tưởng của Người. Trái lại, người ta muốn cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc lý luận chủ yếu của tư tưởng này là chủ nghĩa Mác - Lênin, làm suy yếu và tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguy hiểm của luận điểm sai trái đó là cùng một lúc nhằm ba mục tiêu: phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; theo đó, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng làm suy yếu và đi đến xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, cần kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, xấu độc đó để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đại hội XII của Đảng đề ra.





[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, tr.289, Nxb CTQG, H.2011.
[2] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, tr.561, Nxb CTQG, H.2011.
[3] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, tr.561, Nxb CTQG, H.2011.
[4] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, tr.563, Nxb CTQG, H.2011.
[5] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, tr.510, Nxb CTQG, H.2011.
[6] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 13, tr.381, Nxb CTQG, H.2011. 

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

LUẬN ĐIỆU: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐE DỌA ỔN ĐỊNH
Ở VIỆT NAM LÀ HOÀN TOÀN BỊA ĐẶT VÀ PHI LÝ!

 

Thời gian gần đây, những kẻ phản động đã lợi dụng sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung để tung tin bịa đặt, khuếch trương, tô vẽ vấn đề cho thật trầm trọng, thậm chí chúng cho rằng đó là thách thức chính trị đang diễn ra ở Việt Nam. Những luận điệu đó là hoàn toàn bịa đặt và phi lý.

Mới đây, trên trang mạng tiếng Việt của một hãng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam tung lên bài viết “Ô nhiễm môi trường đe dọa ổn định ở Việt Nam”. Bài viết này nhận định: “Hầu hết người Việt Nam bất bình với Đảng Cộng sản đã cho phép một công ty nước ngoài xả độc ra biển… Nhiều người dân miền Trung đã tham gia các cuộc biểu tình đòi được Formosa và chính phủ bồi thường quyền lợi thích đáng. Kể cả nhiều người không bị ảnh hưởng vì thảm họa này cũng bày tỏ sự bất bình. Điều này là đáng sợ đối với Đảng Cộng sản Việt Nam” (!)…
“Mượn gió bẻ măng” và “theo đóm ăn tàn”, những kẻ bất đồng chính kiến, những nhà “đấu tranh dân chủ”, một số tổ chức “xã hội dân sự” nhân cơ hội này tiếp tục có những động thái hô hào, cổ vũ cho cái gọi là “thúc giục mọi người chung tay để đấu tranh với vấn đề Formosa”. Nào là lén lút, âm thầm sản xuất phim về sự cố môi trường biển để tán phát trên mạng xã hội hòng mang đến “cho những người ở xa hiểu hơn vấn đề thảm họa môi trường ở Việt Nam”. Nào là kêu gào quyên góp, ủng hộ cho Quỹ “Thương về miền Trung” mà thực chất chỉ nhằm phục vụ cho các hoạt động lôi kéo, kích động những người dân nhẹ dạ cả tin tụ tập đông người để tạo áp lực với chính quyền. Nào là trao “thỉnh nguyện thư” của các tổ chức “xã hội dân sự” để vận động chính giới quốc tế can thiệp, hậu thuẫn cho ngư dân miền Trung khởi kiện Công ty Formosa.
Trong khi đó, lợi dụng chính sách bảo đảm tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và được sự tiếp tay của thế lực thù địch bên ngoài, có kẻ đã kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có mặt và chứng kiến đoàn người đi khởi kiện Formosa, một “nhà báo độc lập” đã tuyên bố “hùng hồn”: “Lời khuyên của tôi mà có thể ngắn nhất, gọn nhất dành cho nhà cầm quyền Việt Nam là: Hãy trở về với nhân dân! Hãy trả lại cho nhân dân những gì đã bị cướp đi. Còn lời khuyên cho người dân Việt Nam là: Hãy giành lấy những gì của mình bởi vì tự do không bao giờ được cho không” (!)
Thật không khó để nhận diện những ý kiến, nhận định, hành vi trên không chỉ nhằm xuyên tạc, đánh lạc hướng dư luận, mà còn ra sức đơm đặt, dệt thêu, đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa vấn đề ô nhiễm môi trường biển với vấn đề chính trị, lợi dụng đấu tranh phòng, chống ô nhiễm môi trường biển để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân và đoàn kết lương-giáo, làm lung lay niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ. 
Đã gần một năm trôi qua, sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra là một thảm họa môi trường biển lớn nhất xảy ra tại Việt Nam từ trước đến nay. Đại diện công ty này đã cúi đầu nhận lỗi trước Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam, đồng thời đã cam kết bồi thường 500 triệu USD (tương đương hơn 11.000 tỷ đồng) để khắc phục sự cố nghiêm trọng này.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn nhận: Sự cố môi trường biển miền Trung tháng 4-2016 diễn ra trên diện rộng, gây ra hậu quả lớn về kinh tế, xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài; đã ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản, làm muối, dịch vụ hậu cần nghề cá, du lịch; làm xáo trộn an ninh trật tự, gây tâm lý bức xúc, bất an trong một bộ phận nhân dân.
Để góp phần khắc phục hậu quả do sự cố môi trường này gây ra, Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành Trung ương và các cấp chính quyền địa phương đã khẩn trương đề ra các giải pháp để sớm ổn định cuộc sống và lao động của bà con ngư dân ở các tỉnh miền Trung. Ngày 29-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về định mức bồi thường thiệt hại cho bà con ngư dân tại 4 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế bị thiệt hại vì sự cố môi trường biển do Formosa gây ra. Theo đó, có 7 nhóm đối tượng thiệt hại được xác định bồi thường gồm: Khai thác hải sản; nuôi trồng thủy sản; sản xuất muối; hoạt động kinh doanh thủy sản ven biển; dịch vụ hậu cần nghề cá; dịch vụ du lịch, thương mại ven biển; thu mua, tạm trữ thủy sản. Chỉ ít ngày sau đó, ngày 7-10-2016, Bộ Tài chính đã tạm cấp 3.000 tỷ đồng cho 4 tỉnh miền Trung bị thiệt hại. Từ đó đến nay, hầu hết ngư dân bị thiệt hại đã được nhận tiền đền bù từ khoản tiền này. Đại đa số bà con nhận tiền đền bù đều hài lòng, phấn khởi trước sự quan tâm hỗ trợ kịp thời của Đảng và Nhà nước. Nhiều gia đình nhận tiền bồi thường đã liên kết với nhau đóng tàu mới có công suất lớn để tiếp tục đánh bắt xa bờ, yên tâm lao động và từng bước ổn định cuộc sống.  
Có thể nói rằng, sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung đã để lại cho chúng ta một bài học đắt giá về công tác quản lý môi trường. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự cố đáng tiếc này, theo như phân tích của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, đó là do nhận thức, ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của chủ đầu tư, một số ngành, cấp chính quyền, tổ chức kinh tế còn hạn chế; tình trạng chú trọng lợi ích kinh tế trước mắt, coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường còn khá phổ biến, nhất là trong quá trình thẩm định, xét duyệt, thực hiện các dự án đầu tư”.
Không chỉ kết luận công khai, chỉ rõ nguyên nhân gây ra thảm họa môi trường biển, Đảng, Nhà nước ta còn xác định cụ thể những tập thể, cá nhân liên quan đến trách nhiệm sự cố này. Mới đây, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp, xem xét, kết luận Ban cán sự Đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường giai đoạn 2008-2016 và Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Hà Tĩnh các nhiệm kỳ 2004-2011, 2011-2016 đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, buông lỏng quản lý; để xảy ra vi phạm trong công tác thẩm định, phê duyệt, chấp thuận thay đổi đánh giá tác động môi trường, cũng như sai phạm trong việc phê duyệt, cấp phép và quản lý nhà nước đối với dự án Formosa Hà Tĩnh. Những vi phạm, khuyết điểm của Ban cán sự Đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Hà Tĩnh là nghiêm trọng, đến mức phải xem xét, thi hành kỷ luật. Cùng với đó, nhiều cán bộ lãnh đạo của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, lãnh đạo Tổng cục Môi trường và lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, lãnh đạo Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng liên quan đến sự cố môi trường biển miền Trung cũng bị xem xét, xử lý kỷ luật. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta rất nghiêm minh đối với những tập thể, cá nhân vi phạm khuyết điểm, chứ không dung túng, bao che, “đóng cửa bảo nhau”, né tránh trách nhiệm để “mọi việc đâu lại vào đó”… như một vài ý kiến từng lan truyền trên mạng.
Sau sự cố môi trường biển miền Trung, Đảng và Nhà nước ta đã có thêm kinh nghiệm về việc nhìn nhận, đánh giá, giải quyết, xử lý những “điểm nóng” về môi trường, không ngừng nỗ lực tìm ra các giải pháp phù hợp, khả thi để vừa đẩy nhanh phát triển kinh tế-xã hội mà vẫn bảo đảm giữ gìn, bảo vệ được môi trường trong lành. Đúng như Thủ tướng Chính phủ đã tuyên bố, cam kết trước quốc dân đồng bào: “Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi tư duy phát triển, không đánh đổi môi trường lấy kinh tế gây ảnh hưởng cuộc sống bình yên của người dân!”.
Thông điệp đó của người đứng đầu Chính phủ cùng ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta đang chung sức, nỗ lực khắc phục hậu quả sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung bước đầu đã đạt được hiệu quả tích cực, là minh chứng rõ ràng, nhất quán về con đường, mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. Đó cũng là minh chứng phủ nhận, bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề ô nhiễm môi trường biển miền Trung để chống phá Đảng, Nhà nước và chống phá cách mạng Việt Nam.  

                                                                                                 Q.C.504

Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

CHỐNG LẠI ÂM MƯU LỢI DỤNG CHIÊU BÀI TÔN GIÁO CỦA
CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG, THÙ ĐỊCH

 

Chiêu bài tôn giáo mà các thế lực phản động, thù địch đang sử dụng hiện nay là âm mưu để chúng kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội đối của đất nước ta. Chiêu bài này, được chúng xem như những cách làm dân chủ, nhân quyền, dân tộc mà chúng đã và đang chuốc lấy thất bại.

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Mặc dù nguồn gốc, đặc điểm và thời điểm hình thành, phát triển của mỗi tôn giáo có khác nhau, nhưng nhìn chung các tôn giáo luôn có tinh thần bao dung, đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung cùng niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước” được ghi nhận và tôn vinh.
Nhận thức đúng vai trò của các tôn giáo và các tín đồ tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm, chính sách đúng đắn về vấn đề này và khẳng định: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; trên cơ sở đó, thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hệ thống giáo lý, giáo luật và quy định của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Chính sách tôn giáo đúng đắn đó đã có tác dụng cổ vũ, động viên đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo phấn khởi, chung sức, chung lòng cùng cộng đồng, làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
Thế nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thù địch và dã tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước ta thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình” với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, vấn đề “tôn giáo” được chúng sử dụng như một vũ khí đặc biệt quan trọng để xuyên tạc, vu khống, kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị-xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng chống đối, hậu thuẫn về vật chất, tinh thần đối với những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong các tôn giáo; thúc đẩy thành lập các hội đoàn trái pháp luật trong xứ đạo để thách thức, chống phá chính quyền. Cùng với đó, chúng tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dư luận về sự đối lập hệ tư tưởng giữa “hữu thần” với “vô thần”, giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới quan cộng sản hoặc vu cáo, xuyên tạc “Cộng sản diệt đạo”, “Nhà nước đàn áp tôn giáo”; từ đó, kích động mâu thuẫn, tập hợp lực lượng, tổ chức biểu tình, gây rối trật tự, mất ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn...
Đáng chú ý, thời gian qua, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội của chính quyền các cấp về vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, … các phần tử cực đoan trong tôn giáo nói chung, công giáo nói riêng, ra sức “bới lông, tìm vết”, tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với giáo lý tôn giáo. Mới đây, trên trang mạng tiếng Việt của một hãng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam tung lên bài viết “Ô nhiễm môi trường đe dọa ổn định ở Việt Nam”, xuyên tạc rằng: “… hầu hết người Việt Nam bất bình với Đảng Cộng sản đã cho phép một công ty nước ngoài xả độc ra biển. Nhiều người dân miền Trung đã tham gia các cuộc biểu tình đòi Formosa và Chính phủ bồi thường quyền lợi thích đáng. Kể cả nhiều người không bị ảnh hưởng vì thảm họa này cũng bày tỏ sự bất bình...”(!),... Thế là ngay lập tức, những kẻ bất đồng chính kiến, những “nhà đấu tranh dân chủ”, một số tổ chức phản động nhân cơ hội này “theo đóm ăn tàn”, “tát nước theo mưa” nhao nhao hô hào, cổ súy “thúc giục mọi người chung tay để đấu tranh với vấn đề Formosa”. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và được sự tiếp tay của các thế lực phản động bên ngoài, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối, tấn công người thi hành công vụ, đập phá phương tiện, cản trở hoạt động giao thông, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Khi chính quyền thực thi chức trách theo quyền hạn thì chúng vu cáo cơ quan chức năng “đàn áp, bắt giữ và đánh đập” người tham gia biểu tình; tán phát trên mạng xã hội “Thư ngỏ”, “Bản lên tiếng”, “Kháng thư”,… với nội dung vu cáo chính quyền bao che cho Formosa, “đàn áp, đánh đập” những người đi khiếu kiện đòi quyền lợi, kêu gọi người dân khởi kiện Formosa ra Tòa án hình sự quốc tế, “cùng đứng lên đuổi Formosa khỏi Việt Nam”,...
Với mưu đồ chống phá đến cùng, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo đẩy mạnh tuyên truyền, kích động “con chiên ngoan đạo” rằng: “Không ngừng duy trì nhiệt huyết và tính liên tục của các cuộc tuần hành, tụ tập đông người phản đối chính quyền và yêu cầu Formosa ra khỏi Việt Nam vào chủ nhật hằng tuần. Các cuộc tuần hành cần tập trung vào một số địa điểm nhạy cảm, đông người, như: Nhà riêng các lãnh đạo địa phương, công sở, khu công nghiệp, … tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Lấy vụ việc Formosa làm điểm nhấn để tăng cường khoét sâu mâu thuẫn giữa giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung với chính quyền địa phương” và ủng hộ cái gọi là “cuộc chiến” hiện tại của giáo dân. Không những thế, họ còn thay đổi phương thức tụ tập sao cho bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và sinh hoạt, hoạt động sản xuất của giáo dân. Mưu đồ của họ là “chia giáo xứ thành nhiều bộ phận theo các họ đạo, thay nhau tụ tập vào các ngày nghỉ, ngày chính quyền tổ chức cấp phát tiền đền bù, khi cần thiết mới huy động toàn xứ đạo tham gia; thay đổi quy luật, cách thức tụ tập tuần hành...
Tiếp tay cho hành động đó, Ủy ban Tự do Tôn giáo quốc tế/BNG (USCIRF) đã công bố tài liệu tổng kết tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, với những đánh giá thiếu khách quan khi cho rằng: Việt Nam chưa thực sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Tình trạng xâm phạm tự do tôn giáo vẫn diễn ra, nhiều nơi chính quyền địa phương và lực lượng an ninh thường xuyên sách nhiễu, phân biệt các tổ chức tôn giáo, bắt giữ những người “đấu tranh” cho tự do tín ngưỡng tôn giáo; đề nghị Chính phủ Mỹ cần sớm đưa Việt Nam trở lại danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC). Cùng với đó, các thành viên của cái gọi là “Đảng Việt Tân”, trú tại Mỹ thông qua các trang mạng tuyên truyền, xuyên tạc rằng: Đến thời điểm hiện tại (thang 4 năm 2017), Chính phủ Việt Nam “mới đền bù thiệt hại được một phần cho ngư dân, số tiền còn lại các cơ quan chức năng của Việt Nam gửi ngân hàng để chia chác kiếm lợi”; đồng thời, yêu cầu Việt Nam “đóng cửa” Công ty Formosa!... Thật nực cười! Chẳng hiểu họ lấy thông tin từ đâu, với tư cách gì mà có những nhận định và đòi hỏi hồ đồ như vậy. Phải chăng đây là hành động “vì dân, vì nước” của các nhà dân chủ, tổ chức lưu vong? Không, hoàn toàn không! Thực chất đó là những luận điệu lạc lõng, hại dân, hại nước, trò “lập lờ đánh lận con đen”, “đổ thêm dầu vào lửa” hòng đánh lừa dư luận, can thiệp vào tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhưng không che mắt được ai. Hành động của họ không vì cuộc sống của đồng bào ngư dân miền Trung mà chỉ là nhằm lợi dụng “vấn đề formosa” để kích động chống Đảng, Nhà nước và chế độ ta!
Chúng ta đều biết, đã gần một năm trôi qua, sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra là một thảm họa lớn nhất xảy ra tại Việt Nam từ trước đến nay. Để khắc phục hậu quả đó, Đảng, Chính phủ, các ban ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt bằng các giải pháp đồng bộ nhằm sớm ổn định cuộc sống và lao động của bà con ngư dân các tỉnh miền Trung. Với nỗ lực đó, đại diện Công ty Formosa đã phải công khai nhận trách nhiệm và hứa sẽ không tái phạm; đồng thời, cam kết bồi thường 500 triệu USD (tương đương hơn 11.000 tỷ đồng Việt Nam) để khắc phục sự cố nghiêm trọng này. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về mức bồi thường thiệt hại cho bà con ngư dân tại 4 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế bị thiệt hại vì sự cố môi trường biển, theo 7 nhóm đối tượng, gồm: Khai thác hải sản; nuôi trồng thủy sản; sản xuất muối; hoạt động kinh doanh thủy sản ven biển; dịch vụ hậu cần nghề cá; dịch vụ du lịch, thương mại ven biển; thu mua, tạm trữ thủy sản. Các địa phương trong diện được đền bù đã thành lập ban quản lý, điều hành cấp phát cho bà con theo các nhóm đối tượng; Quy chế Dân chủ ở cơ sở được phát huy; những nơi làm chưa đúng được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời. Đến nay, hầu hết những người bị thiệt hại đã được đền bù và đều hài lòng, phấn khởi trước sự quan tâm hỗ trợ thỏa đáng của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, tạo niềm tin vững chắc để họ tiếp tục yên tâm bám biển, vươn khơi đánh bắt hải sản, cải thiện cuộc sống gia đình, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thực tế là vậy, nhưng các thế lực phản động, phần tử cực đoan trong tôn giáo không những không thừa nhận, mà còn cố tình lờ đi như người không có mắt, hơn thế còn ra sức xuyên tạc, bịa đặt, “bóp méo sự thật”, “đổi trắng thay đen” về những gì đang diễn ra trên mảnh đất này. Thật nực cười, trớ trêu!
Sự chống phá quyết liệt của những kẻ cực đoan trong tôn giáo cùng sự “hà hơi, tiếp sức” của các thế lực thù địch bên ngoài nguy hiểm ở chỗ làm cho một số người “nhẹ dạ cả tin” trong bà con giáo dân lầm tưởng rằng việc làm đó là đi theo “tiếng gọi của Chúa” mang phúc lộc cho các con chiên ngoan đạo để rồi nghe lời xúi giục kích động của họ tham gia tụ tập, biểu tình, gây rối vi phạm pháp luật. Chúng ta hãy cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình đội lốt tôn giáo trước ánh sáng công lý và pháp luật. Đó là việc cần làm và nhất thiết phải làm của tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính.
Q.C.504


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...