Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

Nhận diện “comment bẩn” từ thực tiễn online

Lợi dụng mặt trái của mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình tán phát các thông tin xấu độc, không đúng sự thật lên không gian mạng, rồi tạo ra các bình luận nhằm lôi kéo, kích động cộng đồng mạng tham gia, thành lập các hội, nhóm tự phát để bàn tán, chỉ trích, xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín người khác.

Mục tiêu của họ là gieo rắc các nhận thức sai lầm, tâm lý hoài nghi, tâm trạng bất an, bức xúc trong xã hội và cộng đồng; ngấm ngầm kích động các tư tưởng bất tuân, chống đối luật pháp, chuẩn mực xã hội, cộng đồng; xúi giục các hành vi bạo loạn, bạo lực... Nhiều người gọi đây là những “comment bẩn”.

Nguy hại "comment bẩn"

Trên thực tế, “comment bẩn” có khá nhiều dạng. Dạng dễ nhận thấy nhất là những comment tục tĩu. Những “comment bẩn” dạng này thường là những lời nói bậy bạ, vô văn hóa, văng tục, chửi thề, song thường thì câu từ không có nhiều ý nghĩa cụ thể mà chỉ nhằm mục đích a dua phá hoại. Loại này có thể dễ dàng gặp ở những diễn đàn không có người quản lý trực tiếp (admin) hoặc những trang mạng có bộ lọc ngôn từ không cao. Tuy nhiên, số lượng comment loại này thường rất nhiều nên dễ vượt quá sự kiểm soát.

Dạng “comment bẩn” thứ hai tinh vi hơn, dễ lọt lưới kiểm soát hơn vì nhìn thoáng qua tưởng chừng vô hại. Những kẻ thường xuyên tung “comment bẩn” dạng này bỏ thời gian để theo dõi xem những người còn lại trong diễn đàn đang nói về điều gì để bắt lỗi, chất vấn... những bình luận này thường gay gắt hơn mức bình thường. Người đưa ra bình luận luôn sẵn sàng đối đáp kịch liệt với “chủ thớt” (cách gọi của cư dân mạng để chỉ người lập ra topic) để chứng minh nhận xét của mình, cứ như vậy sẽ tạo nên làn sóng lan truyền trên mạng.

Dạng “comment bẩn” thứ ba là những comment do chính “chủ thớt” nêu ra để làm chủ đề bàn luận cho cư dân mạng tham gia hoặc mượn một topic nào đó và đưa ra nhận xét, bình phẩm, đánh giá của mình, từ đó lôi kéo, kích động người khác cùng bình luận nhằm đạt được ý đồ. Dạng “comment bẩn” này thường được dựng lên có chủ đích rõ ràng, có thể vì mục đích chính trị, kinh tế, xã hội... Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến dạng “comment bẩn” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội, truyền thông xã hội để xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, xúc phạm danh dự các vị lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội...

Những người thực hiện thủ đoạn này được đào tạo khá bài bản với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nên họ thực hiện ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Đối tượng họ hướng đến là các lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và những người có vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước hoặc cán bộ, đảng viên thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Dạng thức phổ biến là: Xuyên tạc, bịa đặt về lịch sử thân thế, sự nghiệp; xúc phạm đời tư, cuộc sống gia đình, gán ghép các mối quan hệ xã hội... Để tăng hiệu quả, họ thường tung thông tin này vào những thời điểm nhạy cảm về chính trị, như: Những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước; trước, trong và sau dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn; đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp...

Ngoài ra, họ còn mượn một hiện tượng, một cá nhân cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất bị pháp luật nghiêm trị để đánh tráo khái niệm, quy chụp, đánh đồng thành bản chất chế độ xã hội, bản chất của Đảng và Nhà nước. Chỉ cần một hành động, một câu nói nào đó của cán bộ, đảng viên cũng bị họ phân tích, mổ xẻ, xuyên tạc ở nhiều góc độ để thêu dệt thành những câu chuyện thị phi rùm beng. Thậm chí, họ còn cố tình dàn dựng những “cạm bẫy” nhằm kích động, làm cho những cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm, mất kiềm chế trong những tình huống cụ thể để tổ chức quay phim, chụp hình rồi cắt ghép, chỉnh sửa, thêu dệt thành những câu chuyện gây bức xúc trong “dư luận”. Hơn thế nữa, họ còn rất thạo các cách thức để thổi phồng sự việc, để thu hút người theo dõi, tạo điểm nóng trong “dư luận”. Từ một hành động nhỏ chưa phù hợp của một cán bộ, đảng viên nào đó, họ có thể "vẽ" thành một bức tranh toàn cảnh về đạo đức, lối sống, về nghệ thuật xã giao, văn hóa công vụ... của cả một cơ quan, đơn vị, của Đảng, của xã hội rồi đem so sánh với các nước khác, bất chấp sự khập khiễng. Nguy hiểm hơn, để hướng dư luận theo mưu đồ của mình, họ chặn hoặc loại bỏ những bình luận trái chiều, ý kiến đấu tranh của những người có chính kiến để tạo nên dạng thông tin một chiều có lợi cho mục đích chống phá.

Không khó để nhận ra đây là những thủ đoạn của hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Bởi vì, thủ đoạn dù có tinh vi đến đâu, xảo quyệt thế nào thì bản chất cũng chỉ là chiêu trò “bình mới, rượu cũ”. Vấn đề đặt ra ở đây là đã có không ít người dân vì tính hiếu kỳ, nhận thức đơn giản, phiến diện, thậm chí một bộ phận cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ vô tình hoặc cố ý tham gia “góp ý” rất sôi nổi tạo nên một “làn sóng” lan truyền nhanh chóng với hàng nghìn, thậm chí hàng triệu “comments”, qua đó giúp cho các thế lực thù địch, phản động đạt được ý đồ chống phá. Vậy làm thế nào ngăn chặn là câu hỏi đặt ra cấp thiết đối với các cơ quan hữu quan, các ban, ngành và cả những người tham gia mạng xã hội.

Làm thế nào để ngăn chặn "comment bẩn"?

Thứ nhất, đối với các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước và các chủ thể quản lý pháp luật về an ninh mạng: Cần chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường các biện pháp giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của công dân về pháp luật, nhất là Luật An ninh mạng; các chỉ thị, quy định về cung cấp, phát triển, sử dụng các nền tảng mạng xã hội; ý thức, trách nhiệm và những nguyên tắc khi tham gia các nền tảng mạng xã hội của người dân. Hoàn thiện các quy định về quản lý thông tin trên mạng xã hội; tập trung nghiên cứu xây dựng luật về quản lý thông tin trên mạng, Luật An ninh mạng để có thể tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp; tích cực xây dựng khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng và quản lý tốt mạng xã hội.

Các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội thực hiện nghiêm túc Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, hướng tới xây dựng môi trường mạng xã hội lành mạnh, an toàn tại Việt Nam. Các cá nhân, tổ chức cần phải có trách nhiệm pháp lý với các thông tin đưa lên mạng xã hội nhằm hạn chế tối đa những phát ngôn “vô tội vạ”, xâm phạm đời tư, hạ thấp uy tín, bôi nhọ danh dự của cá nhân, tổ chức trên mạng xã hội. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản thực hiện Luật Báo chí, trong đó chú trọng việc nâng cao vai trò định hướng thông tin của các cơ quan báo chí chủ lực, tích cực, chủ động phê phán, phản bác thông tin xấu, độc trên mạng xã hội để góp phần khắc phục những mặt trái của truyền thông xã hội.

Thứ hai, đối với các chủ thể cung cấp mạng xã hội: Các nhà cung cấp, khai thác dịch vụ mạng, nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện rõ sự hợp tác và tuân thủ các quy định khi vào hoạt động tại Việt Nam, như: Đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh, các topic cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, xúc phạm các cá nhân, tổ chức, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật... Đồng thời, cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng.

Thứ ba, đối với các cơ quan quản lý, giám sát các phương tiện truyền thông: Cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội, thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị. Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan và của cả hệ thống chính trị để xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, gây hại như: Lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán phát tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước trên internet, mạng xã hội...

Tăng cường các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, bóc gỡ, loại bỏ những thông tin độc hại, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Việt Nam. Đây là biện pháp rất cần thiết và hữu hiệu trong bối cảnh hiện nay. Các đơn vị chuyên trách về an ninh mạng cần kịp thời hỗ trợ với các tổ chức, cá nhân khi phát hiện dấu hiệu “lỗ hổng” bảo mật và cả khi bị tội phạm tin học tấn công để khắc phục và tạo lập môi trường mạng lành mạnh, trong sạch để người dùng yên tâm khi sử dụng mạng xã hội phục vụ nhu cầu chính đáng của cá nhân, tổ chức.

Thứ tư, đối với người tham gia mạng xã hội: Khi tham gia môi trường mạng, các “cư dân mạng” nên lan tỏa những thông tin, hình ảnh tốt đẹp về các hoạt động xã hội, hoạt động vì cộng đồng, phê phán những thói xấu, biểu hiện lệch lạc, hướng tới thông điệp nhân văn, xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội thanh lịch, văn minh. Đồng thời, cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không sử dụng ngôn ngữ lai căng, tục tĩu, có tính bạo lực; chỉ đăng, phát thông tin rõ nguồn gốc, đã được kiểm chứng. Đặc biệt, không được lập nhóm, hội để nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm người khác hoặc công kích lẫn nhau; không “vào hùa” theo đám đông khi chưa hiểu rõ về vụ việc hoặc không có căn cứ. Trong quá trình đăng tải các thông tin, các cư dân mạng không đăng những thông tin bịa đặt, thông tin vi phạm pháp luật; không sử dụng những ứng dụng không rõ nguồn gốc để tránh bị làm phiền bởi các tin rác hay bị lấy cắp thông tin tài khoản. Các “cư dân mạng” cần nắm rõ và tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng. Trên cơ sở đó, mỗi người cần biến tài khoản mạng xã hội của mình thành một kênh thông tin lành mạnh và thực hiện truyền thông xã hội trên tinh thần trách nhiệm cộng đồng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình, phản bác... những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Khi tham gia mạng xã hội, các “cư dân” cần trang bị các kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin. Việc người dùng nâng cao "sức đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên mạng xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc.

Trung tá, TS LÊ ĐỨC THẮNG (Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự)

Nguồn: Báo QĐND

Nguy hại từ sự thờ ơ, vô cảm của cán bộ, công chức

Trong khi dư luận nói nhiều đến tình trạng cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, không dám làm khiến hàng loạt công việc đình trệ thì một hiện tượng khá phổ biến và cũng là “trọng bệnh” của đội ngũ cán bộ, công chức, đó là tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc, nhất là giải quyết công vụ. Đây là vấn đề đáng lo ngại bởi những hệ lụy mà nó gây nên.

1. Có việc liên quan đến giấy tờ nhà đất tôi buộc phải đến Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính (Bộ phận một cửa) của quận để thực hiện. Khu vực chờ đợi của người dân đông đúc, ngột ngạt, cũng không có nước uống. Để tiết kiệm thời gian, người dân chủ động phần kê khai trên hồ sơ trước nhưng bàn viết không có, cứ tự kê lên đùi mà viết. Cán bộ giải quyết công vụ ngồi ngăn cách với người dân qua vách kính chắn, thỉnh thoảng lại đưa điện thoại lên nhắn tin, ai thắc mắc thì hướng dẫn đại khái qua một ô kính nhỏ. Người có chút kinh nghiệm, tai thính thì ít hỏi lại, còn phần lớn người đi làm thủ tục lần đầu đều bỡ ngỡ: “Cái gì cơ? Viết vào đây ạ? Chỗ này viết gì anh, chị nhỉ? Rồi thỉnh thoảng lại có tiếng gắt gỏng, khó chịu kiểu ban phát từ người nhận hồ sơ. Chỉ cách nhau qua tấm kính mà cảm giác như công chức và người dân xa vời vợi. Trên thực tế, nhiều cán bộ nhận hồ sơ biết rõ giấy tờ có sai sót nhưng không nói ngay, có số điện thoại trên hồ sơ cũng chả gọi mà đến ngày trả kết quả mới nói là hồ sơ sai cần làm lại. Họ cứ vin vào các quy định cứng nhắc, thậm chí có người cố tình làm cho nó cứng nhắc hơn vì lý do khác.

Theo nghĩa hiểu chung nhất thì tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm nghĩa là mặc kệ. Đây là trạng thái trơ lì của cảm xúc, dửng dưng với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Cách làm việc này không khác gì một cái máy, không khẩn trương, không vội, không vì ai và đặc biệt, không cảm xúc. Họ vẫn làm việc nhưng không có trách nhiệm với công việc, với những người xung quanh; miễn là đánh trống, ghi tên đủ 8 tiếng ngồi ở cơ quan. Cũng có thể chất lượng công việc không quá tệ nhưng hoàn toàn không có tư tưởng đổi mới hay đột phá, còn đòi hỏi họ dấn thân, dám nghĩ, dám làm thì thật xa xỉ. Đó là thứ văn hóa không nhúc nhích, đợi nhắc thì làm, không nhắc cũng vẫn làm nhưng chậm trễ khi xử lý các nhiệm vụ được giao.

Tựu trung lại, có thể lý giải cho hiện tượng tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc của cán bộ, công chức đến từ mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất, đó là lối sống thực dụng, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Lối sống này khiến cán bộ, công chức có nhận thức và hành vi lệch lạc về trách nhiệm, về nghĩa vụ của mình, nhất là trong vai trò "công bộc" khi tiếp xúc và hành xử với dân; cho rằng mình có quyền ban phát, người khác phải cần mình mà không hiểu rằng, nghĩa vụ của mình là phục vụ, cao nhất là phục vụ nhân dân. Thứ hai, đó là những người luôn đòi hỏi cho cá nhân, nhất là lợi ích vật chất nhưng không bao giờ chịu hy sinh, thiệt thòi vì tập thể. Khi không được đáp ứng lợi ích đó, họ cứ dửng dưng không làm. Thứ ba, đó là những người thụ động. Mọi thứ với họ cứ làng nhàng, từ học hành, kiến thức, kỹ năng đến động cơ, thái độ, trách nhiệm trong công việc. Với họ “sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội”, vì làm việc trong môi trường bao cấp nên lương đã có Nhà nước trả, không phải bận tâm đến cơm áo gạo tiền. Thứ tư, đó là những người có xuất thân từ những gia đình có điều kiện, hoặc về kinh tế, hoặc về chính trị. Họ chỉ cần có một chỗ làm việc, một vị trí trong cơ quan công quyền để lấy vị thế và được bảo đảm các quyền lợi cho cá nhân. Những người như thế cũng không mưu cầu sự thăng tiến, cũng không có động lực phấn đấu cho công việc. Việc làm giàu của họ thường ở môi trường khác, hoặc có người khác làm giàu cho họ. 

2. Tâm lý, thái độ thờ ơ gây ra bệnh vô cảm của công chức, một loại bệnh đang được xem là “trọng bệnh”. Ngành y không có khái niệm bệnh vô cảm nên cũng không đưa ra phác đồ điều trị. Đây là căn bệnh do lối sống, môi trường và cách hành xử của con người tạo ra. Hệ lụy của tình trạng thờ ơ, vô cảm của công chức là vô cùng tệ hại, mà tệ hại nhất là thủ tiêu động lực làm việc, vươn lên của tập thể. Những cán bộ, công chức thờ ơ, vô cảm thường rất lười đi cơ sở và xa rời thực tiễn cơ sở. Chính vì lười đi cơ sở, không chịu va chạm với thực tiễn nên không nắm được công việc, quan liêu trong lĩnh vực mình quản lý, giải quyết. Thậm chí nếu được giao chức năng tham mưu để ban hành những chủ trương, chính sách, quyết sách thì đó là những “quyết định trên trời” gây bức xúc dư luận.

Trong một tập thể có những người thờ ơ, vô cảm với công việc thường dễ lây lan tâm lý này sang những người khác. Bởi nếu anh “sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội” mà không bị xử lý thì tôi cũng sẽ thế được, dần trở thành tâm lý đám đông. Khi con người không có động lực làm việc, giải quyết công việc không vì người khác thì sẽ không bao giờ dành hết trí lực cho công việc, không có tư tưởng nghĩ ra việc, tìm đến việc. Tệ hại là, số cán bộ, công chức thờ ơ, vô cảm, làng nhàng này lại không dễ gì đưa họ ra khỏi bộ máy công quyền. Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) từng phát biểu trước Quốc hội khi thảo luận về Bộ luật Lao động (sửa đổi) rằng: “Có những người mặc dù đã đến tuổi nghỉ hưu theo luật hiện hành, trong khi công việc làm năng suất không cao, "sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về", chỉ ở mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng không muốn nghỉ hưu, chờ cho đến đúng tuổi mới nghỉ”. Vì điều đó mà những người mới, nhất là những người trẻ có hoài bão, tâm huyết và trí tuệ, muốn được cống hiến trong bộ máy công quyền cũng khó có vị trí.

Trên thực tế, nghiên cứu khái quát của các nhà quản lý trong lĩnh vực công chức, viên chức đưa ra con số khoảng 30% cán bộ, công chức “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”. Xin dẫn lại một phát biểu năm 2013 của Phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khi ấy tại cuộc họp thứ nhất Ban chỉ đạo Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Điều này khiến cho bộ máy công quyền cồng kềnh trong khi công việc vẫn bị xem là chưa chạy. Trong khi đó, ngân sách nhà nước để nuôi bộ máy là không hề nhỏ mà đáng ra một phần số ngân sách này có thể tiết kiệm được.

Không chỉ vậy, những cán bộ có tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm trong giải quyết công vụ luôn ám ảnh người dân có suy nghĩ tiêu cực về đội ngũ cán bộ công quyền, những người được xem là công bộc của dân. Họ rất ngại đến cơ quan công quyền, trừ việc bất đắc dĩ. Tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm của công chức đã hình thành nên tư tưởng cho mình là người có quyền ban phát. Bởi thế lâu nay, khi người dân làm việc với cơ quan công quyền thường bị mặc định từ “xin” ở đó. Nguyện vọng, quyền lợi gì cũng mặc định trong “Đơn xin...”. Xin cho con đi học, xin giấy khai sinh, xin giấy khai tử, xin xác nhận hộ khẩu... Đây là quyền lợi chính đáng của người dân, đặc quyền của công dân được hưởng thụ dưới chế độ của Nhà nước ta. Vậy thì cán bộ cơ quan công quyền phải có nghĩa vụ thực hiện cho người dân chứ không phải là ban phát hay đặc quyền ở đó.

3. Dưới chế độ của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì cán bộ, công chức là công bộc của dân. Cũng có nghĩa, mọi cán bộ, công chức phải hết lòng, hết mình trong giải quyết công vụ, vì nhân dân phục vụ, tự mình đấu tranh với chính mình để loại bỏ tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm, cách làm việc làng nhàng không hiệu quả.

Trở lại từ lý luận, Các Mác từng có một luận điểm mang tính kinh điển, đã trở thành nền tảng, cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm này đã được ông luận giải một cách rất thuyết phục. Những cán bộ, công chức và chính mỗi người có tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc nguyên nhân chính là do họ và họ là người quyết định điều đó trong môi trường đó. Môi trường làm việc rất quan trọng và có tác động lớn đến tình cảm, thái độ, trách nhiệm của mỗi người. Con người trong tập thể nếu không chịu va đập, không bị va đập, không qua trải nghiệm, gắn mình với thực tiễn sẽ ngày càng thờ ơ và ít sự cảm thông trong đời sống xã hội. Bởi thế, ở đâu môi trường làm việc yêu cầu cao, sự nghiêm túc, trách nhiệm, sự đánh giá công tâm, công bằng, thì ở đó mỗi cán bộ, công chức sẽ có động lực để thay đổi mình, buộc phải thay đổi mình.

Từ thực tiễn, chính các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong bộ máy Nhà nước phải đánh giá đúng thực chất hiệu quả công việc của công chức do mình quản lý. Ai cũng thấy nhiều cán bộ, công chức làm việc không hiệu quả theo kiểu “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về” diễn ra ở các cơ quan công quyền nhưng tỷ lệ báo cáo đánh giá chất lượng cán bộ, công chức hằng năm của hầu hết các cơ quan, đơn vị thường trên 90% hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều cơ quan, tỷ lệ này rất cao, thậm chí gần 100%. Chính việc đánh giá cán bộ không đúng, phân loại nể nang, không bám vào tiêu chí đã dẫn đến tình trạng “đánh bùn sang ao”, cán bộ làm tốt cũng như chưa tốt. Bất cập này khiến người làm tốt bị mất động lực phấn đấu, trong khi người chưa hoàn thành, hoàn thành thấp nhiệm vụ vẫn nghiễm nhiên tại vị, vẫn được hưởng đầy đủ các chế độ của một công chức. Và đương nhiên, họ cũng không có động lực để thay đổi chính mình. Dù Luật Cán bộ, công chức quy định nếu cán bộ hai năm không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ loại ra khỏi đội ngũ nhưng trên thực tế hằng năm vô cùng ít cán bộ bị loại khỏi bộ máy công quyền với lý do là không hoàn thành nhiệm vụ. Vậy nên, cốt lõi để làm cho mọi cán bộ, công chức thay đổi thái độ, trách nhiệm làm việc của mình thì tổ chức phải đánh giá đúng hiệu quả công việc của họ.

NGUYỄN HÀ MY

Nguồn: Báo QĐND

Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Cán bộ, công chức làm việc cầm chừng làm cản trở sự phát triển đất nước

Phát biểu trong phiên thảo luận tổ về kinh tế - xã hội sáng 25-5, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà thừa nhận tình trạng hiện nay có không ít cán bộ, công chức, viên chức làm việc cầm chừng, đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà không nói thêm về biểu hiện cụ thể của tình trạng này nhưng khẳng định đây là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị.

“Bởi lẽ, những biểu hiện đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức đã vi phạm các quy định theo nghị quyết của Đảng, trước hết là Nghị quyết số 04 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những biểu hiện này cũng vi phạm các quy định của Luật Chính quyền địa phương; Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Cán bộ, công chức", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà khẳng định.

“Phải khẳng định như vậy và có thái độ rất rõ ràng về biểu hiện này”, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nói và nhấn mạnh: Chúng ta không thể bênh che với các biểu hiện này trong bối cảnh đất nước đang rất khó khăn, tình trạng như vậy làm cản trở phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; làm giảm niềm tin của nhân dân với đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nói.

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cũng cho biết, thời gian vừa qua, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm vấn đề này, Chính phủ đã có rất nhiều chỉ đạo, chỉ thị, công điện về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong cơ quan hành chính Nhà nước. Bộ Nội vụ cũng đã có tham mưu để giải quyết vấn đề này.

Một giải pháp được Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh là giải pháp hàng đầu là về tư tưởng, nhận thức. Đó là, cần đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, pháp luật liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, đơn vị, đặc biệt là trách nhiệm, nhiệm vụ mà cán bộ, công chức phải thực hiện.

Đặc biệt, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh, phải xóa bỏ nhận thức của một bộ phận công chức là “không làm thì không sai, thà đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước tòa”.

“Đây là nhận thức rất nguy hiểm, ảnh hưởng rất lớn xây dựng công vụ, chức trách nhiệm vụ của cán bộ, công chức", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh và cho biết, trong bối cảnh hiện nay, hơn lúc nào hết phải vượt lên khó khăn, thách thức để thực hiện nhiệm vụ này.

Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế. Bởi lẽ, hệ thống chính sách có mặt còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn nên quá trình thực thi công vụ cũng sẽ có khó khăn, rào cản, vướng mắc.

“Khi thực hiện nhiệm vụ liên quan đến các lĩnh vực như đầu tư, tài chính, ngân sách, đầu tư công, phát triển doanh nghiệp... dễ dẫn đến sai khi cán bộ, công chức thực thi chưa hiểu, nhận thức hết quy định của pháp luật, dễ dẫn đến tâm lý sợ sai”, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà lý giải.

Do đó, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho rằng, việc hoàn thiện thể chế là rất quan trọng, cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, rà soát bãi bỏ các quy định hoặc thói quen phải xin ý kiến, thỏa thuận, xin chủ trương, thống nhất... Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cũng cho biết đang cho rà soát lại để khắc phục vấn đề này.

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà thông tin: "Chúng tôi tập trung rất cao, tham mưu cho Chính phủ để ban hành nghị định về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung song lại vướng rất nhiều quy định của pháp luật", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà thừa nhận.

“Có những nghị định, nghị quyết này mới đầy đủ tất cả cơ sở hành lang pháp lý, khi đó mới bảo vệ được cán bộ, nếu không cũng rất khó, vì có những quy định trong một số luật đều vướng hết”, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nói và cho rằng, nếu không có nghị quyết của Quốc hội thì "không thể xé rào, vượt rào thực hiện việc này được".

Ngoài ra, Bộ Nội vụ cũng đang nghiên cứu để sửa đổi Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, bởi luật này có nhiều nội dung liên quan đến việc khuyến khích, bảo vệ cán bộ; đây cũng là hành lang pháp lý quan trọng để cán bộ công chức dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Dẫn chứng việc từ Trung ương đến địa phương ở đâu có người đứng đầu dám làm, dám chịu trách nhiệm thì ở đó vẫn phát triển, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh quan điểm cần xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tổ chức. "Suy cho cùng, vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu trong dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và kiên quyết mạnh tay xử lý cán bộ có biểu hiện nêu trên là rất cần thiết và là vấn đề quyết định, không thể đổ cho ai được", Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh.

Nguồn: Báo QĐND

Hậu Covid-19: Căn bệnh sợ trách nhiệm đang lây lan từ ngành y sang các ngành khác

 Phát biểu tại Quốc hội trong phiên họp chiều 29-5, đại biểu Trần Văn Sáu (Đoàn Đồng Tháp) cho rằng phải xử lý nghiêm những vụ vừa bất hợp lý, vừa bất hợp pháp. Đồng thời cũng cần có đánh giá đúng với những việc hợp lý trong bối cảnh phòng, chống dịch nhưng lại bất hợp pháp…

Đại biểu Trần Văn Sáu (Đoàn Đồng Tháp) cho rằng, đại dịch Covid-19 đi qua, bên cạnh những thắng lợi, còn để lại cho chúng ta rất nhiều điều để bàn, để suy nghĩ và quan trọng hơn là để thay đổi.

Ngay từ đầu, chúng ta xác định chống dịch như chống giặc. Tinh thần là khẩn trương, huy động mọi nguồn lực, bằng mọi biện pháp, chấp nhận cả hy sinh để chiến thắng.

Trong phòng, chống dịch, bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu tình huống cần phải quyết định mà không có tiền lệ. Cái hợp lý và hợp pháp đan xen nhau, có việc mâu thuẫn nhau, nên sau đại dịch đã làm cho tâm trạng xã hội rất nặng nề.

Xử lý những việc không hợp lý và cũng không hợp pháp như thế nào đang là vấn đề mà cử tri rất quan tâm. Đại biểu nêu ví dụ về vụ Việt Á, vụ chuyến bay giải cứu đưa công dân Việt Nam từ nước ngoài về nước để cách ly… Đó là những vụ việc đang được nhân dân rất quan tâm.

“Hiệu ứng tích cực là chúng ta xử lý kiên quyết, dứt khoát đối với những người phạm pháp thuộc thành phần lâu nay được cho là khó chạm đến đã và đang có sức lan tỏa mạnh, củng cố niềm tin của Đảng trong dân”, đại biểu Trần Văn Sáu nói.

Tuy nhiên, đại biểu Trần Văn Sáu cũng nhấn mạnh, theo dư luận xã hội thì vẫn còn đó những nỗi buồn. Buồn vì tình người, tình đồng chí và đau hơn là số phận đồng bào, sinh mệnh quốc gia và hình ảnh dân tộc. Do vậy rất cần xử lý những vụ án này một cách nghiêm túc, khẩn trương để ổn định dư luận.

Bên cạnh đó, đại biểu Trần Văn Sáu đặt vấn đề, sau khi chống dịch Covid-19 thành công, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cho thấy có quá nhiều việc hợp lý trong thời điểm đó nhưng lại không hợp pháp trong thời điểm này. 

“Chúng ta ứng xử vấn đề này như thế nào? Tôi thấy rất đồng cảm vì trong chiến dịch chống dịch căng thẳng, cán bộ hành động theo tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, đâu có thời gian để nghiên cứu hết các nghị định, thông tư… mà có khi các văn bản này không thể áp dụng trong thời điểm đó, nên rất cần được chúng ta chia sẻ và xử lý một cách tốt hơn”, đại biểu Trần Văn Sáu nói.

Theo đại biểu Trần Văn Sáu, trước đây, mỗi khi kết thúc một cuộc chiến, việc đầu tiên Đảng ta làm là xem lại ai còn, ai mất. Người mất thì được xem xét, nếu đủ điều kiện thì được công nhận liệt sĩ. Người còn sống thì được tuyên dương công lao đóng góp. 

“Nếu chống dịch như chống giặc thì việc này chúng ta làm chưa tốt. Đề nghị Quốc hội cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này”, đại biểu Trần Văn Sáu bày tỏ trăn trở.

Đại biểu Trần Văn Sáu đặc biệt nhấn mạnh, có rất nhiều ví dụ trong phòng, chống dịch có những quy định nếu áp dụng vào một trường hợp đặc thù thì rất bất hợp lý. Làm theo những điều bất hợp lý thì sẽ không đạt mục tiêu, dù đó là mục tiêu chính đáng. Nhưng làm ngược lại thì có nguy cơ đối mặt với quy trách nhiệm do lỗi cố ý làm trái.

Sau đại dịch xuất hiện ngày càng nhiều, càng nặng hơn căn bệnh sợ trách nhiệm, thu mình, thụ động, dè chừng, ngại đưa ra quyết định. Căn bệnh ấy đang lây lan từ ngành y sang những ngành nghề khác. Đây là vấn đề đang rất cần được quan tâm và phải quan tâm xem xét nhiều chiều. “Nếu pháp luật rõ ràng, chặt chẽ, hợp lý tức là cái hợp lý và hợp pháp song hành mà không áp dụng là vô trách nhiệm. Vấn đề này cần phải loại bỏ ngay”, đại biểu Trần Văn Sáu nói. 

Tuy nhiên, theo đại biểu Trần Văn Sáu thì phải công nhận có những lý do khiến cán bộ, công chức không dám làm vì không biết làm thế nào cho đúng. Văn bản pháp luật vẫn còn những chỗ chưa rõ, sơ hở, mâu thuẫn, hỏi cấp trên thì được trả lời rất chung chung: Cứ theo quy định của pháp luật mà làm.

Có những việc người thực thi hiểu luật và giải quyết công việc một cách, nhưng người có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra lại hiểu luật và đánh giá công việc theo một cách khác thì người thực thi công vụ nhất định sẽ gặp rắc rối.

Do vậy, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo ra hành lang pháp lý để khuyến khích mọi người tự tin làm việc, đại biểu Trần Văn Sáu đề nghị Quốc hội cần có cơ chế để người có thẩm quyền đánh giá hành vi người khác cần áp dụng luật để phán xét làm cho cái hợp pháp thực sự là hợp tình và hợp lý.

Nguồn: BQĐND

"Liều thuốc" nào đặc trị căn bệnh sợ sai, sợ trách nhiệm?

Đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi, tại sao từ trước tới nay không xuất hiện hiện tượng cán bộ sợ trách nhiệm mà đến nay mới xuất hiện? Không những thế, tình trạng này còn lan rộng từ Trung ương đến địa phương và tiếp tục lan rộng từ khu vực công sang khu vực tư.

Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ năm, ngày 31-5, Quốc hội dành toàn bộ thời gian làm việc để thảo luận ở hội trường về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2022; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2023.

Là đại biểu phát biểu đầu tiên, đại biểu Trần Quốc Tuấn (Đoàn Trà Vinh) bày tỏ phấn khởi trước những kết quả đạt được ở lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước trong năm 2022 và những tháng đầu năm 2023, đặc biệt trong bối cảnh nhiều nước trong khu vực và thế giới phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức và nguy cơ rơi vào suy thoái kinh tế.

Đại biểu đánh giá, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có những quyết sách đúng đắn, kịp thời giúp kinh tế nước ta phục hồi nhanh sau đại dịch Covid-19 và đạt được những kết quả khá toàn diện, tích cực trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, an sinh xã hội được quan tâm, quốc phòng, an ninh được tăng cường, chỉ số giá tiêu dùng CPI và các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm.

Đồng tình với Chính phủ về nội dung hạn chế đã nêu, tuy nhiên, đại biểu Trần Quốc Tuấn đặt câu hỏi, tại sao từ trước tới nay không xuất hiện hiện tượng cán bộ có tâm lý sợ trách nhiệm mà đến nay mới xuất hiện? Không những thế, tình trạng này còn lan rộng từ Trung ương đến địa phương và tiếp tục lan rộng từ khu vực công sang khu vực tư. Do vậy, cần phải xác định được nguyên phát của căn bệnh này mới có thể điều trị bệnh một cách hiệu quả, đồng nghĩa với việc chúng ta cần phân hóa, phân định rõ một bộ phận cán bộ sợ trách nhiệm ấy gồm những kiểu cán bộ nào và nguyên nhân nào dẫn đến sự tồn tại của một bộ phận cán bộ sợ trách nhiệm như thế?

Đại biểu Trần Quốc Tuấn cho rằng có hai nhóm cán bộ: Một là, cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, cán bộ né tránh, sợ trách nhiệm, đùn đẩy, sợ sai, cán bộ không muốn làm vì không có lợi ích gì. Hai là, cán bộ sợ vi phạm pháp luật nên không dám làm.

Ở nhóm 1, đại biểu Trần Quốc Tuấn nhận định, bất kỳ cơ quan, đơn vị nào hiện nay cũng tồn tại một số ít cán bộ có tư tưởng sợ vi phạm pháp luật, điều này "các đơn vị này có nhận diện được hay không và xử lý thế nào?".

"Tôi cho rằng trong thời điểm "dầu sôi, lửa bỏng" cần ưu tiên thay thế cán bộ yếu kém này bằng những người tốt và trách nhiệm. Chúng ta không thiếu cán bộ tốt. Giống như trong bóng đá, huấn luyện viên trưởng sẽ vì sự phát triển của cả đội bóng, vì màu cờ sắc áo mà sẵn sàng thay thế bất kỳ cầu thủ nào thi đấu kém hiệu quả", đại biểu ví von.

Ở nhóm 2, theo đại biểu Trần Quốc Tuấn, đây là nhóm chiếm số đông trong số những cán bộ sợ trách nhiệm, chính họ đã tạo ra những cản trở nêu trên, gây tắc nghẽn hệ thống chính trị. Những cán bộ này lo sợ vi phạm pháp luật vì hai nguyên nhân chính.

Đó là do một số văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính đồng nhất, khó thực hiện "cùng một nội dung quy định nhưng có hai cách hiểu khác nhau". Hiện tượng này cũng xuất hiện ngay tại cơ quan lập pháp và hành pháp.

Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống tiêu cực ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả, nhiều vụ việc vi phạm từ vài năm trước, đến nay vẫn bị xử lý. Chính từ những vụ án hình sự lớn thời gian qua đã khiến một bộ phận cán bộ lo sợ, do từng làm những việc tương tự trước đây. Từ đó, hình thành tâm lý ngần ngại, sợ bị kỷ luật, nặng hơn là xử lý hình sự.

Từ những thực trạng trên, đại biểu Trần Quốc Tuấn đề xuất Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm tập trung nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung đầy đủ các nội dung quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản dưới luật, bảo đảm tính chặt chẽ, thống nhất, dễ áp dụng, để các địa phương, đơn vị, tổ chức, cá nhân có thể triển khai thực hiện được ngay.

Cùng với đó, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền nhiều hơn nữa như Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo nhưng đến nay vẫn chưa có chuyển biến. Nếu thực hiện tốt công việc này, theo đại biểu Trần Quốc Tuấn, sẽ giảm bớt áp lực, gánh nặng cho các cơ quan cấp trên, đồng thời tăng cường trách nhiệm cho các địa phương và cơ quan cấp dưới. Muốn vậy, cần xác định việc nào thuộc trách nhiệm của địa phương, mạnh dạn phân quyền cho địa phương làm, địa phương sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời, tiếp tục tăng cường kiểm tra, giám sát để hướng dẫn, nhắc nhở, đôn đốc thực thi công vụ có hiệu quả.

Đồng tình với quan điểm trên, đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Đắk Nông) cũng cho rằng, những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế-xã hội thời gian qua là rất đáng trân trọng, không phải quốc gia nào cũng có thể làm được trong bối cảnh hiện nay.

Đại biểu nhắc đến một số tồn tại, hạn chế trong phát triển kinh tế-xã hội thời gian qua như: Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và 3 chương trình mục tiêu quốc gia chưa đạt kỳ vọng; khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp; đời sống một bộ phận người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo còn nhiều khó khăn; các loại tội phạm, nhất là tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao đã và đang là sự quan tâm lớn của xã hội, là mối quan tâm của nhiều người và nỗi phiền muộn của không ít gia đình....

Đặc biệt, đại biểu Dương Khắc Mai cũng đề cập đến tình trạng một bộ phận cán bộ có tâm lý né tránh, sợ trách nhiệm, đùn đẩy, sợ sai. Đại biểu đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần sớm có những giải pháp toàn diện để khắc phục những khó khăn, tồn tại như đã nêu trên trong báo cáo và quan tâm tháo gỡ những khó khăn, điểm nghẽn, nút thắt cho địa phương về cơ chế, về thể chế; đồng thời có liệu pháp đủ mạnh để xốc lại tinh thần làm việc của đội ngũ cán bộ; cũng như có liều thuốc đặc trị hiệu quả căn bệnh đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm, sợ sai, không để lan ra diện rộng, làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của mỗi địa phương và sự phát triển chung của đất nước.

Nguồn: Báo QĐND

Vướng mắc khiến cán bộ không dám làm nằm trong sự mâu thuẫn của luật

Sáng 31-5, phát biểu ý kiến trước Quốc hội, đại biểu Trần Hữu Hậu (Tây Ninh) cho rằng cần có cơ chế để sửa ngay luật, quy định chưa phù hợp theo quy trình chặt chẽ nhưng đơn giản, ngắn gọn, để cán bộ không cần dám nghĩ, dám làm mà tập trung công sức, trí tuệ để năng động, sáng tạo thực hiện công việc hiệu quả nhất…

Tranh luận với đại biểu Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh), đại biểu Trần Hữu Hậu (Tây Ninh) nhất trí rằng đang có một nhóm cán bộ, công chức sợ sai, đùn đẩy trách nhiệm. Nhưng đại biểu Trần Hữu Hậu đưa ra những phân tích sâu hơn về nguyên nhân dẫn tới tình trạng cán bộ, công chức sợ sai, đùn đẩy trách nhiệm như thế.

Đại biểu Trần Hữu Hậu (Tây Ninh) cho rằng, nếu trong thực thi công vụ, để làm tốt chức trách nhiệm vụ của mình mà có các quy định, hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp thì chắc chắn rằng phần đông công chức, viên chức sẽ chỉ cần nỗ lực, sáng tạo, tìm ra cách làm hiệu quả hơn, không có gì phải sợ.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, trong không ít việc, nếu quyết định thực hiện để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, để đem đến hiệu quả cho dân, cho nước thì phải vi phạm các quy định hiện hành, pháp luật của Nhà nước. “Do vậy, những người thấy làm sai quy đinh, sai luật, dù vì lợi ích chung mà không biết sợ thì có lẽ là “điếc không sợ súng” hoặc thiếu ý thức tổ chức kỷ luật”, đại biểu Trần Hữu Hậu nói. 

Từ đó, đại biểu Trần Hữu Hậu nêu ý kiến, việc bảo vệ người dám nghĩ, dám làm có vẻ bất khả thi, bởi trong nhiều trường hợp như vậy là bảo vệ việc làm sai quy định, trái pháp luật. Khi ấy lại cần có việc bảo vệ người bảo vệ người dám nghĩ dám làm. Cứ theo bậc thang thì có thể phải lên đến Quốc hội, vì cái vướng mắc làm cho họ không dám nghĩ, dám làm nằm trong sự chưa phù hợp, sự mâu thuẫn của các luật hiện hành. 

Đại biểu Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh) cho rằng hiện có 2 nhóm cán bộ sợ trách nhiệm. Một là cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, cán bộ né tránh, sợ trách nhiệm, đùn đẩy, sợ sai, cán bộ không muốn làm vì không có lợi ích gì. Hai là những cán bộ sợ vi phạm pháp luật nên không dám làm.

Đại biểu Trần Quốc Tuấn đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm tập trung nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung đầy đủ các nội dung quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản dưới luật, đảm bảo tính chặt chẽ, thống nhất, dễ áp dụng. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền nhiều hơn nữa. Nếu thực hiện tốt công việc này sẽ giảm bớt áp lực, gánh nặng cho các cơ quan cấp trên, đồng thời tăng cường trách nhiệm cho các địa phương và cơ quan cấp dưới. Muốn vậy, cần xác định việc nào thuộc trách nhiệm của địa phương, mạnh dạn phân quyền cho địa phương làm, địa phương sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời, tiếp tục tăng cường kiểm tra, giám sát để hướng dẫn, nhắc nhở, đôn đốc thực thi công vụ có hiệu quả.

“Cũng vì thế, việc cấp dưới hỏi xin ý kiến cấp trên, chờ chỉ đạo của cấp trên, thậm chí được giao nhiệm vụ rõ ràng rồi, nhưng càng đi sâu vào thực hiện càng thấy vướng, nên lại chuyển ngược lên cấp trên xin ý kiến rồi mới làm trở thành phổ biến”, đại biểu Trần Hữu Hậu phân tích.

Theo đại biểu Trần Hữu Hậu, nhìn lại việc xây dựng, ban hành chính nghị định về khuyến khích, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm dường như cũng gần như vậy. Về vấn đề này, Bộ Chính trị đã có Kết luận 14, Hội nghị Trung ương 6 đã có Nghị quyết 28, Quốc hội đã giao nhiệm vụ trong Nghị quyết 75 năm 2022, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp thường kỳ tháng 2 năm 2023 và Công điện 280 đã giao Bộ Nội vụ khẩn trương thực hiện dự thảo nghị định báo cáo Chính phủ trong tháng 6. 

“Việc định hướng và chỉ đạo là rất rõ ràng. Nhưng sau 3 lần chỉnh sửa dự thảo và lấy ý kiến, Bộ Nội vụ thấy vướng rất nhiều quy định của pháp luật nên đang tham mưu, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội để có nghị quyết thí điểm khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm. Sau đó, Chính phủ mới ban hành nghị định”, đại biểu Trần Hữu Hậu nói.

Từ những phân tích trên, đại biểu Trần Hữu Hậu cho rằng, cần làm sao để cán bộ, công chức, viên chức các cấp không phải dám nghĩ, dám làm, không cần cấp trên phải khuyến khích, bảo vệ. Cán bộ, công chức, viên chức các cấp cần tập trung công sức và trí tuệ để năng động, sáng tạo thực hiện công việc của mình hiệu quả nhất cho dân, cho nước trong khuôn khổ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Muốn như vậy, khi phát hiện luật, quy định chưa phù hợp thì tập trung sửa ngay với quy trình sao cho chặt chẽ, nhưng đơn giản, ngắn gọn.

Đại biểu Trần Hữu Hậu bày tỏ với phần trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ với câu hỏi của chính đại biểu: “Luật là do chúng ta. Trong thực tiễn đang vướng, mà vướng là do chúng ta đặt ra. Vậy thì chúng ta phải sửa”. 

Tuy nhiên, đại biểu Trần Hữu Hậu nhấn mạnh, để sửa những bất hợp lý do chính chúng ta đặt ra lại quá khó khăn. Có không ít những vấn đề khi đưa ra bàn, mỗi cán bộ, mỗi cơ quan liên quan đều có lý lẽ của mình và dường như đều đúng. Đáng tiếc là trong không ít trường hợp, khi hầu hết các cá nhân, đơn vị liên quan đều đúng, đều cố gắng thực hiện tốt nhất, đúng nhất theo chức năng, quyền hạn của mình thì có những việc nóng hổi của dân, của nước bị đóng băng.

"Chúng ta không thể chấp nhận những hiện tượng phi logic, ngược quy luật như vậy. Cái đúng đi với cái đúng phải mang đến sự thông thoáng, phải giúp đất nước phát triển, đáp ứng sự mong mỏi của nhân dân. Cái đúng đi với cái đúng không thể dẫn tới sự trì trệ, đến việc làm nghèo đất nước", đại biểu Trần Hữu Hậu nói.

Chúng ta đã đưa ra được giải pháp đúng là ban hành nghị quyết của Quốc hội nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, hay một luật sửa nhiều luật. Nhấn mạnh như vậy, đại biểu Trần Hữu Hậu đề nghị Quốc hội xem xét để có cách làm, trình tự, thủ tục phù hợp hơn nữa kịp thời tháo gỡ những vướng mắc phát sinh. Như vậy, cán bộ, công chức, viên chức bớt phải dám nghĩ, dám làm, tập trung sức lực, trí tuệ để năng động, sáng tạo làm tốt hơn chức trách, nhiệm vụ của mình trong sự thông thoáng của các quy định của pháp luật.

Nguồn: BQĐND

Phê phán luận điệu xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam

Với âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta, lợi dụng internet và mạng xã hội, thời gian qua, một số cá nhân, tổ chức phản động đã “mượn gió bẻ măng”, lộng ngôn xuyên tạc, phủ nhận thành quả đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Những năm gần đây, bối cảnh quốc tế có nhiều biến động, diễn biến phức tạp như cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt hơn; chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa đơn phương, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy. Đại dịch Covid-19 tác động nghiêm trọng và để lại hậu quả nặng nề trên mọi mặt của đời sống xã hội ở hầu hết quốc gia hơn hai năm qua.

Sự kiện Nga thực hiện chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine cũng tác động nhiều mặt đến đời sống chính trị và an ninh quốc tế. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông của một số quốc gia Đông Nam Á tiếp tục diễn biến phức tạp.

Lợi dụng bối cảnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tung ra những luận điệu xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam; trong đó, đường lối đối ngoại là một mặt trận mà họ quyết liệt chống phá nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành ngoại giao Việt Nam.

Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội, nổi cộm như: “Chân trời mới media”, “Hội anh em dân chủ”... đã xuất hiện những quan điểm, ý kiến của cái gọi là “luật sư độc lập”, “nhà báo tự do”, “nhà dân chủ”, “nhà nghiên cứu”, “người Việt yêu nước”... dưới các hình thức “thư góp ý”, “lời kêu gọi”, “tư vấn cho Nhà nước Việt Nam”, “phản biện”, “kiến nghị”... nhằm phê phán, xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.

Một số hãng truyền thông nước ngoài có phiên bản tiếng Việt như: RFA, VOA, RFI, BBC... còn bịa đặt rằng “đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay là “đu dây”, “tự sát”, bị lệ thuộc, chi phối bởi các cường quốc. Rồi họ đưa ra "lời khuyên" Việt Nam nên bỏ chính sách quốc phòng “4 không” để nghiêng về phương Tây, gắn với thực hiện “dân chủ hóa Việt Nam”...

Sự nguy hại của những luận điệu phản động nêu trên dễ gây ra sự hoang mang, dao động, chia rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước, khiến dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn nhất quán tư duy độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và đường lối đối ngoại Việt Nam “đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định. Trong thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống và bản sắc ngoại giao đó càng được bồi đắp, phát huy, tỏa sáng.

Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan điểm, phương châm của đường lối đối ngoại, đó là: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội VII); “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội IX); “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội XI, Đại hội XII).

Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Những năm qua, trước các diễn biến phức tạp của thời cuộc, quan hệ ngoại giao của Việt Nam đã góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với một số nước lớn tuy có lúc trải qua thăng trầm nhưng hợp tác hữu nghị vẫn là dòng chảy chính. Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam kiên quyết sử dụng mọi biện pháp phù hợp với luật pháp của Việt Nam và luật pháp quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc; đồng thời quyết tâm, kiên trì, kiên quyết giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều này luôn được cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ.

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng, Nhà nước ta nói chung, trong đó có chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không” nói riêng là kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đường lối đó có cơ sở lý luận, khoa học, thực tiễn, cơ sở pháp lý vững chắc, có sự tham khảo ý kiến của các tầng lớp nhân dân một cách dân chủ, công khai.

Thực tế cho thấy, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước, đặc biệt là các nước lớn luôn có xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ... Do đó, những luận điệu cho rằng việc “đi theo”, “liên minh” với nước này để chống nước khác nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo không những phản động, sai lầm mà còn thể hiện tư tưởng yếu hèn, trái với phương châm đối ngoại thêm bạn, bớt thù của Đảng ta.

Để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, trước hết cần bảo đảm tuyệt đối vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác ngoại giao. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội, được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới. Thực tiễn đã minh chứng, đường lối, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa giúp Việt Nam tạo dựng một mạng lưới quan hệ rộng khắp, tranh thủ được nhiều yếu tố thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. 

Trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, cần tăng cường hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo tình hình, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia đối ngoại trong nghiên cứu, tham mưu, đóng góp vào việc xây dựng chính sách và triển khai đường lối đối ngoại của Đảng. Tích cực đổi mới nội dung, phương thức thông tin đối ngoại, ứng dụng hiệu quả thành tựu công nghệ thông tin, truyền thông để tăng cường thông tin, quảng bá về đất nước, con người, thành tựu của Việt Nam và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.

Cùng với những giải pháp căn cơ trên, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, cần chủ động phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật đối với các hoạt động chống phá đường lối đối ngoại của Đảng. Kiên quyết không để các thế lực thù địch, cơ hội tập hợp lực lượng, gây rối chính trị, làm mất an ninh trật tự, gây rối loạn lòng dân, ảnh hưởng tới lợi ích đất nước.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, internet, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Twitter, Telegram...), các cuộc hội thảo, hợp tác nghiên cứu khoa học xã hội về những vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền, đối ngoại...

Tuyệt đối không để xảy ra sơ hở khiến kẻ thù có thể lợi dụng xâm nhập, thu thập bí mật, phủ nhận, truyền bá quan điểm tư tưởng thù địch, kích động, xuyên tạc phá hoại đường lối đối ngoại đúng đắn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta.

Nguồn: BQĐND

Thứ Hai, 15 tháng 5, 2023

Tránh bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan

Ngày 9-5-1945 là ngày Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh buộc phát xít Đức phải đầu hàng vô điều kiện, là cơ sở để đánh bại chủ nghĩa phát xít trên phạm vi toàn cầu, giành lại hòa bình cho thế giới. Tưởng như sau thất bại trên thì chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa dân tộc cực đoan sẽ hoàn toàn bị đẩy lùi. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn có những mưu đồ hòng thúc đẩy sự hình thành của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, gây chia rẽ, kích động thù hằn dân tộc trong nội bộ các quốc gia và gây bất ổn, tạo nguy cơ xung đột, chiến tranh trên bình diện quốc tế. Vì thế, cần phải hết sức tỉnh táo nhìn nhận để tránh trở thành nạn nhân của những mưu đồ đen tối.

Chủ nghĩa dân tộc cực đoan hay tư tưởng dân tộc hẹp hòi là xu hướng tư tưởng tuyệt đối hóa giá trị dân tộc mình, đặt dân tộc mình ở vị trí cao nhất trong toàn bộ hệ thống giá trị, đi đến chỗ bài ngoại, tự phụ, định kiến, kỳ thị, thù ghét, ngờ vực dân tộc khác, sẵn sàng gây thiệt hại cho dân tộc khác. Trên bình diện quốc tế, chủ nghĩa dân tộc cực đoan dễ dẫn đến xu hướng biệt lập, cục bộ, vị kỷ, chống lại xu hướng hợp tác, liên kết và hội nhập quốc tế, thậm chí có thể thúc đẩy xu hướng chiến tranh, xâm lược. Do đó, nó cản trở sự giao thoa và hợp tác quốc tế, làm suy giảm lòng tin chiến lược giữa các quốc gia.

Tại mỗi quốc gia, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc hẹp hòi đề cao lợi ích cục bộ của mỗi tộc người, chia rẽ tình đoàn kết, thống nhất trong nội bộ quốc gia. Ví dụ như tại Việt Nam, có thể thấy có những âm mưu kích động các đồng bào dân tộc ít người như Mông, Khmer từ bỏ lợi ích chung của dân tộc Việt Nam để đòi thành lập “nhà nước riêng”... Mục đích của việc kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi là chia cắt đất nước ta thành nhiều vùng, miền, khu vực tự trị của đồng bào dân tộc thiểu số và không phụ thuộc vào Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay vào đó sẽ là lực lượng chính trị phản động nắm giữ. Được các thế lực thù địch thúc đẩy, tạo điều kiện, những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan không từ bỏ phương tiện và thủ đoạn nào. Lúc đầu, họ sẽ đòi phục hồi các quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, rồi cao hơn là gây bạo loạn, lật đổ, đòi dân tộc tự trị, cuối cùng là đòi ly khai lập quốc gia riêng.

Mưu đồ đó nếu được thực hiện thành công thì sẽ gây bất ổn chính trị-xã hội, thậm chí tạo nguy cơ xung đột, làm suy yếu dân tộc Việt Nam dưới góc độ quốc gia-dân tộc và ảnh hưởng bất lợi đến sự tồn tại và phát triển của 54 dân tộc anh em. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc hẹp hòi không chỉ gây bất lợi cho sự phát triển của dân tộc với ý nghĩa là một quốc gia mà còn bất lợi cho sự tồn tại, phát triển đối với các dân tộc với ý nghĩa là các tộc người.   

Đối với quan hệ quốc tế, thế lực bên ngoài luôn tìm cách kích động gây hiềm khích giữa dân tộc Việt Nam và các nước xung quanh để từ đó trục lợi. Có thể thấy, trong xã hội Việt Nam, do bị nhiễm độc từ các thông tin trên mạng nên đang hình thành một lớp người rất định kiến, hẹp hòi khi nhìn nhận, đánh giá về các dân tộc, quốc gia mà Việt Nam đã có quan hệ đối ngoại. Theo cách nhìn nhận vừa định kiến, vừa ngây thơ của họ, có những dân tộc, quốc gia đã được mặc định là “xấu xa”, “nên bỏ”, dứt khoát phải đối đầu, ngược lại, có những dân tộc, quốc gia được mặc định là “tốt”, “nên theo”, nên kết tình đồng minh. Nhân các sự kiện ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc, luôn có các âm mưu chống phá, hòng kích động những quan điểm, tư tưởng dân tộc cực đoan, hẹp hòi. Không ít kẻ cố tình xuyên tạc những sự kiện ngoại giao theo thông lệ, hết sức tốt đẹp thành những vấn đề nóng, cố tình lái dư luận đến cách hiểu sai trái, nguy hiểm rằng Việt Nam “đang lệ thuộc Trung Quốc”, “đang bán rẻ chủ quyền biển, đảo cho Trung Quốc”. Những hoạt động kinh tế-xã hội giữa Việt Nam với Trung Quốc là nhu cầu tất yếu, bởi Trung Quốc là một nước láng giềng, giao thông thuận lợi, lại là một trong hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Thế nhưng, với nhu cầu hiển nhiên ấy, những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi vẫn cố tình không hiểu, phản đối và đòi hỏi rất vô lý rằng phải “thoát Trung” cả về chính trị và kinh tế. 

Nhân các dịp kỷ niệm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, rồi vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, trên không gian mạng xuất hiện những luồng ý kiến sai trái rằng cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc đã bị lãng quên. Có những kẻ lợi dụng việc này để xuyên tạc, chửi bới chính quyền, thông qua đó kích động dư luận.

Có thể thấy những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái. Bởi xét từ trong lịch sử các triều đại của Việt Nam, bên cạnh việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì đều rất coi trọng vấn đề bang giao, tạo mối quan hệ tốt đẹp với nước láng giềng. Ngày nay, môi trường quan hệ quốc tế đang ngày càng phức tạp, tuy nhiên, qua đó lại thấy rõ tính đúng đắn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, chọn lẽ phải chứ không chọn bên. Vấn đề lợi ích quốc gia-dân tộc được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Cần giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển

Lợi ích quốc gia-dân tộc là các mục tiêu mà Việt Nam luôn theo đuổi để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mình, bao gồm: Giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; ổn định chế độ chính trị; bảo đảm an ninh và an toàn cho người dân; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm các điều kiện cho quốc gia phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao... Thế nhưng, những lợi ích này chỉ có thể đạt được trọn vẹn trong một môi trường hòa bình, ổn định.

Có thể khẳng định, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục đối với những sự kiện lịch sử, trong đó có cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc và đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Thông tin, tuyên truyền, giáo dục luôn làm nổi bật tính chính nghĩa của các cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc; ngợi ca truyền thống lịch sử, lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, ý chí tự lực, tự cường và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; ghi nhận, tri ân công lao to lớn, sự hy sinh anh dũng của quân và dân ta trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, việc thông tin, tuyên truyền về các vấn đề trên luôn thận trọng, bảo đảm đúng quan điểm của Đảng và tôn trọng lịch sử, không lấy lịch sử để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam. Công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn được tập trung thực hiện kiên quyết, kiên trì nhưng theo đúng nguyên tắc là bảo đảm lợi ích của quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; góp phần giữ gìn, thúc đẩy mối quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước xung quanh.

Với vị trí địa chính trị đặc biệt cùng sự phát triển vượt bậc về kinh tế, chính trị, Việt Nam đang trở thành quốc gia quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Vì thế, mỗi động thái ngoại giao của Việt Nam đều thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế, nhất là trong bối cảnh thế giới đang lâm vào khủng hoảng địa chính trị, các cường quốc phân cực mạnh mẽ. Khi các cường quốc gia tăng sức ép để lôi kéo đồng minh, những quốc gia nhỏ hơn phải chịu rất nhiều áp lực về việc chọn phe. Chỉ những quốc gia với tiềm lực nhất định, khéo léo và bản lĩnh mới có thể cân bằng tình thế để bảo đảm lợi ích cho quốc gia, dân tộc.

Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhân dân đã phải đổ nhiều máu xương đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước thì không một ai có thể quên đi quá khứ đau thương, càng không bao giờ được lơ là, mất cảnh giác. Tuy nhiên, cũng chính vì thế, chúng ta càng cần trân quý và gìn giữ mỗi trường hòa bình, ổn định để dựng xây đất nước. Chỉ có thể thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” trong điều kiện hòa bình, hợp tác, đoàn kết các dân tộc anh em để phát triển. Kiểu thông tin theo thuyết âm mưu của các trang tin và tổ chức chống cộng là muốn kích động sự hiềm khích dân tộc, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, nhằm làm rối ren tình hình chính trị và đẩy Việt Nam vào tình thế khó khăn. Bởi thế, mỗi người cần tỉnh táo để nhận rõ âm mưu thâm độc, dã tâm phá hoại quan hệ quốc tế, ngăn cản sự phát triển của đất nước ta.

Cần cảnh giác những biến tấu của hội, nhóm “yêu đồ lính”

Các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, bôi lem bản chất, hình ảnh lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Một trong những thủ đoạn mới của chúng trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay là sử dụng không gian mạng tuyên truyền lối sống, văn hóa, khôi phục tàn dư của chế độ Việt Nam Cộng hoà trước đây; đồng thời đánh tráo khái niệm, bôi lem, bóp méo hình ảnh người lính lực lượng vũ trang nhân dân.


Ảo tưởng thú “chơi” đồ lính

Hoạt động bất thường các hội, nhóm “yêu đồ lính”

Mấy năm gần đây, trên không gian mạng, các kênh You tube, Facebook… xuất hiện tràn lan những hội nhóm “yêu đồ lính”, “yêu đồ lính Việt Nam Cộng hòa” và ai cũng có thể dễ dàng gia nhập các group như “hội yêu đồ lính”, “hội yêu đồ lính thành phố Phúc Yên”, “yêu đồ lính Thành Nam”, “anh em yêu đồ lính Thủ đô”, “đồ lính Mỹ”, “hội đam mê đồ lính Hải Dương”, “chơi đồ lính xứ Lạng”, “phong cách lính miền Trung”… Các hội, nhóm này ngày càng phát triển rộng trên các tỉnh, thành từ Bắc tới Nam, mỗi hội, nhóm có số lượng thành viên lên tới hàng trăm người.

Sự việc sẽ là bình thường, thậm chí rất tốt nếu như “yêu đồ lính” đó là “màu xanh áo lính”, gắn với hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, hình ảnh lực lượng vũ trang (Công an, Quân đội) nhân dân Việt Nam. Người lính Cụ Hồ vốn được Đảng, Bác Hồ khai sinh ra, giáo dục, rèn luyện; là cánh tay phải, kề vai sát cánh dưới cờ Đảng; đồng hành cùng vận mệnh dân tộc, đất nước qua các thời kỳ lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng và bảo vệ đất nước yên bình, phát triển như hôm nay.

Sẽ là bình thường, bởi kể từ khi ra đời, ngày 22/12/1944 đối với lực lượng Quân đội nhân dân và ngày 19/8/1945 đối với lực lượng Công an nhân dân thì hình ảnh người lính chẳng tiếc tuổi xuân, máu xương, chiến đấu quên mình, hy sinh bản thân cho từng tấc đất, con sông, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc và sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Sẽ là bình thường bởi hình ảnh người lính Cụ Hồ in đậm trong trang sách, lời ca, đi vào tiềm thức, tâm tư, tình cảm, lắng đọng trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam và lan tỏa đến bạn bè quốc tế.

Nhưng điều đáng nói ở đây, sự xuất hiện thông tin, hình ảnh, hoạt động của những hội, nhóm “yêu đồ lính” trên không gian mạng và hoạt động ngoài đời không bình thường mà đầy những bất thường, tiềm ẩn những vấn đề về an ninh xã hội, văn hoá dân tộc. Điều bất thường ở chỗ những hình ảnh đại diện của các tài khoản Youtube, Facebook hoặc những tài khoản rao bán trang phục nhân danh “yêu đồ lính” trên mạng tràn lan hình ảnh trang phục đủ loại, thậm chí cả cái kim tây dùng cài chốt lựu đạn của quân đội Mỹ ở miền Nam… cho thấy rõ “yêu đồ lính” ở đây là lính Mỹ, lính của chế độ Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975.

Điều bất thường ở chỗ, những hội, nhóm này không chỉ hiện hữu trên không gian mạng mà nảy nở ở hiện thực ngoài đời, trên nhiều tỉnh, thành trên cả nước. Rồi những người này liên tục có các hoạt động mang tính chất phô trương thanh thế như mặc các đồ người lính Việt Nam Cộng hoà, rồng rắn từng đoàn đi các loại xe mô tô phân khối lớn hoặc xe ôtô Zeep cũ diễu hành trên các đường phố như muốn “diễu võ giương oai” với thiên hạ. Họ tranh thủ tìm mọi cách xâm nhập vào các sự kiện, các hoạt động văn hóa, những nơi nhộn nhịp, có sự hiện diện của nhiều thành phần.

Chúng ta còn nhớ, ngày 11/3/2023, dư luận xã hội rất bức xúc khi nhóm người này “giễu võ giương oai” trong Lễ hội Áo dài hoa cúc biển Cửa Lò 2023. Điều bất thường, thậm chí mang tính xúc phạm đối với những vong linh anh hùng, liệt sĩ, những người lính Cụ Hồ năm xưa đã đổ bao xương máu, hy sinh bản thân mình vì độc lập, tự do cho Tổ quốc khi những người này nghênh ngang cả đoàn dài, lố nhố trên xe Zeep với những khuôn mặt bặm trợn, trang phục của quân lính Mỹ, chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 - sắc phục của những thế lực đã thả bom, đạn, lấy đi xương máu, cướp đi sinh mạng khiến đồng bào, chiến sĩ ta vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất mẹ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam của nhân dân Việt Nam kết thúc cách đây đã gần 50 năm, những tàn dư sắc phục, đồ dùng của lính Mỹ hay quân đội Sài Gòn thời đó, nếu ngày nay có còn thì cũng đã mục rách, rỉ sét và cũng chỉ còn số lượng rất ít. Vậy lấy đâu ra số lượng lớn, với nhiều đồ mới để cung cấp cho những hội, nhóm này? Qua các thông tin trên báo chí cho thấy, lực lượng chức năng đã phát hiện, thu giữ nhiều vụ nhập lậu các lô hàng trang phục có màu sắc, thiết kế giống với trang phục của quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà trước đây. Như vậy, hình ảnh quân, trang phục của hội nhân danh “yêu đồ lính” trên mạng xã hội và ở ngoài đời là có sự tiếp tay, hậu thuẫn từ bên ngoài.

Đó là sự kiện mang tính “phô trương thanh thế” khi những người này nghênh ngang trang phục lính Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ vào các nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên, Hà Giang hay địa danh liên quan những thương vong lớn của ta thời kỳ kháng chiến chống Mỹ như Khe Sanh, Thành Cổ (Quảng Trị)…  Thậm chí ngày 15/4/2021, ở đường Võ Thị Sáu, Kp7, phường Thống Nhất, Biên Hòa, Đồng Nai có hẳn một quán cà phê mang danh ARMY nhưng bài trí toàn đồ dùng của lính chính quyền Sài Gòn trước đây. Nhân viên phục vụ quán mặc nguyên quân phục của “lực lượng Bình định nông thôn” trước năm 1975 đã rình rang khai trương, ngay sau đó lực lượng liên ngành địa phương đã kiểm tra, yêu cầu sửa chữa, trang trí lại.

Gần đây nữa là hình ảnh đoàn xe Zeep của hội nhóm “yêu đồ lính” đã rầm rộ đi thẳng vào Khu tưởng niệm Thanh niên xung phong Đại đội 915 Bắc Thái. Khu tưởng niệm Đại đội 915 Bắc Thái ở phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên là nơi lưu dấu ấn đậm nét về phẩm chất anh hùng cách mạng tiêu biểu của đất và người Thái Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cách đây 51 năm, đêm Noel năm 1972, một khúc tráng ca đã cất lên và trở thành bất tử trên bầu trời, mặt đất và vào tận thẳm sâu khí chất, tâm hồn con người Thái Nguyên. Trận bom đó khiến 60 cán bộ, đội viên TNXP Đại đội 915 Bắc Thái hy sinh, 8 người khác bị thương.

Cũng trong thời khắc lịch sử đầy bi thương ấy, hình ảnh những CBCS CAND tỉnh Thái Nguyên do đồng chí Nguyễn Văn Thuần, Phó Ty Công an dẫn đầu trong bộ cảnh phục, trên đầu đội chiếc mũ cứng, trên vai khoác chiếc sắc cốt và hình ảnh CBCS Cảnh sát PCCC mặc áo bạt, đội mũ đồng, đi đôi ủng đen quên mình, lăn xả vào đám cháy, bới đống đổ nát, cứu người, cứu hỏa, cứu tài sản đã in đậm trong lòng đất và người Thái Nguyên dấu ấn không thể phai mờ. Sự hy sinh của 60 TNXP vì bom Mỹ đêm Noel năm 1972 đã thành bản anh hùng ca - khúc tráng ca bất tử và ngày nay để tri ân, tưởng nhớ sự hy sinh của 60 TNXP Đại đội 915 Bắc Thái, chính quyền và nhân dân Thái Nguyên đã xây dựng tại đây Khu tưởng niệm.

Ấy thế mà, những người nhân danh “yêu đồ lính” lại ngang nhiên mặc nguyên những trang phục, sử dụng phương tiện của đội quân trực tiếp thả những quả bom tàn sát tập thể, gây ra sự hy sinh của 60 TNXP để rầm rộ “ra oai” tại khu tưởng niệm. Cũng có ý kiến cho rằng, trong thời buổi hội nhập, phát triển đất nước như hôm nay, phải xóa bỏ hận thù để cùng là bạn, cùng phát triển thì việc những cựu binh Mỹ đã từng gây ra thương vong cho đất nước Việt Nam như Thượng nghị sĩ John McCain sau này là bạn với Việt Nam hoặc những cựu sĩ quan chính quyền Sài Gòn trước đây như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Lập đều được chính quyền và nhân dân Việt Nam mở lòng đón họ trở về và họ cũng đã có hành động tích cực, đóng góp vào sự phát triển của quê hương, đất nước. Những người này cũng đã đến thăm những khu tưởng niệm, nghĩa trang liệt sĩ, được tổ chức ra thăm quần đảo Trường Sa…, vậy tại sao lại phê phán những người nhân danh “yêu đồ lính” đến viếng khu tưởng niệm anh hùng liệt sĩ?

Vấn đề ở đây là, những người thực sự thiện chí với hòa hiếu, hoà hợp, đoàn kết dân tộc, trong quá khứ họ từng thực chiến chống lại nhân dân ta thì ngày nay họ đến thăm viếng những khu tưởng niệm anh hùng liệt sĩ bằng tấm lòng thành, với quan điểm “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì đó là điều đáng được ghi nhận và nhân dân ta tạo điều kiện để họ làm điều đó, vì tinh thần hoà hiếu, hoà giải. Và trên quan điểm văn hoá, họ đến viếng với trang phục thông thường, bằng sự chân thành. Còn với những trường hợp nhân danh “yêu đồ lính” thì thành phần tham gia không phải là những người lính quân đội Mỹ hay tham gia chính quyền Sài Gòn trước đây, số này đa phần sinh sau 1975 hoặc trước 1975 thì thời điểm đó cũng còn nhỏ. Nghĩa là họ không trải qua chiến tranh, không cầm súng ra chiến trường.

Khi đến viếng lại không phải đi đứng với thái độ thành kính, tri ân mà ra vào kiểu “phô trương thanh thế”, ăn mặc quân phục, đi phương tiện kiểu của lính Mỹ và quân đội Sài Gòn cũ, đeo kính đen, kèm những phát ngôn, ứng xử kiểu lố lăng, phản cảm, nhiều người thái độ bặm trợn, ra oai. Ăn mặc như thế, thái độ phản cảm như thế, rầm rộ kéo vào khu tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc rồi quay clip phát tán lên mạng, thực sự đó là hành vi lố lăng, vô văn hoá chứ không thể ngụy biện là “thăm viếng liệt sĩ”.

Chúng ta còn nhớ, trong thế chiến thứ II, người chiến sĩ cộng sản Tiệp Khắc Julius Fucik, tác giả cuốn “Viết dưới giá treo cổ” luôn nhắc nhở thế giới phải có trách nhiệm ngăn chặn mọi mầm mống phát xít. Với hành động của những người nhân danh “yêu đồ lính”, lời nói này vẫn còn nguyên giá trị: “Hỡi nhân loại, tôi yêu mến tất cả mọi người, nhưng hãy cảnh giác”.

“Bắt mạch” thủ đoạn lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí

Xã hội hiện đại, báo chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm, ý chí của Nhà nước và tiếng nói của nhân dân, là công cụ của tự do biểu đạt. Ngày nay, tự do ngôn luận, tự do báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng, được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ, có tác động thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.

Cứ thành thói quen, vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3/5) hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6), trên nhiều trang mạng trong và ngoài nước cũng như một số phương tiện truyền thông quốc tế đã có những đánh giá sai lệch, xuyên tạc thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” ra sức nguỵ biện để đổi trắng thay đen, nói không thành có, có thành không về thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, họ triệt để lợi dụng sự đánh giá không khách quan, trung thực, thiếu thiện chí của một số hãng thông tấn, báo chí nước ngoài về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm hạ thấp vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Để đạt được mục đích, họ thành lập một số tổ chức nhân danh báo chí như: “Phóng viên không biên giới”, “The project 88”… để đấu tranh cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”, đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam và một số quốc gia, vu khống Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Gây sức ép đòi thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo… Sâu xa hơn là lợi dụng danh nghĩa đấu tranh “tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối lật đổ chính quyền.

Cần khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.

Tuyên ngôn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa nhân văn cao cả, luôn được Nhà nước Việt Nam tuân thủ, kế thừa, phát triển phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh. Ngược dòng lịch sử, ngày 9/11/1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Kế thừa quy định về quyền tự do ngôn luận từ bản Hiến pháp đầu tiên, các văn kiện của Đảng, các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được bảo đảm, thực thi trong thực tế đời sống, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí sửa đổi năm 2016. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”.

Điều 13 chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của mình, đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Đến hết năm 2020, Việt Nam có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền. Việt Nam còn được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất trên thế giới. Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt ở Việt Nam. 

Theo báo cáo "Thị trường ứng dụng di động 2021" do Appota phát hành, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng điện thoại di động, trong đó có 64% các thuê bao đã kết nối 3G và 4G. Tỷ lệ dân số sử dụng Internet cũng chiếm 70%, lượng người dùng sử dụng Internet qua thiết bị di động chiếm khoảng 95% và trung bình họ có 3 giờ 18 phút để sử dụng Internet qua di động. Đây là con số khá ấn tượng, chứng minh smartphone đang được ưu tiên làm thiết bị kết nối chính nhờ sự tiện lợi và phổ biến.

Số người dùng Facebook tại Việt Nam (năm 2020) có 69.280.000 người, chiếm 70,1% dân số. Chất lượng truy cập Internet Việt Nam cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn, một số thông số cao hơn số liệu công bố bởi các hệ thống quốc tế. Điều này phản ánh nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam phục vụ nhu cầu sử dụng Internet. Sóng của những hãng thông tấn, báo chí lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg… đều được tiếp cận dễ dàng tại Việt Nam.

Những minh chứng trên cho thấy, không thể phủ nhận những thành thành tựu to lớn, vững chắc đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam và sự chủ động thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết quốc tế nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà Việt Nam tham gia. Hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm về thực tế việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mình, vì không ai khác, chính mỗi công dân Việt là người trong cuộc, rõ hơn hết việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đó đến đâu.

Những luận điệu xuyên tạc, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân, không đại diện cho dân, không do dân và vì dân thì làm sao có thể gọi là khách quan, làm sao thể hiện tiếng nói dân chủ như những gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.

Hiển nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không phải là tự do quá trớn. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lên án, phê phán những ý kiến với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển ở nước ta.

Bảng xếp hạng tự do báo chí – Những luận điệu sai trái, cũ mòn

Lâu nay, các tổ chức như Phóng viên không biên giới (RSF); các đài BBC, RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số tổ chức, cá nhân phản động luôn tìm cách xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Mới đây, RSF đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2023”. Trong bảng xếp hạng, RSF xếp ba nước đứng cuối bảng đều ở châu Á, trong đó xếp Việt Nam hạng 178.

Phóng viên không biên giới hay Ký giả không biên giới (Tiếng Pháp: Reporters sans frontiers - RSF) là một tổ chức phi chính phủ với phạm vi hoạt động trên toàn cầu. Mục đích của họ được cho là bảo vệ tự do báo chí trên toàn thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Tổ chức này lấy Điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền làm cơ sở để hành động. Phóng viên không biên giới được Robert Ménard, Rémy Loury, Jacques Molénat và Élmilien Jubineau sáng lập tại Montpellier, Pháp, năm 1985.

Hiện, tổ chức này có trụ sở tại quận 2, Paris; mở văn phòng tại Berlin, Brussels, Geneva, Madrid, Rome, Stockholm, Tunis, Vienna và Washington DC. Văn phòng đầu tiên của họ ở châu Á, đặt tại Đài Bắc, Đài Loan (Trung Quốc) vào tháng 7/2017. Ngoài ra, tổ chức này còn hoạt động chung với 150 thông tin viên, phóng viên trên khắp các châu lục cũng như với hàng chục tổ chức đảng phái độc lập với chính phủ. Nếu nhìn vào những thông tin trên thì nhiều người nghĩ RSF hoạt động “ngay hàng thẳng lối”, giúp thúc đẩy tự do và văn minh, thực sự vì sự phát triển con người.

Song thực tế lại hoàn toàn khác. Tuy viện dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc về nhân quyền, tự do ngôn luận nhưng RSF lại “hát theo người cho bánh mỳ”, bôi nhọ các nước khác, trái ngược với chủ trương của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới cáo buộc tổ chức RSF đứng đằng sau những vụ việc phức tạp, gây rối, bất ổn, kích động bạo lực.

Thực chất, RSF tồn tại và hoạt động dựa vào một phần nguồn hỗ trợ kinh phí của một số chính giới phương Tây. Chính vì vậy, trong các bảng xếp hạng tự do báo chí hằng năm, RSF thường tuân theo sự sắp đặt một cách có chủ ý của các chính phủ quốc gia tài trợ cho tổ chức này hoạt động. Những yếu tố được tổ chức này sử dụng để đánh giá tự do của một nền báo chí thiếu tính bao trùm, không cân nhắc đến các yếu tố văn hóa, xã hội, nhận thức của từng quốc gia riêng biệt. Phần lớn những thông tin được đưa ra là không khách quan, không có hoạt động khảo sát, kiểm chứng thực chất mà đó là những đánh giá thiếu căn cứ hoặc được suy diễn, phóng đại.

Về bảng đánh giá tự do báo chí World Press Freedom Index hằng năm được RSF đưa ra, không khó để thấy căn cứ đánh giá, xếp hạng của RSF không thuyết phục. Riêng đối với Việt Nam, RSF không có một nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể nào về tình hình báo chí. Đồng thời, tổ chức này cũng không sử dụng bất kì báo cáo nào của Chính phủ Việt Nam để đưa ra đánh giá. Trái lại, việc RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam lại thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp, do đó thông tin không khách quan, sai thực tế về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tế, cách đánh giá của tổ chức này thông qua bảng xếp hạng tự do báo chí thường niên không trung thực và không thể hiện được bản chất vấn đề. Chính vì vậy, mức độ tin cậy trong bảng đánh giá tự do báo chí được RSF đưa ra hầu như không có.


Với động cơ, cách làm như vậy, năm nay RSF vẫn xếp Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đứng gần cuối trong “Bảng xếp hạng chỉ số tự do báo chí thường niên năm 2023”. Cổ suý cho bảng xếp hạng là những luận điệu cũ rích được các trang BBC tiếng việt, RFA, RFI, VOA tiếng Việt… và một số tổ chức, cá nhân phản động triệt để sử dụng nhằm mục đích quy kết, vu khống Việt Nam không có tự do báo chí nên xếp hạng tự do báo chí Việt Nam luôn ở vị trí áp chót bảng. Bên cạnh đó, họ xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam quản báo chí theo chế độ “đăng ký”, “bị kiểm duyệt”, “hà khắc”...


Từ việc xuyên tạc trên, nhiều tổ chức và trang mạng xã hội thù địch, phản động kêu gọi thay đổi thể chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chính sách với những luận điệu xảo trá như: “Thể chế hiện nay không tạo môi trường để thay đổi báo chí được mà phải thay đổi thể chế sâu rộng”; “Nhà nước phải cho phép báo chí tư nhân hoạt động”. Không những vậy, một số cơ quan truyền thông phương Tây thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFI, RFA, VOA... và các hội nhóm, các cá nhân phản động trên YouTube, Facebook mỗi khi có sự kiện, vụ việc cụ thể liên quan đến báo chí lại la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình trong nước. Với sự giúp sức của các tổ chức thù địch, một số đối tượng phản động trong nước tự đứng ra thành lập các hội nhóm phi pháp nhằm cổ súy cho cái gọi là “tự do báo chí”, “xã hội dân sự” theo mưu đồ của chúng.

Những thông tin mà “Bảng xếp hạng thường niên về tự do báo chí” năm 2023 một lần nữa khẳng định sự thiếu khách quan, sai thực tế và quy chụp của RSF về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam.

Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”. Báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến đối với Đảng, Nhà nước; định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội.

Điều đó càng được khẳng định rõ về quyền con người, quyền công dân trên lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Nhà nước ta bảo đảm, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin là những quyền cơ bản của quyền con người, của mọi công dân. Nhà nước Việt Nam đã xây dựng khung pháp luật về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương thích với pháp luật quốc tế về quyền con người. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin… Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Theo đó, khoản 1, Điều 3, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Bên cạnh đó, Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí.

Tính đến năm 2022, cả nước có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (có 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình, 77 kênh phát thanh trong nước, 194 kênh truyền hình (7 kênh truyền hình thiết yếu quốc gia, 63 kênh truyền hình địa phương), 57 kênh nước ngoài. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, trong đó, khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí ngày càng phát triển theo hướng hợp tác đa quốc gia và đa lĩnh vực. Hiện nay đã có gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt Nam, trong đó có nhiều hãng lớn như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)...

Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Đến nay, Việt Nam nằm trong top 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới với 68,7% người sử dụng, cao hơn mức trung bình của thế giới (51,4%). Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, Internet đã trở thành công cụ rất quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của mọi tổ chức và cá nhân, nhất là trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những tiện ích mang lại từ hệ thống Internet nhanh chóng được ứng dụng trong thực tiễn, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi tổ chức, cá nhân.

Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị trong những năm gần đây đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm; trong đó, công tác xây dựng Chính phủ điện tử, Quốc hội điện tử đã có bước tiến mạnh mẽ, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số là một trong những ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn 2016 - 2020 để tạo ra nền tảng vững chắc cho việc chuyển đổi số toàn diện trong giai đoạn 2021 - 2030. Đánh giá của Liên hợp quốc về phát triển Chính phủ điện tử, liên tiếp từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đều tăng hạng. Hiện, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia trên thế giới và đứng thứ 6 tại khu vực Đông Nam Á.

Cùng với đó, thông qua các trang mạng xã hội (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng có nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.

Với cơ sở chính trị, pháp lý đã khẳng định và thực tiễn đã chứng minh quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tiễn đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

Nguồn: Báo CAND

Vấn đề tự do báo chí và thủ đoạn “nội công, ngoại kích”

Vừa qua, tổ chức Phóng viên không biên giới (tiếng Pháp: Reporters sans frontières, viết tắt là RSF) – một trong những tổ chức phi chính phủ luôn có cái nhìn định kiến đối với Việt Nam – đã đưa ra báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới”.

Hiện thực bác bỏ luận điệu vu cáo “Tự do báo chí”

Như thường lệ, RSF tiếp tục có những nhận định sai trái, vô căn cứ về tình hình báo chí tại Việt Nam, cho rằng ở Việt Nam không có tự do báo chí, người dân không được thực hiện quyền tự do ngôn luận…

Mưu đồ chống phá

Khi bàn về đấu tranh tư tưởng, nguyên Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tuyên bố: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “toàn bộ vũ khí của Mỹ, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.

Một số nhà tư tưởng của các nước phương Tây cũng nhận định: “Một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”, “một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô la chi cho quốc phòng”… Chính bởi vậy, các thế lực thù địch đã tìm cách lợi dụng vỏ bọc “dân chủ”, “nhân quyền” để tạo cớ tấn công, chống phá mặt trận tư tưởng của ta. Hiện nay, ngoài các cơ quan báo, đài đang duy trì hoạt động, các tổ chức, cá nhân thù địch còn lập ra hàng ngàn trang web để lan truyền những thông tin sai trái, độc hại.

Thông qua vỏ bọc tự do ngôn luận, tự do báo chí, các thế lực xấu đang triệt để sử dụng chiêu trò “nội công, ngoại kích”. Một mặt, chúng tuyển lựa, đào tạo, hỗ trợ các “con buôn dân chủ” trong nước tiến hành những hoạt động công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chính quyền dưới vỏ bọc “nhà báo tự do”, “phóng viên tự do”.

Mặt khác, các thế lực bên ngoài thường xuyên rêu rao về tính tuyệt đối của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, kích động các giá trị dân chủ quá đà “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và đồng thời gây sức ép, đưa ra các bản báo cáo, phúc trình, xếp hạng có nội dung sai sự thật về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam; vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam “đàn áp” báo chí, cho rằng Việt Nam không có tự do báo chí, không có tự do ngôn luận!

Việc xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền của Việt Nam nói chung và việc thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nói riêng không phải là mới. Đây là kịch bản cũ thường xuyên được các cá nhân, tổ chức chống đối thực hiện. Thông qua việc vu cáo Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, các thế lực thù địch đã tìm cách hòng thò tay can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thực chất, đây là một thủ đoạn trong cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay.

Thực tiễn sinh động phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Tại Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các đối tượng xấu lại luôn lợi dụng chống phá, đưa ra những thông tin sai trái, vu khống Việt Nam không có tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Vấn đề tự do báo chí và thủ đoạn “nội công, ngoại kích” 

Quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để thúc đẩy sự phát triển của báo chí và bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân, Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang tích cực thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho lĩnh vực báo chí được quan tâm đầu tư.

Đồng thời, Nhà nước đã có chính sách đặt hàng báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thính, khiếm thị, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác.

Số liệu thống kê đến cuối năm 2022 cho thấy, nước ta có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (trong đó có 327 tạp chí lý luận chính trị, khoa học và 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Số người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí là 41.000 người, với 19.356 cán bộ đã được cấp thẻ nhà báo.

Cùng với các cơ quan báo chí trong nước, nhiều hãng truyền thông, thông tấn quốc tế đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Rossiya Segodnya (Nga)... Với lực lượng làm báo hùng hậu như trên, đời sống báo chí ở Việt Nam đã diễn ra hết sức nhộn nhịp, phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nền tảng quan trọng để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho mỗi người dân.

Theo quy định của pháp luật nước ta, công dân có quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác…

Với những quy định này, mọi người dân đều dễ dàng tham gia vào hoạt động báo chí, trở thành một nhà báo tự do tìm kiếm, phát hiện đề tài và đưa ra sản phẩm báo chí, đảm bảo quyền tự do hoạt động theo quy định của Luật Báo chí và các luật liên quan. Trong thời gian qua, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công tác phòng chống tham nhũng, nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm đã được báo chí phản ánh và đưa ra ánh sáng, góp phần làm trong sạch bộ máy.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính chỉ có thể tồn tại trong một quốc gia có chủ quyền, không bị lệ thuộc vào bất kỳ thế lực nào. Bởi vậy, đi liền với việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, mỗi người dân cũng phải chấp hành nghiêm các quy định về nghĩa vụ của công dân để bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân đều bị nghiêm cấm và có chế tài nghiêm khắc. Không chỉ riêng tại Việt Nam, ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới đều quy định tương tự.

Đơn cử, Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789 ghi nhận: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Hay như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) cũng quy định mọi người có quyền tự do ngôn luận nhưng việc thực hiện quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Việc đưa ra bảng xếp hạng từ những con số, dữ liệu sai lệch rồi cho rằng Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí là những luận điệu xuyên tạc, đi ngược lại lợi ích của Việt Nam và cách làm sai trái đó khiến bức tranh tự do báo chí trên thế giới nói chung bị bóp méo, biến dạng.

Nguồn: Báo CAND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...