Thứ Hai, 31 tháng 10, 2022

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình

Chiều 31-10, tại Đại lễ đường Nhân dân, thủ đô Bắc Kinh, ngay sau Lễ đón chính thức, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có buổi hội đàm với Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa Tập Cận Bình.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình thay mặt Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc nhiệt liệt chào mừng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc, bày tỏ vui mừng được gặp lại Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau 5 năm.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình cho rằng, chuyến thăm có ý nghĩa đặc biệt đối với hai nước và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; nhấn mạnh việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo đầu tiên Trung Quốc được đón tiếp sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc và việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc đầu tiên sau Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện sự coi trọng cao độ quan hệ hai đảng, hai nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp chu đáo, trọng thị, thân tình và hữu nghị.


 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. 

Trong bầu không khí chân thành, thẳng thắn, hai nhà lãnh đạo đã trao đổi về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước và quan hệ giữa hai Đảng, hai nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa chúc mừng thành công của Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúc mừng đồng chí Tập Cận Bình được Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc tín nhiệm tiếp tục bầu làm Tổng Bí thư khóa XX, xác lập là "hạt nhân lãnh đạo" của Trung ương Đảng và trong toàn Đảng Cộng sản Trung Quốc; đánh giá Đại hội XX là kỳ đại hội quan trọng, có ý nghĩa lâu dài đối với sự phát triển của Trung Quốc, mở ra hành trình mới xây dựng đất nước hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vào năm 2035, hướng tới thực hiện mục tiêu "100 năm thứ hai".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi sông liền một dải, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tình hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các vị tiền bối cách mạng hai nước dày công xây dựng và vun đắp là tài sản chung quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước.

Việt Nam cảm ơn sâu sắc về những giúp đỡ to lớn, quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay. Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc. Về chính sách đối ngoại, Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương quan hệ; kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình nhiệt liệt chúc mừng thành tựu mà Việt Nam đã giành được trong thời gian qua, đặc biệt là trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam; đánh giá cao việc đại hội đã đề ra những mục tiêu phát triển, đường lối trong các lĩnh vực cho các giai đoạn đến năm 2025, năm 2030 và đến năm 2045 – dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình bày tỏ tin tưởng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra, sẽ sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình khẳng định, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc coi trọng cao độ quan hệ với Việt Nam; mong muốn và sẵn sàng nỗ lực cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục không ngừng tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung phát triển lành mạnh, ổn định theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giếng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, không ngừng đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.

Hai Tổng Bí thư bày tỏ vui mừng về xu thế phát triển lành mạnh và đánh giá cao những tiến triển tích cực của quan hệ giữa hai Đảng, hai nước trong thời gian qua. Trong điều kiện khó khăn của đại dịch Covid-19, hai bên vẫn tiếp tục duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, trao đổi cấp cao. Từ đầu năm 2020 đến nay, hai đồng chí Tổng Bí thư đã 4 lần điện đàm và nhiều lần trao đổi thư, điện nhân các sự kiện chính trị quan trọng của mỗi bên.

Hợp tác giữa các ban, ngành của Đảng, Chính phủ, Quốc hội (Nhân đại), Mặt trận Tổ quốc (Chính hiệp), quốc phòng, công an được thúc đẩy hiệu quả, thực chất. Các địa phương của hai nước, nhất là các địa phương ở khu vực biên giới, đã nỗ lực duy trì hợp tác thiết thực, tăng cường quan hệ hữu nghị.

Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư là điểm sáng trong quan hệ hai nước. Việt Nam liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và thương mại Việt - Trung chiếm 1/4 tổng kim ngạch thương mại Trung Quốc - ASEAN, đối tác thương mại thứ 6 của Trung Quốc trên thế giới. Vướng mắc trong một số dự án hợp tác giữa hai nước được tháo gỡ, trong đó Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đã chính thức đưa vào sử dụng, vận hành hiệu quả.

Hợp tác phòng, chống Covid-19 đạt hiệu quả thiết thực. Hai bên nhất trí cho rằng trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng và bất ổn đang diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới hiện nay, sự phát triển ổn định và những thành tựu mà Việt Nam và Trung Quốc đạt được có ý nghĩa rất quan trọng đối với hai nước và nhân dân hai nước.

Hai nhà lãnh đạo đã đi sâu trao đổi về các định hướng lớn nhằm tăng cường tin cậy, củng cố hữu nghị, nâng cao hiệu quả hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, duy trì hòa bình, ổn định trên biển, đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững trong thời gian tới.

Hai bên nhất trí tiếp tục duy trì trao đổi, tiếp xúc cấp cao thường xuyên giữa lãnh đạo hai Đảng, hai nước nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, kịp thời trao đổi, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương, duy trì cục diện hữu nghị và đà phát triển lành mạnh, ổn định của quan hệ Việt - Trung. Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường và phát huy vai trò định hướng chiến lược của quan hệ kênh Đảng, đi sâu hợp tác trao đổi lý luận giữa hai Đảng, triển khai hiệu quả Kế hoạch Hợp tác giữa hai Đảng và Kế hoạch Hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng giai đoạn 2021-2025; tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, công tác cán bộ, phòng, chống tham nhũng, cũng như kinh nghiệm về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hai Tổng Bí thư đồng ý sẽ phát huy và nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác hiện có giữa hai Đảng, hai nước, nhất là gặp gỡ cấp cao, Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung, nhằm xác định phương hướng và trọng tâm hợp tác phù hợp với nhu cầu và lợi ích của hai bên, góp phần thực hiện hiệu quả các thỏa thuận và nhận thức chung quan trọng giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước. Tiếp tục triển khai hiệu quả các cơ chế hợp tác, trao đổi giữa Quốc hội Việt Nam với Nhân đại toàn quốc Trung Quốc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính hiệp Trung Quốc; làm sâu sắc thêm hợp tác trên các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh, tăng cường hợp tác giữa các lực lượng biên phòng và thực thi pháp luật hai nước, phối hợp hiệu quả tại các diễn đàn đa phương.

Trong cuộc hội đàm, hai đồng chí Tổng Bí thư cũng đi sâu trao đổi về các lĩnh vực hợp tác thực chất, nhất trí cần thúc đẩy mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển quan hệ song phương; nhấn mạnh Việt Nam – Trung Quốc là đối tác thương mại rất quan trọng và giàu tiềm năng của nhau.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Việt Nam đặc biệt coi trọng thị trường Trung Quốc, mong muốn tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, mong muốn Trung Quốc tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi, đẩy nhanh tiến độ triển khai thủ tục mở cửa thị trường cho các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam, đồng thời duy trì thông suốt chuỗi cung ứng hàng hóa và tạo thuận lợi thông quan giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục và nâng hạn mức hàng hóa Việt Nam quá cảnh Trung Quốc đến nước thứ ba bằng đường sắt; tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác vận tải hàng không, đường bộ và đường sắt. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp lớn, có trình độ khoa học công nghệ cao của Trung Quốc mở rộng đầu tư vào Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc sẽ nỗ lực để duy trì đà phát triển quan hệ thương mại Trung - Việt theo hướng ngày càng cân bằng hơn; tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản sang thị trường Trung Quốc trong thời gian tới. Hai bên nỗ lực giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong quan hệ hai nước, tăng cường hợp tác về năng lực sản xuất và tích cực thúc đẩy kết nối khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai và Con đường” trên cơ sở phù hợp với nhu cầu, lợi ích và chiến lược phát triển bền vững của mỗi bên; nhất trí mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực nông nghiệp, môi trường, khoa học công nghệ, y tế.

Phía Trung Quốc cam kết cung cấp cho Việt Nam không dưới 1.000 suất học bổng chính phủ, đào tạo không dưới 1.000 giáo viên tiếng Trung cho Việt Nam.

Hai Tổng Bí thư đã đi sâu trao đổi nhiều vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm. Hai Tổng Bí thư nhấn mạnh, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước là nền tảng xã hội và là nguồn sức mạnh cho quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp, bền vững lâu dài.

Hai Tổng Bí thư đề nghị mỗi bên tiếp tục tạo điều kiện đi lại cho người dân hai nước, sớm khôi phục các chuyến bay thương mại, hợp tác du lịch, giao thương; tiếp tục tạo điều kiện để các địa phương, nhất là các địa phương biên giới hai nước, tăng cường giao lưu, hợp tác, đồng thời mở rộng hợp tác giữa các địa phương của Việt Nam với một số địa phương giàu tiềm năng của Trung Quốc.

Về vấn đề biên giới, lãnh thổ, hai bên nhất trí tăng cường quản lý hiệu quả đường biên giới theo các văn kiện, thỏa thuận ký kết giữa hai bên, thúc đẩy sớm vận hành thí điểm hợp tác du lịch tại khu cảnh quan Thác Bản Giốc (Việt Nam) – Đức Thiên (Trung Quốc).

Về vấn đề trên biển, hai Tổng Bí thư cùng cho rằng, đây là vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước, việc duy trì hòa bình, ổn định trên biển có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của cả hai Đảng, hai nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị hai bên tuân thủ nhận thức chung cấp cao, tôn trọng lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau, giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, phát huy tốt các cơ chế đàm phán trên biển, thúc đẩy phân định và bàn bạc về hợp tác phát triển; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

Thay mặt Đảng và Nhà nước Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình sớm thăm lại Việt Nam trong thời gian gần nhất. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Nguồn: Báo QĐND

Lễ trao tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Huân chương Hữu nghị của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Chiều 31-10, Lễ trao tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Huân chương Hữu nghị của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được tổ chức trọng thể tại Đại Lễ đường Nhân dân ở thủ đô Bắc Kinh.

Tại buổi lễ, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã trao Huân chương Hữu nghị của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 


Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trao Huân chương Hữu nghị tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: TTXVN

Phát biểu tại buổi lễ, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho biết, Huân chương Hữu nghị là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đối với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhân dân Việt Nam về những đóng góp vào việc phát triển quan hệ giữa hai nước cũng như định hướng và thúc đẩy quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung - Việt trong thời đại mới.

Điều đó cũng thể hiện tình cảm sâu sắc, vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa Trung Quốc và Việt Nam, bao hàm niềm hy vọng của hai đảng và nhân dân hai nước cùng theo đuổi tương lai tốt đẹp.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh, tình hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai nước Trung - Việt được củng cố, sự tin cậy về mặt chính trị không ngừng tăng cường, hợp tác thực chất tiếp tục đi vào chiều sâu. Trung Quốc và Việt Nam núi sông liền một dải, là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, cùng phấn đấu vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của hai nước, Đảng Cộng sản Trung Quốc nguyện cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu kế thừa tốt tình hữu nghị truyền thống do các nhà lãnh đạo thế hệ trước như Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh gây dựng và dày công vun đắp, cùng nhau định hướng cho quan hệ Trung Quốc - Việt Nam ngày càng phát triển.

Phát biểu tại buổi lễ, bày tỏ vui mừng được đón nhận Huân chương Hữu nghị của nước CHND Trung Hoa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc anh em về sự ghi nhận cao nhất và những tình cảm tốt đẹp dành cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam và cá nhân Tổng Bí thư.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, việc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trao tặng Huân chương cao quý không chỉ là vinh dự dành cho cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mà còn thể hiện sự trân trọng của Đảng, Nhà nước Trung Quốc, cá nhân đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ nỗ lực cùng với Đảng Cộng sản Trung Quốc để ngày càng phát triển mối quan hệ giữa hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước.

* Chiều 31-10, tại Đại lễ đường Nhân dân, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã trân trọng mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng dự tiệc trà thân mật. Đây là cử chỉ đặc biệt thể hiện sự coi trọng của nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng như mong muốn tăng cường sự tin cậy với nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam.

Nguồn: Báo QĐND

Việt Nam - Trung Quốc ký kết 13 văn kiện hợp tác giữa hai Đảng, hai nước

Chiều 31-10, tại Đại lễ đường Nhân dân ở thủ đô Bắc Kinh, ngay sau khi kết thúc hội đàm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình đã cùng chứng kiến 13 văn kiện đã được các ban, bộ, ngành, trung ương và địa phương ký kết trong chuyến thăm chính thức lần này, bao gồm:

- Thỏa thuận hợp tác giữa Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ủy ban Chính pháp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ hợp tác hữu nghị giai đoạn 2022-2027 giữa Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị Đối ngoại nhân dân Trung Quốc.

Việt Nam - Trung Quốc ký kết 13 văn kiện hợp tác giữa hai Đảng, hai nước

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư pháp nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Tư pháp nước CHND Trung Hoa.

- Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa thành phố Hà Nội, thủ đô nước CHXHCN Việt Nam và thành phố Bắc Kinh, thủ đô nước CHND Trung Hoa.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Thương mại nước CHND Trung Hoa về tăng cường hợp tác đảm bảo chuỗi cung ứng Việt-Trung.

- Bản ghi nhớ giữa Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính nước CHXHCN Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước CHND Trung Hoa về xây dựng lĩnh vực ưu tiên hợp tác.

- Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực sinh thái và môi trường giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Sinh thái và Môi trường nước CHND Trung Hoa.

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Công Thương nước CHXHCN Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước CHND Trung Hoa về an toàn thực phẩm trong thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương nước CHXHCN Việt Nam và chính quyền nhân dân tỉnh Vân Nam nước CHND Trung Hoa về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại.

- Kế hoạch hợp tác văn hóa và du lịch giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Văn hóa và Du lịch nước CHND Trung Hoa giai đoạn 2023-2027.

- Bản ghi nhớ về tăng cường giao lưu hợp tác trong lĩnh vực tài sản nhà nước và doanh nghiệp nhà nước giữa Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nước CHXHCN Việt Nam và Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước CHND Trung Hoa.

 - Nghị định thư yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả chuối tươi xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước CHXHCN Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước CHND Trung Hoa.

Nguồn: Báo QĐND

Bộ trưởng Ngoại giao: Tiếp thêm động lực mới cho quan hệ Việt Nam - Trung Quốc

Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn có bài viết đăng trên báo chí Trung Quốc: “Tiếp thêm động lực mới cho quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc”.

Nhân dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã có bài viết đăng trên Nhân Dân nhật báo - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Theo Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn, Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông, nhân dân hai nước có tình hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong 72 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng việc phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc.

Củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước là hoàn toàn phù hợp với lợi ích căn bản, lâu dài của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Người đứng đầu ngành Ngoại giao Việt Nam bày tỏ vui mừng nhận thấy, với nỗ lực chung của cả hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục có bước phát triển quan trọng trên các lĩnh vực.

Lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi thường xuyên với hình thức linh hoạt, đưa ra định hướng quan trọng cho quan hệ song phương. Từ năm 2020 đến nay, thích ứng với tình hình đại dịch Covid-19, hai bên vẫn duy trì trao đổi, tiếp xúc cấp cao mật thiết thông qua các hình thức linh hoạt như điện đàm, hội đàm trực tuyến, trao đổi thư tín..., góp phần tăng cường tin cậy chính trị và tạo sự lan tỏa đến giao lưu, hợp tác các cấp, các ngành và mọi lĩnh vực giữa hai nước.

Nói về những thành quả hợp tác kinh tế - thương mại, Bộ trưởng Ngoại giao cho biết, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN, trong khi Trung Quốc nhiều năm liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam duy trì tăng trưởng qua các năm.

Bộ trưởng nhấn mạnh, có được những thành quả tốt đẹp như trên là không dễ dàng, nhất là trong bối cảnh chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu gặp khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19.

Hai bên đã kiểm soát và xử lý thỏa đáng bất đồng, mở rộng điểm đồng, nỗ lực giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Hai bên duy trì trao đổi tại các cơ chế đàm phán về biên giới lãnh thổ, thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao, kịp thời xử lý thỏa đáng các vấn đề phát sinh.

Tình hình biên giới trên đất liền về tổng thể ổn định, hai bên phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý đường biên mốc giới, mở mới và nâng cấp cửa khẩu, hợp tác phòng chống dịch bệnh; tích cực phối hợp tháo gỡ khó khăn trong thông quan hàng hóa, thúc đẩy hợp tác phát triển tại khu vực biên giới.

Trong vấn đề trên biển, hai bên duy trì trao đổi thường xuyên ở các cấp, các kênh, kể cả cấp cao; các Nhóm công tác về vấn đề trên biển họp định kỳ với hình thức linh hoạt.

Việt Nam sẵn sàng ủng hộ và thúc đẩy quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Việt Nam đánh giá cao sự phối hợp, ủng hộ tích cực của Trung Quốc, nhất là trong nhiệm kỳ Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020. Với nỗ lực chung của các bên, quan hệ ASEAN - Trung Quốc tiếp tục phát triển toàn diện, sâu rộng và năng động trên tất cả các lĩnh vực.

Hai bên cũng đã phối hợp, hợp tác chặt chẽ tại các cơ chế, diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, APEC, EAS, ASEM, Mekong – Lan Thương. Việt Nam đánh giá cao sự ủng hộ, hợp tác tích cực của Trung Quốc trong thời gian Việt Nam đảm nhiệm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021.

Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc không chỉ là sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, đây còn là sự kiện lớn thu hút sự quan tâm chú ý của toàn thế giới. Việt Nam luôn ủng hộ Trung Quốc không ngừng phát triển, đóng góp ngày càng quan trọng, tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng củng cố và phát triển quan hệ với Trung Quốc, coi đây là chủ trương nhất quán, ưu tiên hàng đầu trong tổng thể chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam.

Để thực hiện tốt định hướng quan trọng này, hai bên cần tăng cường giao lưu, tiếp xúc cấp cao, phát huy hiệu quả các cơ chế hợp tác giữa hai Đảng và giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân. Thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư tăng trưởng ổn định, cân bằng, bền vững, mở rộng các lĩnh vực hợp tác thực chất khác phù hợp với lợi ích của hai bên, nâng tầm hợp tác, ứng phó hiệu quả với các thách thức mới nổi như an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng...

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi, có truyền thống hữu nghị lâu đời, cùng kiên trì đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

"Với nền tảng hữu nghị bền chặt do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các thế hệ lãnh đạo tiền bối hai nước dày công vun đắp; phát huy những thành quả đáng khích lệ trong hợp tác thực chất thời gian qua, chúng ta tin tưởng và kỳ vọng, với sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo hai Đảng, hai nước, quan hệ Việt - Trung sẽ không ngừng được tiếp thêm những động lực mới, phát triển lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới", Bộ trưởng khẳng định.

Nguồn: Báo VietNamNet

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2022

Đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sang giai đoạn phát triển mới

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ ngày 30-10 đến ngày 1-11.

Chuyến thăm chính thức Trung Quốc lần này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là sự kiện đối ngoại đặc biệt quan trọng đối với cả Việt Nam và Trung Quốc, được dư luận hai nước và quốc tế quan tâm. Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm chính thức Trung Quốc ngay sau khi kết thúc Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc thể hiện sự coi trọng của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và cá nhân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đối với vị thế, vai trò quốc tế của Việt Nam và cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Những năm gần đây, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc tiếp tục phát triển tích cực. Các cuộc gặp gỡ, trao đổi cấp cao giữa hai nước diễn ra thường xuyên hơn, ngay cả trong điều kiện khó khăn của đại dịch Covid-19, đặc biệt là 4 cuộc điện đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, các cuộc hội đàm trực tuyến và điện đàm giữa lãnh đạo chủ chốt hai nước. Quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng được tăng cường qua sự hợp tác thường xuyên, thiết thực giữa các ban đảng của hai bên và các hình thức hợp tác, trao đổi lý luận. Cùng với đó, hợp tác giữa các cơ quan Chính phủ, Quốc hội/Nhân đại, Mặt trận Tổ quốc/Chính hiệp, các địa phương và tổ chức nhân dân hai nước tiếp tục phát triển hiệu quả; hợp tác quốc phòng, an ninh được củng cố; hợp tác thương mại, đầu tư và du lịch tăng mạnh; tình hình biên giới trên bộ giữa hai nước cơ bản duy trì hòa bình, ổn định; hai nước tích cực hợp tác trong phòng, chống dịch Covid-19; công tác thông tin, tuyên truyền về tình hình mỗi đảng, mỗi nước và quan hệ hai nước được đẩy mạnh.

Với những kết quả hợp tác tích cực đó, chuyến thăm lần này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ góp phần triển khai tích cực, mạnh mẽ đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng ta; tăng cường sự hiểu biết, tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước; phấn đấu đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc bước sang giai đoạn phát triển mới, góp phần tích cực vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực nước ngoài cho phát triển; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Chuyến thăm sẽ góp phần quan trọng vào việc đề cao đường lối đối ngoại, trong đó khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam coi trọng quan hệ với Trung Quốc và coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại; mong muốn quan hệ Việt Nam-Trung Quốc phát triển lâu dài, ổn định, ngày càng hiệu quả, thực chất theo tinh thần nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; đồng thời làm rõ những quan tâm, lập trường đúng đắn, các lợi ích chính đáng của Việt Nam.

Bên cạnh đó, chuyến thăm lần này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định sự ủng hộ của Việt Nam đối với vị trí của Đảng Cộng sản Trung Quốc là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội; những tư tưởng, đường lối phát triển của Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc có lợi cho hòa bình, hợp tác và phát triển; vị trí “hạt nhân lãnh đạo” của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình được Đảng Cộng sản Trung Quốc xác lập; đồng thời góp phần thúc đẩy chính sách của Trung Quốc về quan hệ hữu nghị, hợp tác với Việt Nam, ủng hộ Việt Nam phát triển, có vị thế quốc tế ngày càng cao, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Thông qua chuyến thăm cũng thể hiện mong muốn củng cố, mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tiếp tục làm định hướng cho quan hệ hai nước; tăng cường quan hệ trên các kênh Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc; tạo chuyển biến mới tích cực trong hợp tác bình đẳng, cùng có lợi về kinh tế, thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác; nâng cao hợp tác quốc phòng, an ninh, tăng cường hợp tác giữa hai nước tại các diễn đàn quốc tế; phát triển quan hệ giữa các tổ chức quần chúng, giao lưu nhân dân và thúc đẩy xu thế tích cực trong thông tin, tuyên truyền.

Dư luận và nhân dân Việt Nam cũng như Trung Quốc đặc biệt quan tâm và đang dõi theo chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với sự lạc quan và niềm tin tưởng lớn lao rằng chuyến thăm sẽ tiếp thêm động lực để đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc bước sang một giai đoạn mới, đi vào chiều sâu, hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.

Nguồn: Báo QĐND

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh, bắt đầu thăm chính thức Trung Quốc

Trưa nay 30/10 (theo giờ địa phương), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới Bắc Kinh, bắt đầu chuyến thăm chính thức nước CHND Trung Hoa. 

Sau hơn 3 giờ bay, đúng 13.20 chiều 30/10 (theo giờ địa phương), chuyên cơ chở Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã hạ cánh xuống sân bay quốc tế Bắc Kinh, bắt đầu chuyến thăm chính thức nước CHND Trung Hoa theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình.

Đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tại sân bay Bắc Kinh có đồng chí Lưu Kiến Siêu, Trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; cùng một số cán bộ Ban Liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai, đại diện cán bộ đại sứ quán nồng nhiệt chào đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn công tác.

Đồng chí Lưu Kiến Siêu (bên phải), Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Sân bay Quốc tế Bắc Kinh. 

Chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra sau khi Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc kết thúc thành công, ban lãnh đạo mới đã được công bố và đồng chí Tập Cận Bình được bầu lại làm Tổng Bí thư nhiệm kỳ thứ 3.

Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm Trung Quốc cho thấy tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo chương trình, ngày mai 31/10, lễ đón chính thức Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ được tổ chức trọng thể tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh do Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình chủ trì.

Ngay sau lễ đón, Tổng Bí thư hai nước sẽ tiến hành hội đàm cấp cao và chứng kiến lễ ký kết nhiều văn kiện quan trọng./.

Nguồn: VOV1

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2022

Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư có ý nghĩa hết sức quan trọng

Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai đã có những chia sẻ về quan hệ hai nước cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Đại sứ Phạm Sao Mai: Tôi vui mừng nhận thấy, với nỗ lực chung của cả hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc thời gian qua về tổng thể tiếp tục duy trì đà phát triển ổn định, tích cực, đạt nhiều thành quả quan trọng trên các lĩnh vực.

Về quan hệ chính trị, trao đổi, tiếp xúc cấp cao diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức linh hoạt, góp phần quan trọng vào việc tăng cường tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước.

Đặc biệt, sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1-2021), lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội hai nước lần lượt có các cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến, đưa ra những định hướng lớn quan trọng, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác cùng có lợi Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh.

Hợp tác, giao lưu kênh Đảng, ngoại giao, quốc phòng, công an, các địa phương biên giới và giao lưu nhân dân hai nước duy trì mật thiết.

Hai bên tổ chức thành công Phiên họp lần thứ 14 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc (tháng 7-2022).

Hợp tác kinh tế, thương mại duy trì phát triển ổn định. Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, trong khi Việt Nam tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đối tác lớn thứ sáu của Trung Quốc trên thế giới.

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, kim ngạch hai chiều 9 tháng đầu năm nay đạt 132,3 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu hoa quả của Việt Nam sang Trung Quốc có tiến triển mới, trong đó sầu riêng chính thức là loại quả thứ mười được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc từ tháng 7-2022.

Về đầu tư, 9 tháng năm 2022, Trung Quốc đứng thứ 4/97 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký cấp mới đạt 1,5 tỷ USD; lũy kế đến tháng 9-2022, Trung Quốc xếp thứ 6/139 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt 22,438 tỷ USD. Vướng mắc trong các dự án đầu tư, hợp tác kinh tế từng bước được tháo gỡ.

Hợp tác phòng chống dịch Covid-19 đạt nhiều kết quả thực chất. Trung Quốc là một trong những nước cung cấp vaccine nhiều nhất, đóng góp hiệu quả cho công tác phòng chống, kiểm soát dịch bệnh tại Việt Nam. Giao lưu nhân dân từng bước được khôi phục, 9 tháng năm 2022, có 78.100 lượt khách Trung Quốc đến Việt Nam, tăng 1,7 lần so với cùng kỳ năm trước.


Về biên giới lãnh thổ, hai bên đã phối hợp chặt chẽ triển khai thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới; đạt được nhận thức chung về kiểm soát bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định trên biển phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, đồng thời tích cực thúc đẩy các cơ chế đàm phán về các vấn đề trên biển, thực hiện hiệu quả Tuyên bố của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy tiến trình tham vấn Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).

Ngoài ra, hai bên cũng tích cực phối hợp tại các diễn đàn đa phương, nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác tại khu vực và trên thế giới, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Tuy nhiên, do tác động tiêu cực của dịch Covid-19, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn đối mặt với một số khó khăn như thông quan hàng hóa tại cửa khẩu có lúc chưa thông suốt, các chuyến bay thẳng chưa được khôi phục bình thường… Mặc dù vậy, hai bên vẫn duy trì trao đổi thẳng thắn qua nhiều kênh nhằm tìm kiếm các biện pháp tháo gỡ những vấn đề trên.

Đại sứ Phạm Sao Mai trả lời phỏng vấn báo chí Việt Nam về ý nghĩa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc 

- Xin Đại sứ cho biết ý nghĩa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước?

Đại sứ Phạm Sao Mai: Đây là chuyến thăm song phương chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta tới Trung Quốc kể từ sau khi bùng phát đại dịch Covid-19, là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội XIII và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng là nhà lãnh đạo cấp cao nước ngoài đầu tiên thăm Trung Quốc sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, dịch Covid-19 đã và đang tác động tiêu cực, nhiều chiều tới tình hình chính trị, kinh tế toàn cầu, chuyến thăm lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc; củng cố tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước, góp phần đưa quan hệ song phương bước sang giai đoạn phát triển mới.

- Xin Đại sứ đánh giá về triển vọng quan hệ hai nước trong bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp hiện nay? Hai nước cần làm gì để tiếp tục đẩy mạnh và khai thác tối đa tiềm năng hợp tác trong thời gian tới?

Đại sứ Phạm Sao Mai: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa, đang tiến hành đi sâu đổi mới, cải cách mở cửa. Quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa hai nước do các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp, đã trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc.

Trong tình hình hiện nay, việc củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phù hợp lợi ích căn bản, lâu dài của hai bên, có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác ở khu vực và trên thế giới.

Để phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của quan hệ song phương, tôi cho rằng thời gian tới, hai bên cần tăng cường giao lưu cấp cao và các cấp, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị, thúc đẩy thực hiện nghiêm túc, đầy đủ những nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, cũng như các thỏa thuận song phương giữa các bộ, ngành và địa phương hai nước; kịp thời cùng nhau tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hợp tác thực chất trên tất cả các lĩnh vực.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, với lợi thế, tiềm năng, nhu cầu và thành tựu hiện tại của quan hệ song phương, cùng với quyết tâm và nỗ lực chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới với nền tảng hữu nghị, hợp tác vững chắc hơn.

- Trân trọng cảm ơn Đại sứ.

Nguồn: Báo QĐND

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lên đường thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, sáng nay (30-10), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời Hà Nội đi thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ ngày 30-10 đến ngày 1-11-2022.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ra sân bay tiễn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn.

Tham gia đoàn có các đồng chí: Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương; Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương; Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội; Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Lê Minh Hưng, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ; một số đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng là Bộ trưởng, Bí thư Tỉnh ủy; Trợ lý Tổng Bí thư và Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2022

Nhóm Tiếng - Dân-TV lại gắp lửa bỏ tay người

 



Đây là hình ảnh xuyên tạc, lồng ghép bịa đặt nhằm bôi nhọ bản chất, truyền thống của Quân đội ta. Mọi người cảnh giác không để mắc mưu của những kẻ phản đông, lừa đảo trắng trợn như thế và phải lên án mạnh mẽ. 

Thứ Ba, 11 tháng 10, 2022

Ngăn chặn âm mưu tác động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Hiện nay, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nguy cơ hết sức nghiêm trọng đối với sự tồn vong, vững mạnh của đất nước ta, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, trong đó có quốc phòng, an ninh. Đây thực sự là một hiểm họa tiềm tàng, một loại kẻ thù giấu mặt, một thứ “giặc nội xâm” nguy hiểm, cần được nhận diện, ngăn ngừa, đấu tranh.

Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII đã chỉ rõ: “Bước vào giai đoạn phát triển mới,đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, 4 nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,“tự diễn biến”,“tự chuyển hoá”còn diễn biến phức tạp”.

Lợi dụng những vấn đề liên quan đến quốc phòng - an ninh của đất nước, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh nhiều hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc chống phá. Mục đích của họ là tuyên truyền, kích động nhằm làm lung lạc, suy giảm hoặc mất niềm tin của nhân dân đối với đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về sự nghiệp an ninh, quốc phòng. Vì vậy, cần phải nhận diện và đề cao cảnh giác.

Ở mức độ biểu hiện đầu tiên, người có biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh có thái độ thiếu tin tưởng vào khả năng, sức mạnh quốc phòng, an ninh trong bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã viết nên những trang sử vẻ vang với bao chiến công chói lọi chống lại kẻ thù ngoại xâm. Nhưng đáng buồn thay, một số kẻ đã vội quên đi những chiến thắng oanh liệt được đánh đổi bằng hi sinh, xương máu của các thế hệ cha anh.

Nhìn lại sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, khi tình hình biên giới, biển, đảo có diễn biến phức tạp, nhạy cảm, những người này thể hiện sự bi quan, hoang mang. Một số quay sang phê phán đường lối xử lý của Đảng, Nhà nước ta. Thậm chí có quan điểm còn cho rằng, Việt Nam là nước nhỏ nên cần phải nhượng bộ, “chấp nhận” theo sự sắp đặt của các nước lớn. Những biểu hiện ấy dẫn đến sự lệch lạc trong nhìn nhận, xem xét các vấn đề về quốc phòng, an ninh; làm ảnh hưởng tới sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang và đối sách của Đảng, Nhà nước.

Ở mức độ tiếp theo, từ thiếu niềm tin, họ bắt đầu đòi hỏi phải có sự đổi mới nhưng theo hướng dựa vào bên ngoài, xa rời nguyên tắc độc lập, tự chủ. Họ muốn đi theo các nước lớn để nhận được sự giúp đỡ về vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Đây là suy nghĩ phiến diện, một chiều, có thể gây ra mối nguy hại về lâu dài cho đất nước. Bởi lẽ, trên thế giới đã có việc nước nhỏ dựa vào nước lớn để trợ giúp về vũ khí, quân sự. Tuy nhiên, sự trợ giúp này không phải là “miễn phí”, mà còn kèm theo những yêu cầu, đòi hỏi từ nước lớn nên thường dẫn tới yếu tố gây mất ổn định chính trị, thậm chí nguy cơ xảy ra xung đột, chiến tranh.

Ở mức độ cuối cùng, họ xuyên tạc, công kích, chống đối đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Đây là mức độ biểu hiện, phản ánh rõ ràng tính chất trầm trọng và đặc biệt nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Nội dung thông tin và luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh hiện nay hết sức đa dạng, với nhiều biểu hiện khác nhau. Chủ yếu vẫn là: đòi phi chính trị hóa Quân đội và Công an, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang và sự nghiệp quốc phòng, an ninh; xuyên tạc mục đích của các hợp đồng mua bán vũ khí, trang bị cho Quân đội và Công an; xuyên tạc mục đích các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta tới các nước và nguyên thủ các nước tới thăm Việt Nam; xuyên tạc, bóp méo tình hình khiếu kiện, mất ổn định và cách giải quyết của lãnh đạo, chính quyền ở một số địa phương; xuyên tạc lịch sử và thực trạng tình hình biên giới, hiện trạng trên biển...

Mục đích của những thông tin và luận điệu xuyên tạc đó là làm xấu hình ảnh của Quân đội và Công an trước nhân dân và dư luận quốc tế; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo ra sự nghi ngờ, hoang mang trong nhân dân; làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo, cách thức giải quyết sự việc liên quan đến quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào CAND, QĐND hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, lơi lỏng nhiệm vụ, rơi vào lối sống thực dụng, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của CAND và QĐND.

Với vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân, “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, CAND có vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình, lực lượng CAND đã thực hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị quan trọng. Đã chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và vô hiệu hóa nhiều âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch; tổ chức có hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, gương mẫu đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng“Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”...

Bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của lực lượng CAND vẫn còn một số hạn chế, nhất là trong công tác quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ còn bộc lộ sơ hở, có nơi để xảy ra một số vụ việc cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật của Đảng, của ngành, gây dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, truyền thống của lực lượng. Trong công tác và chiến đấu, một số cán bộ, chiến sĩ còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu ý chí rèn luyện, phấn đấu vươn lên, thậm chí có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống.

Để đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” nói chung và “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh nói riêng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị phải nhận diện chính xác những biểu hiện của “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết, kiên trì, chủ động ngăn chặn, phản bác những thông tin, luận điệu sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Là lực lượng tiên phong, gương mẫu đi đầu, cán bộ, chiến sĩ CAND cần không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, quyết tâm giữ mình trong sạch; không sa ngã trước những cám dỗ; không để các thế lực thù địch lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, tác động.

“Bắt mạch” thủ đoạn lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí

Xã hội hiện đại, báo chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm, ý chí của Nhà nước và tiếng nói của nhân dân, là công cụ của tự do biểu đạt. Ngày nay, tự do ngôn luận, tự do báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng, được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ, có tác động thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.

Cứ thành thói quen, vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3/5) hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6), trên nhiều trang mạng trong và ngoài nước cũng như một số phương tiện truyền thông quốc tế đã có những đánh giá sai lệch, xuyên tạc thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” ra sức nguỵ biện để đổi trắng thay đen, nói không thành có, có thành không về thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, họ triệt để lợi dụng sự đánh giá không khách quan, trung thực, thiếu thiện chí của một số hãng thông tấn, báo chí nước ngoài về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm hạ thấp vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Để đạt được mục đích, họ thành lập một số tổ chức nhân danh báo chí như: “Phóng viên không biên giới”, “The project 88”… để đấu tranh cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”, đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam và một số quốc gia, vu khống Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Gây sức ép đòi thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo… Sâu xa hơn là lợi dụng danh nghĩa đấu tranh “tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối lật đổ chính quyền.

Cần khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.

Tuyên ngôn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa nhân văn cao cả, luôn được Nhà nước Việt Nam tuân thủ, kế thừa, phát triển phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh. Ngược dòng lịch sử, ngày 9/11/1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Kế thừa quy định về quyền tự do ngôn luận từ bản Hiến pháp đầu tiên, các văn kiện của Đảng, các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được bảo đảm, thực thi trong thực tế đời sống, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí sửa đổi năm 2016. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”.

Điều 13 chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của mình, đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Đến hết năm 2020, Việt Nam có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền. Việt Nam còn được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất trên thế giới. Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt ở Việt Nam. 

Theo báo cáo "Thị trường ứng dụng di động 2021" do Appota phát hành, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng điện thoại di động, trong đó có 64% các thuê bao đã kết nối 3G và 4G. Tỷ lệ dân số sử dụng Internet cũng chiếm 70%, lượng người dùng sử dụng Internet qua thiết bị di động chiếm khoảng 95% và trung bình họ có 3 giờ 18 phút để sử dụng Internet qua di động. Đây là con số khá ấn tượng, chứng minh smartphone đang được ưu tiên làm thiết bị kết nối chính nhờ sự tiện lợi và phổ biến.

Số người dùng Facebook tại Việt Nam (năm 2020) có 69.280.000 người, chiếm 70,1% dân số. Chất lượng truy cập Internet Việt Nam cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn, một số thông số cao hơn số liệu công bố bởi các hệ thống quốc tế. Điều này phản ánh nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam phục vụ nhu cầu sử dụng Internet. Sóng của những hãng thông tấn, báo chí lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg… đều được tiếp cận dễ dàng tại Việt Nam.

Những minh chứng trên cho thấy, không thể phủ nhận những thành thành tựu to lớn, vững chắc đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam và sự chủ động thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết quốc tế nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà Việt Nam tham gia. Hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm về thực tế việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mình, vì không ai khác, chính mỗi công dân Việt là người trong cuộc, rõ hơn hết việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đó đến đâu.

Những luận điệu xuyên tạc, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân, không đại diện cho dân, không do dân và vì dân thì làm sao có thể gọi là khách quan, làm sao thể hiện tiếng nói dân chủ như những gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.

Hiển nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không phải là tự do quá trớn. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lên án, phê phán những ý kiến với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển ở nước ta.

Nguồn: Báo CAND

Không thể cổ xúy hành vi núp bóng tự do internet để miệt thị cá nhân, cộng đồng

Sự bùng nổ mạnh mẽ của mạng xã hội những năm gần đây đã tăng thêm tiện ích để mọi người thể hiện quyền tự do cá nhân. Tuy nhiên, mặt trái của mạng xã hội là các phát ngôn lệch chuẩn, các thông tin giả, độc hại được lan truyền ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.

Điều đáng nói là một số hành vi sai trái trên mạng xã hội bị phát giác và được xử lý theo đúng quy định của pháp luật, song các thế lực thù địch cố ý vin vào để chống phá.

Hồi tháng 3/2022, Công an TP Hồ Chí Minh khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với bà Nguyễn Phương Hằng, sinh năm 1971, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam, trú tại 17-19 Ngô Đức Kế, phường Bến Nghé, quận 1, TP Hồ Chí Minh với tội danh “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331, Bộ luật Hình sự. Điều đáng nói là dù việc khởi tố điều tra, tạm giam với bà Nguyễn Phương Hằng là thực hiện theo các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và được thông báo công khai trên các phương tiện truyền thông, song một số tổ chức, cá nhân lại tìm cách “bẻ lái, xoay chiều”. Một số tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ; các hãng truyền thông như RFA, RFI, VOA… đã đưa ra nhiều bài viết, hình ảnh, video có nội dung xuyên tạc, sai trái rồi quy chụp “Ở Việt Nam này luật pháp không tồn tại”, “quyền tự do dân chủ bị bóp nghẹt”… Số này đưa ra các bài viết tô vẽ, đánh bóng hình ảnh bị can Nguyễn Phương Hằng như một thần tượng, từ đó hướng lái dư luận rằng ở Việt Nam, hễ ai “cứ nổi tiếng trên mạng xã hội thì sẽ bị “diệt”!

Trước đó, sau khi phiên toà xét xử bị cáo Trương Châu Hữu Danh và đồng phạm kết thúc, trang BBC giật tít: “Vụ xử “Báo Sạch”: Việt Nam đừng nên coi truyền thông là kẻ thù”. Bài báo dẫn lời Phó Giám đốc phụ trách châu Á của Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch), ông Phil Robertson nói rằng “Việt Nam không nên coi truyền thông là kẻ thù của nhà nước, việc bỏ tù thêm nhiều nhà báo công dân sẽ không ngăn được người dân lên tiếng, hoặc yêu cầu cải cách ở Việt Nam”. Từ đó kêu gọi “Chính phủ nên công nhận các nhà báo công dân và truyền thông độc lập là đồng minh của công tác quản trị nhà nước tốt”!

Việc xử phạt vi phạm hành chính áp dụng đối với những cá nhân vi phạm ít nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên việc xử phạt được thực hiện kịp thời để đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung.

Chẳng hạn, ngày 22/8/2022, Công an tỉnh Lâm Đồng có quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H.N.M, chủ tài khoản TikTok H.M số tiền 10 triệu đồng do người này đăng clip miệt thị người miền Trung. Dư luận cho rằng, những lời lẽ H.N.M đưa ra là không có cơ sở nhưng đã gây hiệu ứng mạng nguy hiểm, nội dung trong video đã thể hiện sự phân biệt đối xử, kỳ thị vùng miền, tạo tâm lý đố kỵ, chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam, đi ngược với tinh thần xây dựng nếp sống văn hoá, đoàn kết toàn dân. Điều đáng nói là dù việc xử phạt đã được tiến hành công khai và đúng quy định pháp luật, người vi phạm cũng thừa nhận hành vi sai trái, gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội nhưng một số kênh thông tin lại “bẻ lái”, cho rằng việc đăng clip như vậy “là cần thiết” và việc cơ quan chức năng xử phạt H.N.M là “bịt miệng người dân, trấn áp vô lý”!

Đặc biệt, đối tượng mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá là một số cá nhân nổi tiếng có lượt người theo dõi, tương tác cao trên các nền tảng mạng xã hội. Khi những phát ngôn gây sốc, lệch chuẩn, những hành vi vi phạm pháp luật trên mạng xã hội gây bức xúc trong dư luận được cơ quan chức năng xử lý theo luật định, họ lại tỏ vẻ bênh vực, cổ xúy cho những hành vi sai trái đó. Đồng thời, họ đưa ra luận điệu bóp méo, bôi đen bức tranh hiện thực về tình hình tự do ngôn luận ở Việt Nam, công kích cơ quan chức năng, phủ nhận hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề tự do ngôn luận trên không gian mạng.

Mục đích của các thế lực thù địch là đánh tráo bản chất các sai phạm về tự do ngôn luận trên mạng xã hội, biến đối tượng vi phạm pháp luật từ có sai phạm thành không sai phạm. Họ thậm chí tán dương cho lối ứng xử thiếu văn hóa, phát ngôn sai trái, lệch lạc trên mạng xã hội. Thực chất của âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm gây phân tâm trong cộng đồng xã hội, tạo ra sự hoài nghi về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do ngôn luận; từ đó, phủ nhận những thành tựu, nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người trên không gian mạng; hạ thấp vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế.

Đảng, Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận của công dân. Tuy nhiên, đối với việc sử dụng mạng xã hội để dàn dựng, xuyên tạc sự thật, tung tin sai trái, thất thiệt với ngôn ngữ, nội dung phản cảm, thô tục, xuyên tạc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm đến các tổ chức, cá nhân, xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc thì phải chấn chỉnh, xử lý để răn đe người vi phạm và phòng ngừa chung.

Không chỉ riêng Việt Nam, mà nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều có các biện pháp khuyến khích công dân ứng xử có văn minh trên mạng xã hội, bảo đảm cho tự do ngôn luận đi theo chiều hướng tích cực, có lợi, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi khách quan. Việc xây dựng các quy định luật pháp về tự do ngôn luận của mỗi quốc gia đều căn cứ truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, những điều kiện, bối cảnh lịch sử cụ thể… Như tại Singapore, luật pháp quy định phạt đến 100.000 đôla Singapore hoặc phạt tù tới 3 năm với hành vi nói xấu, phỉ báng, vu khống trong sinh hoạt hằng ngày và trên mạng xã hội; nếu bị phát hiện đưa tin giả lên mạng xã hội, khi nhà chức trách yêu cầu cải chính mà không chấp hành, có thể sẽ bị phạt đến 20.000 đôla Singapore hoặc 12 tháng tù. Luật pháp nước này nghiêm cấm các hành vi đi ngược lợi ích và ổn định cộng đồng, làm tổn hại an ninh và an toàn cộng đồng, làm tổn hại sức khỏe, kích động sự hận thù giữa các nhóm xã hội, suy giảm niềm tin vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, làm tổn hại quan hệ giữa Singapore với các quốc gia khác

Ngay như ở một số nước tư bản phát triển, quyền tự do ngôn luận không thể bất tuân pháp luật. Như ở Mỹ, Tối cao pháp viện nước này đã khẳng định, tự do ngôn luận không có nghĩa là có quyền bịa chuyện vu khống, phỉ báng cá nhân; giới hạn về tự do ngôn luận thể hiện qua án lệ của tòa án, cho phép chính quyền có quyền ngăn chặn, trừng phạt phát ngôn có tính khiêu dâm, phỉ báng, tục tĩu, xúc phạm, gây hấn. Ở Pháp, pháp luật cũng quy định những giới hạn, có các chế tài nghiêm khắc đối với hành vi lạm dụng tự do ngôn luận xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, đồng thời chống lại việc vu khống, bôi nhọ, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, kích động bạo lực, gây hận thù. Bộ luật Dân sự của Pháp cấm xâm phạm đời tư cá nhân; Luật Hình sự nước này cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia; Luật Tự do báo chí điều chỉnh hành vi tổ chức, cá nhân trên mạng internet. Ở Anh ban hành “Quy tắc hành nghề cho các nhà cung cấp nền tảng truyền thông xã hội trực tuyến” hay ở Australia cũng ra “Bộ Quy tắc ứng xử trên truyền thông xã hội và bình luận trực tuyến”, điều này cho phép các quốc gia này kiểm soát vấn đề ngôn luận trên nền tảng mạng xã hội, truyền thông.

 Không chỉ mỗi quốc gia riêng biệt, Liên minh châu Âu (EU) cũng ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Twitter, Google, TikTok; cam kết bảo đảm các công ty, tổ chức, cá nhân tiếp cận nhanh chóng, đánh dấu và gỡ bỏ các phát ngôn thù địch cùng nội dung bất hợp pháp trên các nền tảng của họ. Việc các nền tảng mạng xã hội chủ động tuân theo bộ quy tắc xuất phát từ việc EU sẽ trực tiếp giám sát hoạt động này. Báo cáo mới nhất của EU đánh giá kết quả thực thi của Bộ Quy tắc năm 2020 đã ghi nhận 71% nội dung xác nhận là phát ngôn thù địch bất hợp pháp đã bị gỡ bỏ, tăng so với con số 26% của năm 2016.

Tự do ngôn luận là một trong các quyền cơ bản của con người, tuy nhiên quyền này không thể đặt ngoài khuôn khổ pháp luật. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 chỉ rõ: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 xác định mọi người đều có quyền tự do quan niệm, tự do phát biểu quan điểm, tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin tức, ý kiến bằng phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. Đồng thời, Điều 29 Tuyên ngôn cũng bắt buộc mọi người phải tuân thủ những hạn chế do luật định nhằm bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng quyền của người khác, đáp ứng các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.

Theo đó, luật pháp quốc tế khẳng định quyền tự do ngôn luận không phải là tự do vô hạn, bất tuân pháp luật; trong một số trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh, ở các quốc gia tự do ngôn luận bị giới hạn. Từ thực tế trên cho thấy, không thể có tự do ngôn luận tuyệt đối trong bất cứ chế độ chính trị nào, các quốc gia đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung; những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận mà gây hại đến tổ chức, cá nhân, lợi ích quốc gia - dân tộc đều bị xử lý.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để quyền tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các luật, văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã cụ thể hóa Hiến pháp, ngày càng được hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên cơ sở luật pháp. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội quy định cho tổ chức, cá nhân khi tham gia mạng xã hội có những ứng xử phù hợp.

Để lành mạnh hóa môi trường mạng xã hội, góp phần thúc đẩy, bảo đảm tự do ngôn luận của các tổ chức, cá nhân, điều cần thiết là mỗi người dân cần nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, nêu cao ý thức trách nhiệm khi ứng xử trên mạng xã hội, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản bác các âm mưu, thủ đoạn sai trái về tự do ngôn luận ở Việt Nam.

Bảo vệ không gian mạng - yêu cầu cấp thiết

 Thời gian qua, tình hình an toàn, an ninh mạng diễn biến phức tạp, khó kiểm soát đối với các nước.

Ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đã và đang lợi dụng triệt để không gian mạng để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhân dân. Vì vậy, nâng cao nhận thức trách nhiệm về xây dựng và bảo vệ không gian mạng là hết sức quan trọng và cấp thiết...

Lợi ích và các thách thức

Không gian mạng đã và đang mang lại nhiều giá trị tích cực cho sự phát triển của xã hội, tổ chức và cá nhân. Cùng với sự phát triển không ngừng của các dịch vụ internet, các công nghệ mạng 4G, 5G, các trang mạng xã hội, các thiết bị IoT, dịch vụ điện toán đám mây... không gian mạng đang làm cho con người tương tác đa chiều hơn, phản ánh sinh động, tức thời hơn với mọi mặt đời sống và các mối quan hệ xã hội. Chính điều này đã biến không gian mạng trở thành không gian xã hội mới, nơi con người có thể thực hiện các hành vi mang bản chất xã hội của mình, như giao tiếp, sáng tạo, lao động, sản xuất, tiêu dùng, học tập và vui chơi giải trí, không bị giới hạn bởi địa lý, ngôn ngữ, không gian và thời gian.

Lợi ích của không gian mạng còn được biết đến là nền tảng số trong chương trình chuyển đổi số quốc gia, các Chiến lược phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, không gian mạng là nơi diễn ra các hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân trên môi trường số; các giao tiếp giữa chính quyền và người dân, doanh nghiệp cơ bản diễn ra trên không gian mạng. Khi đó, không gian mạng thật sự trở thành không gian với nguồn tài nguyên số vô tận, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là con người.

Bảo vệ không gian mạng - yêu cầu cấp thiết
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn 

Cùng với những lợi ích to lớn, không gian mạng đang tạo ra các nguy cơ và thách thức đối với an ninh quốc gia, an ninh con người và trật tự an toàn xã hội. Đó là những thách thức về tình báo mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng, nguy cơ về một cuộc chiến tranh mạng và hàng loạt nguy cơ khác. Nếu không gian mạng quốc gia không được bảo vệ, các bí mật Nhà nước sẽ bị lộ lọt; các hạ tầng quan trọng của quốc gia như hệ thống thông tin hàng không, điện lưới quốc gia, giao thông đường bộ, các cơ sở công nghiệp trọng yếu sẽ bị phá hủy; hệ thống tài chính, ngân hàng và nhiều lĩnh vực khác bị đình trệ hoặc rối loạn hoạt động.

Thời gian qua, các thế lực thù địch đã lợi dụng môi trường mạng xã hội để xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nền tảng tư tưởng của Đảng; lôi kéo, kích động các phần tử bất mãn, tập hợp lực lượng, thành lập các tổ chức chống đối; tán phát tài liệu, kêu gọi tuần hành, biểu tình, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, không gian mạng còn bị lợi dụng gây nên những thiệt hại về tài sản, tinh thần, sức khỏe, thậm chí cả tính mạng con người. Không ít vụ lừa đảo qua mạng, những người đăng tải lời nhận xét, bình luận, chia sẻ, thậm chí tự dựng lên những câu chuyện, clip sai sự thật gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, danh dự, uy tín của tổ chức, cá nhân.

Không những thế, không gian mạng đang trở thành và là môi trường trong một hình thái tác chiến mới, đó là tác chiến không gian mạng. Nó đang tạo ra các nguy cơ về chiến tranh không khói súng, không chiến tuyến, không biên giới lãnh thổ giữa các quốc gia với sự tham gia của mọi đối tượng trên môi trường mạng bao gồm: Các nhóm tin tặc được nhà nước tài trợ; các nhóm tin tặc chuyên nghiệp, phi chính phủ; các nhóm Script Kiddies (hacker nghiệp dư)...

Theo lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông (trong tham luận tại hội thảo và triển lãm quốc tế về an toàn không gian mạng Việt Nam-Vietnam Security Summit 2022 diễn ra ngày 23-6-2022): Tội phạm mạng có xu hướng sử dụng các công nghệ mới, hiện đại, nhiều tính năng phức tạp khiến cho việc phát hiện và xử lý hậu quả của những cuộc tấn công trở nên phức tạp hơn, mất nhiều thời gian hơn. Những cuộc tấn công mã độc kết hợp với công nghệ trí tuệ nhân tạo hoặc sử dụng công nghệ giả lập hành vi của người dùng, để tấn công vào các hạ tầng trọng yếu, các chuỗi cung ứng, nhà máy... đang đặt ra nhiều thách thức trong quá trình xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Đẩy mạnh tuyên truyền, xác định rõ trách nhiệm

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: Bảo đảm an toàn, an ninh mạng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030.

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với công tác bảo vệ an toàn, an ninh mạng, đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật, như: Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 25-7-2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25-7-2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh mạng quốc gia, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2018, Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 18-10-2019 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị...

Xây dựng và bảo vệ môi trường không gian mạng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra một xã hội ảo trên internet lành mạnh, an toàn, bền vững, thể hiện đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc. Để nâng cao hiểu biết trách nhiệm về xây dựng và bảo vệ không gian mạng, các cấp, các ngành cần làm tốt công tác giáo dục, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xây dựng và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Trong đó, tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Bộ luật Hình sự (năm 2015) liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông; Luật An toàn thông tin mạng (năm 2015); Luật An ninh mạng (năm 2018)... Phòng ngừa, ngăn chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả các đợt tấn công mạng, khủng bố mạng và phòng, chống nguy cơ chiến tranh mạng.

Lên án các hành vi sử dụng không gian mạng để tuyên truyền chống Nhà nước; tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; thông tin sai sự thật; hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội; phá hoại thuần phong, mỹ tục; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội. Đấu tranh với các biểu hiện, hành động tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi... Các cơ sở giáo dục sớm đưa nội dung giáo dục bảo đảm an ninh không gian mạng quốc gia vào chương trình dạy học phù hợp với ngành học, cấp học.

Hoạt động tấn công mạng rất đa dạng và tinh vi, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần cảnh giác trước thủ đoạn của các thế lực thù địch. Hiện nay, chúng đang có âm mưu tấn công đánh sập các website của Chính phủ, cơ quan, đơn vị, nhà trường, doanh nghiệp; giả mạo các website nhằm lừa đảo, đánh cắp dữ liệu cá nhân; tấn công bằng mã độc; tấn công ẩn danh bằng những phần mềm độc hại;... Các thế lực thù địch sẽ lợi dụng blog cá nhân để lôi kéo, kích động những phần tử bất mãn, tập hợp lực lượng, thành lập các tổ chức chống đối xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nền tảng tư tưởng của Đảng...

Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức trách nhiệm xây dựng và bảo vệ không gian mạng. Nêu cao ý thức chính trị, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ không gian mạng quốc gia. Tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ an ninh mạng; kịp thời cung cấp thông tin liên quan đến an ninh mạng, nguy cơ đe dọa an ninh mạng và các hành vi xâm phạm khác, thực hiện yêu cầu và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

Mỗi cá nhân cần nghiên cứu và sử dụng tốt các biện pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin như bảo vệ tài khoản cá nhân bằng xác thực mật khẩu 2 lớp; tạo thói quen quét virus trước khi mở file; thực hiện sao lưu dự phòng với các dữ liệu quan trọng;... Người dùng cần cảnh giác với những trang web lạ, những email chưa rõ danh tính và đường dẫn đáng nghi ngờ; cập nhật bản trình duyệt, hệ điều hành và các chương trình sử dụng; dùng những phần mềm diệt virus uy tín và được cập nhật thường xuyên, không tắt chương trình diệt virus trong mọi thời điểm.

Cùng với đó, các cơ quan chuyên trách an ninh mạng cung cấp đầy đủ thông tin về xu hướng phát triển, những nguy cơ từ không gian mạng; các biện pháp phòng, chống tấn công trên không gian mạng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng tăng cường cảnh báo khả năng mất an ninh mạng do đơn vị mình cung cấp và hướng dẫn biện pháp phòng ngừa; xây dựng các phương án xử lý với sự cố an ninh mạng; phối hợp, tạo điều kiện cho lực lượng chuyên trách trong hoạt động bảo vệ an ninh mạng.

Nguồn: Báo QĐND

Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025

 Theo phóng viên TTXVN tại Liên hợp quốc (LHQ), 11h45 ngày 11-10-2022 (22h45 cùng ngày theo giờ Việt Nam), Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 tại phiên họp của Đại hội đồng LHQ khóa 77 tại New York (Mỹ).

14 thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền sẽ đảm nhiệm trọng trách trong nhiệm kỳ 3 năm, bắt đầu vào tháng 1-2023.

Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025

Đoàn Việt Nam tham dự phiên họp bỏ phiếu và công bố kết quả thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. (Nguồn: Phái đoàn Việt Nam tại LHQ) 

Kết quả bầu cử cho thấy sự tham gia tích cực của Việt Nam trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền LHQ, những cam kết và nỗ lực mạnh mẽ của Việt Nam về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao.

Với trọng trách mới tại Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam sẽ có cơ hội đóng góp vào thúc đẩy tất cả các quyền con người trên cơ sở khách quan, hợp tác và đối thoại.

Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025
Đoàn Việt Nam tại phiên họp. (Nguồn: Phái đoàn Việt Nam tại LHQ) 

Việt Nam sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn đối với các vấn đề trọng tâm của LHQ cũng như của cộng đồng quốc tế, như thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, di cư, bảo vệ và thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người thiểu số, người di cư, đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng nhân đạo hoặc xung đột vũ trang trên phạm vi toàn thế giới.

Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử vào HĐNQ LHQ. Năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu 184/192, cao nhất trong số 14 nước thành viên mới.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...