Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đón, tiếp, hội đàm, hội kiến Thủ tướng Cuba

Chiều 29-9, tại trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp thân mật đồng chí Manuel Marrero Cruz, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba, Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Cuba nhân dịp sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 28-9 đến 2-10.

Đồng chí Manuel Marrero Cruz trân trọng cảm ơn Tổng Bí thư về sự đón tiếp trọng thị, những tình cảm nồng ấm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các đồng chí lãnh đạo và nhân dân Việt Nam anh em; bày tỏ đặc biệt vui mừng lần đầu tiên đến Việt Nam, cũng là chuyến thăm đầu tiên ngoài khu vực Mỹ Latin trên cương vị thủ tướng; trân trọng chuyển lời chào, lời hỏi thăm thân tình của đồng chí Miguel Díaz-Canel, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba và các đồng chí lãnh đạo Cuba tới Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiệt liệt hoan nghênh, đánh giá cao ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Manuel Marrero Cruz, bày tỏ tin tưởng chuyến thăm sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt và tăng cường hợp tác giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam-Cuba đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai nước dày công vun đắp. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn trân trọng và biết ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của Việt Nam, nhắc lại câu nói của Chủ tịch Fidel Castro “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chúc mừng Thủ tướng Manuel Marrero Cruz được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cao quý của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong chuyến thăm Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba quang vinh, nhân dân Cuba anh em sẽ thực hiện thành công tiến trình cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa và mục tiêu xây dựng quốc gia chủ quyền, độc lập, xã hội chủ nghĩa, dân chủ, phồn vinh và bền vững.

Đồng chí Manuel Marrero Cruz thông tin về tình hình Cuba, những nỗ lực để vượt qua khó khăn và phát triển; cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của Việt Nam; bày tỏ tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Thủ tướng Manuel Marrero Cruz nhấn mạnh những thành tựu và kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam là nguồn cổ vũ, động viên và có giá trị tham khảo quan trọng đối với Đảng Cộng sản Cuba trong quá trình lãnh đạo cách mạng, triển khai các biện pháp cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội (KT-XH) theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII. Nhân dịp này, Thủ tướng Manuel Marrero Cruz trân trọng chuyển lời của đồng chí Miguel Díaz-Canel và các đồng chí lãnh đạo Cuba mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Cuba vào thời gian phù hợp.

Nhấn mạnh tình đoàn kết, sự ủng hộ trước sau như một của Đảng và nhân dân Việt Nam với sự nghiệp chính nghĩa của Đảng và nhân dân Cuba, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chia sẻ những khó khăn mà Cuba đang phải đương đầu, nhất là những khó khăn do bao vây cấm vận, tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và một số sự cố gần đây gây thiệt hại to lớn về người, tài sản và khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sẽ luôn đồng hành với Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba, hết sức hỗ trợ trong khả năng của mình. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị hai bên tăng cường phối hợp và tích cực triển khai đồng bộ quan hệ trên cả 3 kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận hợp tác, cùng giúp đỡ lẫn nhau.

Nhân dịp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi lời thăm hỏi thân thiết tới đồng chí Raúl Castro, đồng chí Miguel Díaz-Canel, các đồng chí lãnh đạo Cuba và bày tỏ mong chờ đón các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cuba thăm lại Việt Nam.

Việt Nam luôn ở bên cạnh, đoàn kết và ủng hộ Cuba

Chiều 29-9, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã hội kiến Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz trong khuôn khổ chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam.

Tại cuộc hội kiến, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, Việt Nam luôn ở bên cạnh, đoàn kết và ủng hộ Cuba anh em. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cũng hoan nghênh kết quả hội đàm giữa hai Thủ tướng, củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ giữa hai nước.

Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz khẳng định Cuba luôn coi trọng và mong muốn làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt và hợp tác toàn diện với đất nước Việt Nam anh em. Thủ tướng Cuba bày tỏ sẵn sàng lắng nghe Việt Nam chia sẻ thêm các kinh nghiệm của Việt Nam trong việc xây dựng và triển khai thực hiện đường lối, chính sách phát triển KT-XH, hội nhập, ứng phó với các thách thức kinh tế toàn cầu.

Hai nhà lãnh đạo khẳng định quyết tâm làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ mẫu mực Việt Nam-Cuba; nhất trí sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ hai nước về tình hữu nghị anh em đặc biệt Việt Nam-Cuba. Hai nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng về sự phát triển của quan hệ hai nước thời gian qua, đánh giá cao việc hai bên đã quyết tâm, linh hoạt tổ chức các cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến giữa lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội hai nước, cũng như chuyến thăm Cuba của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (tháng 9-2021) trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp giai đoạn 2020-2021; nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư phát triển tương xứng với quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước, chú trọng tăng cường hợp tác nông nghiệp, y tế, tài chính, ngân hàng, khoa học-công nghệ...; đồng thời tiếp tục tham vấn, phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương, nhất là tại Liên hợp quốc (LHQ) và Phong trào Không liên kết.

Thủ tướng Manuel Marrero Cruz khẳng định, Cuba luôn ghi nhận và đánh giá cao tình cảm đoàn kết và sự ủng hộ chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam dành cho nhân dân Cuba trong thời gian qua, đặc biệt là sự hỗ trợ quý báu của Việt Nam trong việc ổn định cung cấp gạo và phát triển sản xuất lương thực.

Nhấn mạnh trong thời gian tới, hai nước Việt Nam và Cuba có rất nhiều hoạt động quan trọng, trong đó kỷ niệm 50 năm chuyến thăm lịch sử của Tổng tư lệnh Fidel Castro tới thăm vùng giải phóng miền Nam; kỷ niệm 40 năm Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (19-10-1982 / 19-10-2022), Thủ tướng Manuel Marrero Cruz bày tỏ tin tưởng rằng, trong thời gian tới, quan hệ gắn bó anh em giữa hai nước Việt Nam và Cuba sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở hai khu vực và thế giới.

Đưa quan hệ kinh tế ngang tầm quan hệ chính trị tốt đẹp

Sáng 29-9, tại Phủ Chủ tịch, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Lễ đón chính thức Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz cùng đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Cuba thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Tại trụ sở Chính phủ, ngay sau lễ đón chính thức, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiến hành hội đàm với Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz.

Tại cuộc hội đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao các bước phát triển mới về quan hệ hợp tác hai nước thời gian qua, nhất là về nông nghiệp, đầu tư, y tế, cũng như hiệu quả hoạt động của các cơ chế hợp tác song phương. Thủ tướng cảm ơn về sự hỗ trợ và hợp tác kịp thời, hiệu quả của Cuba dành cho Việt Nam trong ứng phó với đại dịch Covid-19.

Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz khẳng định, Cuba luôn coi trọng, mong muốn làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam.

Hai Thủ tướng nhất trí trong thời gian tới, hai bên sẽ tiếp tục duy trì đối thoại, trao đổi đoàn cấp cao, giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hợp tác song phương thông qua các cơ chế Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học-công nghệ...

Thủ tướng Phạm Minh Chính thông báo quyết định của Đảng, Nhà nước Việt Nam ủng hộ nhân dân Cuba 5.000 tấn gạo để góp phần khắc phục những khó khăn KT-XH gần đây, thể hiện tinh thần tương trợ anh em truyền thống giữa hai nước. Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz trân trọng cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn dành tình cảm đoàn kết và sự hỗ trợ chí tình, chí nghĩa cho Cuba.

Hai Thủ tướng cũng đã trao đổi các biện pháp nhằm tăng cường hợp tác thực chất, hiệu quả trong lĩnh vực chính trị-ngoại giao, quốc phòng, an ninh, thương mại-đầu tư, y tế, giáo dục-đào tạo, y tế, dược phẩm... đáp ứng mục tiêu trọng tâm đưa quan hệ kinh tế ngang tầm quan hệ chính trị tốt đẹp. Đặc biệt, về tăng cường hợp tác an ninh lương thực, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm trong việc phát triển nông nghiệp như một trụ đỡ của nền kinh tế.

Hai bên cũng thỏa thuận về duy ổn định quan hệ thương mại song phương, tạo điều kiện để doanh nghiệp hai bên kinh doanh, đầu tư thuận lợi trong các lĩnh vực phát triển hạ tầng khu công nghiệp và hạ tầng du lịch, sản xuất vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, năng lượng tái tạo và mở rộng sang các lĩnh vực tiềm năng khác. Chia sẻ kinh nghiệm về đường lối, chính sách phát triển KT-XH, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã giới thiệu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập sâu rộng, ứng phó với các thách thức kinh tế toàn cầu.

Về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, hai Thủ tướng nhất trí tiếp tục tham vấn, phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương; chia sẻ lập trường ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Hiến chương LHQ. Cuba bày tỏ coi trọng vai trò trung tâm và mong muốn tăng cường quan hệ với ASEAN, thể hiện qua việc tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á. Việt Nam khẳng định lại lập trường nhất quán yêu cầu dỡ bỏ các lệnh cấm vận kinh tế và tài chính đơn phương chống Cuba.

Thủ tướng Cuba chân thành cảm ơn lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho Thủ tướng và đoàn cấp cao Chính phủ Cuba sự tiếp đón trọng thị, thân tình và chu đáo; trân trọng mời Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm chính thức Cuba trong thời gian tới. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cảm ơn và vui vẻ nhận lời mời.

* Sau cuộc hội đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cao quý của Nhà nước Việt Nam cho Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz.

Hai nhà lãnh đạo Chính phủ đã chứng kiến lễ ký kết 3 văn kiện hợp tác song phương, bao gồm: Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình nghị sự kinh tế song phương Việt Nam-Cuba giai đoạn 2023-2025; Bản ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp hai nước về hợp tác nông lương; Kế hoạch hành động về hợp tác y tế giữa Bộ Y tế hai nước.

Quốc hội Việt Nam - Cuba tiếp tục hợp tác chặt chẽ

Chiều 29-9, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ hội kiến Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tin tưởng tập thể lãnh đạo Cuba sẽ cùng toàn Đảng, toàn dân tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, triển khai có hiệu quả đường lối của Đảng Cộng sản Cuba lần thứ VIII, trong đó có việc xây dựng thành công Hiến pháp mới.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, Quốc hội và nhân dân Việt Nam luôn ở bên cạnh ủng hộ sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của nhân dân Cuba anh em; coi trọng, gìn giữ và góp phần phát triển hơn nữa tình đoàn kết, hữu nghị và quan hệ hợp tác đặc biệt Việt Nam-Cuba,  đồng thời chia sẻ với Thủ tướng Cuba về quá trình đổi mới và những hoạt động của Quốc hội gần đây, đóng góp vào phát triển KT-XH, hội nhập quốc tế của đất nước sau đại dịch Covid-19 cũng như vào việc phát triển quan hệ Việt Nam-Cuba. Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Quốc hội Việt Nam sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Quốc hội Cuba nhằm trao đổi kinh nghiệm về công tác lập pháp và giám sát, đồng thời phối hợp chặt chẽ trên các diễn đàn nghị viện quốc tế và khu vực.

Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz khẳng định Cuba đánh giá cao tình hữu nghị truyền thống đặc biệt giữa hai nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh tụ Fidel Castro đặt nền móng, được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp.

Nhân dịp này, Thủ tướng Cuba chuyển lời cảm ơn chân thành của Chủ tịch Quốc hội Cuba Esteban Lazo tới Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ về sự hỗ trợ quý báu mà Quốc hội Việt Nam dành cho Quốc hội Cuba trong thời gian qua, cũng như lời mời trân trọng thăm Cuba trong thời gian tới.

* Sáng cùng ngày, Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz và đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Cuba đã tới đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nguồn: Báo QĐND

Thủ tướng Cuba lần đầu thăm chính thức Việt Nam

Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thủ tướng nước Cộng hòa Cuba Manuel Marrero Cruz sẽ thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 28-9 đến ngày 2-10-2022.

Theo Đại sứ Việt Nam tại Cuba Lê Thanh Tùng, mối quan hệ Việt Nam - Cuba là mối quan hệ đặc biệt, như nhà Lãnh tụ Cách mạng Cuba Fidel Castro từng đánh giá, là biểu tượng của thời đại trong quan hệ quốc tế. Do đó, chuyến thăm Việt Nam lần này của Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là lần đầu tiên trong 49 năm qua, một Thủ tướng của Cuba đến thăm Việt Nam, bởi chức vụ Thủ tướng chỉ mới được phía Cuba khôi phục sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 2019.

Chuyến thăm của Thủ tướng Cuba lần này nhằm mục đích tăng cường hơn nữa mối quan hệ đoàn kết anh em, hợp tác toàn diện và tin cậy lẫn nhau giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Cuba, đồng thời đây cũng là dịp để lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất phương hướng và các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư song phương.

Bất chấp những khó khăn, mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước vẫn tiếp tục được quan tâm và phát triển, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư. 

Hiện nay, Việt Nam là nước đầu tư lớn nhất ở khu vực châu Á-châu Đại Dương tại Cuba. Rất nhiều dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài và liên doanh giữa hai nước đã được thiết lập và đi vào hoạt động. Rất nhiều doanh nghiệp quan trọng của Việt Nam quan tâm đến thị trường Cuba và đã đến Cuba để tìm cơ hội hợp tác, đầu tư. Bên cạnh đó, hai nước cũng duy trì quan hệ hợp tác và ủng hộ lẫn nhau ở các diễn đàn quốc tế và đa phương.

Trong chuyến thăm Việt Nam lần này của Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz, lãnh đạo cấp cao hai nước sẽ thống nhất về phương hướng và biện pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa cơ chế hợp tác Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Cuba, đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác với nhau đầu tư vào các lĩnh vực mà hai bên có thế mạnh và có thể bổ sung cho nhau, cũng như đáp ứng được những ưu tiên của Cuba trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, nhất là trong các lĩnh vực sản xuất và chế biến lương thực - thực phẩm, năng lượng tái tạo bao gồm điện mặt trời và điện gió, hạ tầng du lịch… Doanh nghiệp Việt Nam cũng rất quan tâm đến việc đầu tư vào các lĩnh vực này.

Ngoài ra trong chuyến thăm này, hai bên sẽ ký kế hoạch hành động chung để triển khai chương trình nghị sự song phương giai đoạn 2023-2025 bao trùm sự hợp tác giữa hai nước trên hơn 10 lĩnh vực, bao gồm kinh tế, thương mại, nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, khoa học - công nghệ và nhiều lĩnh vực khác.

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2022

Thủ đoạn xuyên tạc, hướng lái vụ án tại “Tịnh thất Bồng Lai”

Xung quanh vụ án “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai”, xuất hiện luồng thông tin tiêu cực, không đúng sự thật do các đối tượng xấu lan truyền hòng làm nhiễu dư luận.

Về vụ án này, ngày 21/7, HĐXX TAND huyện Đức Hòa (tỉnh Long An) đã tuyên án sơ thẩm đối với 6 bị cáo. Theo đó, bị cáo Lê Tùng Vân (90 tuổi) bị tuyên 5 năm tù; các bị cáo Lê Thanh Nhất Nguyên (31 tuổi), Lê Thanh Hoàn Nguyên (30 tuổi), Lê Thanh Trùng Dương (27 tuổi) cùng mức án 4 năm tù; bị cáo Lê Thanh Nhị Nguyên (24 tuổi) 3 năm 6 tháng tù và bị cáo Cao Thị Cúc (62 tuổi) 3 năm tù. Trong phần luận tội, đại diện viện kiểm sát cho rằng, hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo đã phạm tội có tổ chức nhưng tại phiên tòa không có ý thức khai báo, không có thái độ ăn năn để hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Ngay sau khi bản án sơ thẩm được đưa ra, các cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị đã nhanh chóng đăng đàn xuyên tạc bản chất vụ án, đánh võng thông tin, hướng lái tiêu cực. Những cái tên quen thuộc như Việt Tân, Đài Á châu Tự do – RFA, BBC news Tiếng Việt… liên tục tung ra những bài viết với các luận điệu sai trái. Các đối tượng viết bài quy kết rằng, việc kết án các bị cáo trong “Tịnh thất Bồng Lai” là không có căn cứ, quá trình xét xử thiếu công minh; chính quyền đang “đàn áp tự do tôn giáo” bằng một điều luật “mơ hồ”... Từ đó, số này kêu gọi các quốc gia, tổ chức quốc tế can thiệp, gây sức ép với Việt Nam để trả tự do cho những người bị kết án.

Vụ án “Tịnh thất Bồng Lai” liên quan các yếu tố mà các đối tượng xấu lợi dụng xuyên tạc, chính trị hoá. Thứ nhất, đây là vụ án nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Những hành vi vi phạm tại đây diễn ra từ lâu, có tổ chức. Tuy nhiên, cái tên “Tịnh thất Bồng Lai” chỉ thực sự “nóng” và nhận được sự chú ý của cộng đồng khi “hiện tượng mạng” Nguyễn Phương Hằng đăng đàn tố cáo. Sau những cuộc phát sóng trực tiếp (livestream) với hàng trăm ngàn người cùng theo dõi ở một thời điểm của Nguyễn Phương Hằng thì mọi nhất cử, nhất động của “Tịnh thất Bồng Lai” đều gây chú ý dư luận. Thứ hai, các bị cáo trong vụ án đã mượn danh cơ sở tôn giáo để trục lợi.

Với phương châm lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ để chống phá chế độ, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã nhanh chóng hướng lái “chính trị hoá” vụ án “Tịnh thất Bồng Lai”. Về vấn đề này, Ban Tôn giáo Chính phủ cho biết, qua trao đổi với Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho thấy, “Tịnh Thất Bồng Lai” là cơ sở thờ tự không hợp pháp.

Theo báo cáo của UBND tỉnh Long An gửi Ban Tôn giáo Chính phủ, cơ sở trên có một số sai phạm như: các công trình xây dựng đều do cá nhân đứng tên và xây dựng trên đất ở nông thôn; bà Cao Thị Cúc là chủ cơ sở trên đã sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; UBND xã cũng đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và buộc bà Cúc khôi phục tình trạng ban đầu của đất. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, vụ việc này có dấu hiệu lợi dụng tôn giáo để trục lợi, mặc dù chủ cơ sở khẳng định chỉ thờ tượng Phật tại gia, không phải sinh hoạt tôn giáo.

Ngay từ những giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, các đối tượng xấu đã ra sức “kêu oan”, “khóc mướn” cho các đối tượng trong vụ án và vu khống chính quyền làm oan người vô tội. Họ cố tình che đậy bản chất vi phạm của “Tịnh thất Bồng Lai”, biến các đối tượng trong vụ án thành “nạn nhân” của chế độ.

Ngày 5/11/2021, Báo CAND đã có bài viết “Sự thật về nơi gọi là “Tịnh Thất Bồng Lai”, “Thiền am bên bờ vũ trụ”” để vạch trần những góc khuất, vi phạm tại đây. Ngày 10/6/2022, Chuyên đề An ninh thế giới tiếp tục đăng tải bài viết “Những chiêu trò của các bị can trong vụ “Tịnh thất Bồng Lai - Thiền am bên bờ vũ trụ”, chỉ ra các chiêu trò của các đối tượng trong vụ án. Ngoài ra, nhiều tờ báo khác cũng đăng tải, cập nhật rõ thông tin về sai phạm tại “Tịnh thất Bồng Lai”.

Qua quá trình tổ tụng, các cơ quan chức năng có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để khẳng định các bị cáo trong vụ án xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai” đã có hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo và có hành vi chống đối, vu khống cơ quan chức năng khi thực thi nhiệm vụ. Những sai phạm xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai” diễn ra có tổ chức, trong một thời gian dài, đã xúc phạm trực tiếp đến uy tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức như: Công an huyện Đức Hòa, ông Trần Ngọc Thảo (Thượng tọa Thích Nhật Từ, Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban Phật giáo quốc tế và trụ trì chùa Giác Ngộ)...

Ngoài ra, qua các video, clip được chính các bị cáo chia sẻ, lan truyền trên kênh Youtube “5 chú Tiểu - Thiền Am bên bờ vũ trụ” và “Nhất Nguyên - Hoàn Nguyên Official” trước khi bị bắt, có thể thấy các đối tượng trong “Tịnh thất Bồng Lai” có hành vi xúc phạm đạo Phật, xuyên tạc giáo lý của Phật giáo, xúi giục mọi người không tôn trọng tôn giáo và pháp luật.

Việc xét xử sơ thẩm vụ án “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai” đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình xét xử đảm bảo nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ.  Nếu không đồng ý với bản án sơ thẩm, các bị cáo hoàn toàn có quyền kháng cáo đến toà án cấp trên trực tiếp. Vì vậy, chẳng có lý do gì để các “nhà dân chủ” vu khống rằng việc xét xử là thiếu công bằng, bản án được đưa ra là “bất công”, “phi lý”!

Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Tuy nhiên, tự do tôn giáo phải đi liền với tôn trọng pháp luật. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Không ai được phép xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật, xúc phạm đến tổ chức, cá nhân. Bản chất của “Tịnh thất Bồng Lai” là lợi dụng tôn giáo để trục lợi. Việc thành lập và hoạt động của cơ sở này trái quy định của pháp luật, không đúng với quy tắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ngay trong phiên toà sơ thẩm, bản thân các bị cáo cũng cho biết hoạt động không theo tôn giáo nào. Thực tế, hoạt động của các bị cáo trong vụ án “Tịnh thất Bồng Lai” đã ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự của địa phương và gây chia rẽ tôn giáo. Việc xử lý các bị cáo, toà đã cân nhắc kỹ các yếu tố, đảm bảo có lý, có tình. Do đó, những luận điệu cho rằng chính quyền “đàn áp tôn giáo” đang được các đối tượng chống phá đưa ra là không thể chấp nhận.

Đằng sau những luận điệu xuyên tạc bản chất vụ án “Tịnh thất Bồng Lai” là mục đích làm nhiễu loạn tình hình, gây phân tâm dư luận, kích động sự mâu thuẫn trong xã hội hòng tạo ra sự mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, bằng các luận điệu sai trái, các thế lực bên ngoài đang cố tình bẻ lái, dựng chuyện nhằm bôi nhọ hình ảnh, làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và tìm kiếm những tác động từ bên ngoài hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Những hoạt động này đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích xã hội.

Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống với Campuchia

 Ngày 6/9, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp ông Khuong Sreng, Đô trưởng, Chủ tịch Đảng bộ Đảng Nhân dân Campuchia Thủ đô Phnom Penh (Campuchia) đang thăm, làm việc tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại buổi tiếp, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao chuyến thăm của Ngài Đô trưởng là sự kiện quan trọng trong “Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Campuchia - Việt Nam 2022” chào mừng 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (24/6/1967); chuyến thăm đạt nhiều kết quả thiết thực, đóng góp tích cực vào việc tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước nói chung, cũng như giữa Thủ đô Phnom Penh với Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

Thủ tướng đánh giá cao những nỗ lực và các biện pháp hiệu quả của Chính phủ Campuchia và chính quyền Đô thành Phnôm Pênh trong kiểm soát dịch bệnh Covid-19 và mở cửa trở lại thành công, nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội với nhiều kết quả khả quan; nhiệt liệt chúc mừng thành công của cuộc bầu cử Hội đồng xã/phường của Campuchia tháng 6 vừa qua với thắng lợi lớn của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP); tin tưởng Campuchia sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng đất nước Campuchia hoà bình, độc lập, dân chủ, phồn vinh.

Thủ tướng đánh giá thời gian qua, hợp tác giữa hai nước thời gian qua giữ được đà phát triển ổn định; Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì tiếp xúc, trao đổi thường xuyên, đặc biệt là cuộc gặp cấp cao giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia, Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Campuchia Hun Sen và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith; các cơ chế hợp tác song phương tiếp tục phát huy hiệu quả.

Hai nước phối hợp tổ chức thành công các hoạt động ý nghĩa trong “Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2022”, nhất là Lễ kỷ niệm 45 năm “Hành trình hướng tới lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt” của Samdech Techo Thủ tướng Hun Sen do hai Thủ tướng đồng chủ trì tại khu vực biên giới hai nước ngày 20/6 và Lễ kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Campuchia ngày 24/6 tại Hà Nội.

Dù bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trong 2 năm qua, hợp tác kinh tế song phương đạt nhiều kết quả khả quan. Kim ngạch thương mại hai chiều năm 2021 đạt 9,54 tỷ USD (tăng 79,1% so với 2020); 7 tháng đầu năm 2022 đạt 7,08 tỷ USD (tăng 17,8 % so cùng kỳ 2021). Việt Nam có 188 dự án đầu tư còn hiệu lực ở Campuchia với tổng vốn đăng ký 2,8 tỷ USD, duy trì vị trí đứng đầu ASEAN và trong tốp 5 nước đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Campuchia.

Trên tinh thần chân thành, tin cậy, trách nhiệm, Thủ tướng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao cho việc gìn giữ và không ngừng phát triển quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài với Campuchia ngày càng tin cậy, bền vững, thực chất và hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân hai nước. Chính phủ Việt Nam luôn ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương hai nước.

Thủ tướng đề nghị hai bên tiếp tục cùng nhau hợp tác thúc đẩy quan hệ hai nước trên các lĩnh vực; bảo vệ và xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, thúc đẩy kinh tế cửa khẩu; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước đầu tư, hoạt động, hợp tác sản xuất kinh doanh; tăng cường hợp tác giáo dục và đào tạo, giao lưu văn hóa, du lịch…

Thủ tướng cho biết Việt Nam sẵn sàng phối hợp, hỗ trợ Campuchia tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN 40-41 và các hội nghị liên quan tháng 11 tới và SEA Games lần thứ 32 năm 2023, qua đó nâng cao vị thế của Campuchia ở khu vực và trên trường quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các nước, giữ vững và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong ASEAN, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Thủ tướng cảm ơn và đề nghị chính quyền Đô thành Phnom Penh tiếp tục quan tâm hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập, làm việc tốt nhất có thể; phối hợp với phía Việt Nam giải quyết tốt các vụ việc, vấn đề phát sinh liên quan tới công dân hai nước ở biên giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân. Thủ tướng cũng đề nghị chính quyền Phnom Penh tiếp tục quan tâm ủng hộ, tạo điều kiện cho dự án Bệnh viện Chợ Rẫy - Phnom Penh.

Đô trưởng Phnom Penh khẳng định quan hệ song phương Việt Nam – Campuchia đóng vai trò quan trọng với sự phát triển của cả hai nước; nhấn mạnh hai nước, hai dân tộc, nhân dân hai nước đã luôn chia sẻ trong những thời điểm khó khăn nhất, Việt Nam đã luôn tích cực hỗ trợ Campuchia trong mọi giai đoạn, đặc biệt Campuchia không bao giờ quên công lao to lớn của Việt Nam trong việc giúp đỡ Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng cho dù Việt Nam cũng có rất nhiều khó khăn ở thời điểm đó, nếu không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì không thể có nước Campuchia như ngày nay.

Hai bên nhất trí tiếp tục giáo dục thế hệ trẻ về quan hệ giữa hai nước, góp phần nâng cao ý thức của người dân, nhất là thế hệ trẻ hai nước đối với việc gìn giữ và vun đắp mối quan hệ láng giềng hữu nghị tốt đẹp; khẳng định mong muốn không ngừng củng cố và tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực, cùng nhau thắt chặt, làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đoàn kết hữu nghị truyền thống quý báu giữa hai dân tộc.

Nguồn: Báo ND

Vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh vì những giá trị trường tồn để lại cho thế giới

“Di sản lớn nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại chính là việc Người đã có tầm nhìn đúng đắn về giáo dục đối với toàn dân”, Tổng giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) Audrey Azoulay đã khẳng định như vậy tại Lễ kỷ niệm 35 năm UNESCO ra Nghị quyết tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1987-2022) diễn ra chiều 6-9, tại Hà Nội.

Dự lễ kỷ niệm có: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; đại diện lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương cùng các điểm cầu từ cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài. Về phía khách quốc tế có sự tham dự của Tổng giám đốc UNESCO Audrey Azoulay, hơn 30 đại sứ, trưởng cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam.

Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh nhấn mạnh, năm 1987, Đại hội đồng UNESCO đã ra Nghị quyết số 24C/18.65 về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết khẳng định, Người “là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội” và “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”. Việc UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần lớn lao, tiếp thêm sức mạnh để cả dân tộc Việt Nam quyết tâm, chung sức, đồng lòng khắc phục khó khăn, vượt qua mọi thử thách...

Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh khẳng định, đối với dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà ngoại giao lỗi lạc, là khởi nguồn cho niềm tin tất thắng của cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và phồn vinh của nhân dân. Đối với nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người bạn thân thiết, mẫu mực, thủy chung; là biểu tượng của khát vọng hòa bình, đấu tranh chống áp bức, bất công; là sứ giả của hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa các dân tộc trên thế giới. Người đã truyền cảm hứng, cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức, khát khao tự do và đứng lên đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Người còn là "Nhà văn hóa kiệt xuất", là hiện thân sinh động về việc coi trọng, gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tôn trọng sự khác biệt, đa dạng và thúc đẩy sự hiểu biết, đoàn kết.

Tại lễ kỷ niệm, bà Audrey Azoulay, Tổng giám đốc UNESCO cho biết, vào năm 1987, UNESCO đã xét quyết định vinh danh hai lãnh tụ là Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh tụ Jawaharlal Nehru với những giá trị trường tồn của di sản hai danh nhân này để lại cho thế giới. Tổng giám đốc UNESCO khẳng định, di sản lớn nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại chính là việc Người đã có tầm nhìn đúng đắn về giáo dục đối với toàn dân. Theo bà, hiện nay, việc kế thừa và phát triển một cách hiệu quả nhất di sản tốt đẹp này của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự hợp tác hiệu quả giữa UNESCO và Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị về bản sắc văn hóa dân tộc. Bà Audrey Azoulay khẳng định cam kết bằng những thành tựu hợp tác trước đó, UNESCO sẽ tích cực hơn nữa trong hợp tác với Việt Nam thời gian tới.


Phó thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh trao sách “Tình cảm của nhân dân thế giới với Chủ tịch Hồ Chí Minh" tặng Tổng giám đốc UNESCO Audrey Azoulay.  Ảnh: PHƯƠNG THU 

Tại Hội thảo quốc tế “Di sản Hồ Chí Minh đối với nhân loại” diễn ra trước đó cùng ngày, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên mang theo một kỷ vật đặc biệt. Đó là tấm thẻ tham dự Đại hội đồng UNESCO tháng 9-1987 của ông với tư cách là Trưởng đoàn Việt Nam. Ông Nguyễn Dy Niên chia sẻ, khi nhận nhiệm vụ sang Paris dự Đại hội đồng UNESCO, ông rất lo lắng. Ông kể: “Vừa đặt chân tới Paris, đoàn Việt Nam đã tiếp xúc ngay với lực lượng tiến bộ của Pháp, đặc biệt là Ban Thư ký UNESCO, vạch ra kế hoạch vận động sao cho thật tốt... Một lần, Tổng giám đốc UNESCO-một người Senegal rất có cảm tình với Việt Nam-nói với tôi: “Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là lãnh tụ của nhân dân Việt Nam mà còn là lãnh tụ của nhân dân các nước đang đấu tranh vì hòa bình, tự do. Các nước Á, Phi, Mỹ Latin rất ủng hộ Việt Nam. Những nước này chiếm đại đa số phiếu ở UNESCO. Vì vậy, các ông cần gặp và tiếp xúc sớm với họ”. Khi nhận được lời động viên và cổ vũ ấy, tôi rất phấn chấn, bàn với anh chị em trong đoàn chia nhau đi vận động các nước. Và quả đúng như lời vị Tổng giám đốc UNESCO nói, các bạn rất quý mến Việt Nam. Một đại biểu châu Phi nói với tôi rằng: “Chúng tôi rất cảm ơn Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi nếu các bạn không chiến thắng thì chúng tôi không được ngồi cùng nhau ở diễn đàn này”.

Cũng theo nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, Nghị quyết tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thông qua mà không có phiếu trắng, không có phiếu chống, “đúng như lời tiên đoán từ Báo Đoàn kết của Italy cách thời điểm bỏ phiếu 18 năm rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người duy nhất trên thế giới không có ai chống đối”.

Vì lẽ đó, nhiều năm qua, với tình cảm yêu mến, kính trọng, bạn bè quốc tế đã tổ chức nhiều hoạt động tưởng niệm, nghiên cứu, tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp và tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên khắp năm châu đều có những trường học, con đường, công viên, bảo tàng, tượng đài mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, những tác phẩm văn học, thơ ca, thước phim tư liệu... về Người đã, đang được chia sẻ, lan tỏa rộng rãi. Các hoạt động trên đã góp phần tăng cường sự kết nối, hiểu biết, đoàn kết, hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.

Nguồn: Báo QĐND

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2022

Kiên định con đường đi lên CNXH

 Lịch sử thế giới từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đến nay đã có những thay đổi và biến động hết sức to lớn, sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước trở thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, là chỗ dựa và là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của các phong trào cách mạng khắp hành tinh; rồi từ hệ thống thế giới còn lại những nước tiếp tục xây dựng, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa với diện mạo mới, sức sống mới. Điều đó phản ánh những bước thăng trầm, quanh co, khúc khuỷu nhưng tất thắng của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết khoa học và cách mạng, một hình thái kinh tế - xã hội và với tư cách một chế độ xã hội mới đầy ưu việt mà nó vốn có, là sự kết tinh tất cả những thành tựu tinh hoa mà các hình thái kinh tế - xã hội trước đã tạo ra, trên con đường đấu tranh khẳng định sự tồn tại hợp quy luật của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy nhân loại. Đi lên chủ nghĩa xã hội là xu thế vận động khách quan của lịch sử, vì thế, sẽ chẳng có thế lực nào, dù có dã tâm thâm độc với đầy mưu ma chước quỷ và sức mạnh quấy phá đến đâu, cũng không thể “nắn” lại xu thế ấy hoặc cố tình lấy gậy chọc bánh xe, nuôi hy vọng chặn bước, ngăn đường, cản trở lịch sử.

Thực tế tồn tại, phát triển và những thành tựu to lớn, công lao vĩ đại của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với loài người tiến bộ trên thế giới trong gần một thế kỷ qua đã chứng tỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa là lý tưởng phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử; chủ nghĩa xã hội là giá trị nhân văn của nhân loại. Mọi người đều rõ, chính Liên Xô, đất nước - quê hương của Cách mạng tháng Mười Nga, đã cùng với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ, là lực lượng quyết định tiêu diệt chủ nghĩa phát xít; chính Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa là trụ cột của hòa bình và cách mạng, làm nguội đi những cái đầu hiếu chiến của các thế lực đế quốc, phát xít, bảo đảm nền hòa bình của thế giới trong nửa cuối thế kỷ XX. Không có Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa xã hội hiện thực thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng như các dân tộc bị áp bức trên thế giới vẫn chìm đắm trong sự áp bức, nô dịch của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Và trong gần 100 năm qua, nếu như chủ nghĩa tư bản có sự tiến bộ nào đó về mặt xã hội, thì đó cũng là kết quả của quá trình đấu tranh bền bỉ, liên tục của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản và sự ảnh hưởng to lớn bởi những giá trị nhân văn, vì con người của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới. Tính chất ưu việt, bản chất hòa bình, nhân đạo, nhân văn và cống hiến của chủ nghĩa xã hội đã được lịch sử kiểm nghiệm, khẳng định, không thể bác bỏ, dù thời cuộc có đổi thay, dù lịch sử đang diễn ra những bước quanh co, phức tạp, song tính chất của thời đại và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, chủ nghĩa xã hội đến sớm hay muộn, bằng hình thức này hay hình thức khác, thành công sớm ở nơi này hay nơi khác mà thôi.

Đến nay, chủ nghĩa xã hội hiện thực đang ở thập kỷ thứ mười của sự phát triển với những bước thăng trầm gồm cả những thành tựu, công lao to lớn đối với nhân loại và cả những tổn thất nặng nề, để rồi một số nước còn lại tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo cho chủ nghĩa xã hội hiện thực một diện mạo mới năng động, sáng tạo và phong phú hơn. Dù còn nhiều khó khăn, thách thức, phức tạp, nhưng sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã chứng minh một cách rõ ràng chủ nghĩa xã hội là hiện thực, là thực tế, đã và đang đổi mới, được xây dựng, phát triển trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá khứ; từ sự nhận thức lại và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới, dựa trên cơ sở “hiện thực khách quan” mới, dựa chắc vào đặc điểm, đặc thù của từng quốc gia - dân tộc. Điều đó cho thấy sức sống mới của chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh lịch sử mới là vô địch./.

Thanh niên quân đội trước sự chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng

Với đặc điểm nổi trội là tốc độ kết nối nhanh, phạm vi chia sẻ rộng, hiệu quả tác động lớn, internet, mạng xã hội trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống nhân loại, tác động một cách trực tiếp đến nhận thức, hành vi của mỗi con người, cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Song, intenet, mạng xã hội cũng có những mặt trái tác động tiêu cực kìm hãm sự phát triển của xã hội, nhất là chi phối đến lập trường tư tưởng và khả năng xử lý thông tin của người sử dụng còn có sự bất cập, hạn chế.

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, lực lượng chống cộng cực đoan ở nước ngoài đã triệt để lợi dụng intenet và các trang mạng xã hội để tán phát các tin, bài, videoclip có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với sự gia tăng cả về cấp độ, mật độ, tần suất và lưu lượng tin, bài; bằng những chiêu thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm hiểm nhằm thu hút sự quan tâm, theo dõi của cộng đồng mạng. Những thủ đoạn chúng thường dùng trên mạng xã hội, như: tung tin thất thiệt, lừa bịp, mị dân, thật giả lẫn lộn,… làm cho một bộ phận cư dân mạng mất phương hướng, lầm tưởng đó là sự thật, dẫn đến hoài nghi, thiếu niềm tin với Đảng, Nhà nước và chế độ ta, nghe theo lời kích động để tụ tập đông người, gây rối, chống người thi hành công vụ, hủy hoại tài sản của nhà nước và công dân.

Trước thực trạng đó, cần tạo sức đề kháng, “hệ miễn dịch” trong mỗi quân nhân, thanh niên quân đội trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch, góp phần tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng trong thế hệ trẻ nói chung, thanh niên Quân đội nói riêng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi, trong Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng thanh niên rất đông đảo, lực lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đây cũng là lực lượng rất năng động, giàu hoài bão, dễ tiếp thu các luồng thông tin, nhất là thông tin trên intenet và những tư tưởng mới lạ. Tuy nhiên, khả năng phân tích, nhận định, chọn lọc thông tin của đối tượng này còn hạn chế, dễ bị dao động, lôi kéo, kích động dẫn đến những quyết định không chính xác, thậm chí sai lầm. Vì thế, cần định hướng cho thanh niên Quân đội khi tham gia mạng xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay./.

Ngăn chặn luận điệu xuyên tạc tư tưởng hồ chí minh Của các thế lực thù địch hiện nay

 Xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những luận điệu mà các thế lực thù địch đang đẩy mạnh, nhằm phá hoại và làm thay đổi nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, nhận diện, đấu tranh kiên quyết với những luận điệu phản động ấy là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Thời gian qua, các thế lực thù địch liên tục đưa ra những lý lẽ vô căn cứ, như: “Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”, “Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin”,... cho rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều”. Những luận điệu đó là sự xuyên tạc trắng trợn; bởi chúng đã cố tình bỏ qua phương pháp luận khoa học trong xem xét, đánh giá tư tưởng của một con người, hệ tư tưởng của một giai cấp. Chúng ta đều biết, một tư tưởng, hệ tư tưởng được đánh giá là cách mạng, khoa học khi và chỉ khi xuất phát và phản ánh đúng thực tiễn, soi đường cho hoạt động thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển. Tư tưởng Hồ Chí Minh là như vậy.

Trước hết, trên phương diện lý luận, tư tưởng của Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đồng thời, tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Với thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và một trí tuệ sắc sảo, khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chuyển hóa được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân loại để hình thành nên hệ thống tư tưởng của mình. Đó là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tiêu biểu là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, v.v. Tư tưởng ấy không chỉ giải quyết vấn đề về tư duy lý luận mà cao hơn là tư duy hành động, giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Nhìn lại lịch sử, từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm của nhân dân Việt Nam đã liên tục nổ ra, với nhiều hệ tư tưởng khác nhau, như: giai cấp phong kiến (phong trào Cần Vương), dân chủ tiểu tư sản (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh), giai cấp nông dân (Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực),... nhưng đều bị thất bại. Chỉ đến khi tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh được xác lập trên lập trường giai cấp công nhân và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1 với nội dung cốt lõi của tư tưởng đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước và mở ra trang mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, cách mạng Việt Nam đã liên tục giành những thắng lợi to lớn, từ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, đến thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, để nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như ngày hôm nay. Vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đâu phải là sự “vay mượn”, “du nhập những tư tưởng ngoại lai”, hoặc là “Người đi trên cỗ xe Nho giáo”; và rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều”. Thực chất những luận điệu đó chỉ là sự bịa đặt, nhằm phủ nhận, xóa nhòa bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Điểm nữa là, hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam luôn thống nhất, hòa quyện với nhau trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đường lối của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng luôn soi sáng đường lối, quan điểm của Đảng ta. Điều đó được thể hiện rất rõ qua việc chuẩn bị thành lập và xây dựng Cương lĩnh hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã trực tiếp soạn thảo “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng”, “Chương trình tóm tắt của Đảng”, “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam”, v.v. Những văn kiện đó đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Trong đó, “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2 và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là những luận điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền - Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi đó vấn đề có tính quy luật, quyết định sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thực sự là “con nòi” của dân tộc, là đạo đức, là văn minh; phải thường xuyên đổi mới, xây dựng Đảng vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó vừa mang tính thực tiễn, vừa có dự báo tương lai.

Không chỉ nêu những quan điểm về xây dựng Đảng cách mệnh chân chính, mà hệ thống quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới ở nước ta đã là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng. Trong đó, “giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản” là quan điểm có tính quyết định đến vận mệnh dân tộc, là con đường duy nhất đúng của dân tộc ta và được Hồ Chí Minh vận dụng một cách khoa học trên cơ sở lý luận, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Về tập hợp lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định “Công, nông là gốc của cách mạng, còn học trò, nhà buôn điền chủ nhỏ là bầu bạn của cách mạng”; và để có lực lượng cách mạng, phải đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh xác định rõ, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và bọn phong kiến tay sai ôm chân đế quốc là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của nhân dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đã nêu phương hướng, quyết tâm chiến lược của cách mạng Việt Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” và thực tiễn đã diễn ra đúng như vậy.

Mặt khác, thực tiễn đã và đang chứng minh hùng hồn “tư tưởng Hồ Chí Minh không bao giờ là tư biện, lý thuyết, giáo điều”. Hay nói theo cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự đúc kết từ thực tiễn và được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh được thừa hưởng một nền giáo dục “yêu nước, thương dân” từ gia đình, quê hương, đất nước. Hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân gần 30 năm, đi đến khoảng 40 nước trên khắp các châu lục, Hồ Chí Minh luôn “tự làm giàu tri thức” của mình bằng phương pháp tự học và đúc kết thực tiễn cách mạng thế giới để “về giúp đồng bào mình” thực hiện sự nghiệp giải phóng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ giá trị, tầm ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Điều đó chứng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh không thể là “lý thuyết suông” mà là lý thuyết được bắt nguồn từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm và trở lại phục vụ thực tiễn.

Từ lý luận, thực tiễn trên, một lần nữa chúng ta khẳng định luận điệu cho rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều” chỉ là sự xuyên tạc trắng trợn của các thế lực thù địch, phản động, hòng phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, với ý đồ đen tối xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân ta và bạn bè quốc tế; làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thiếu tin tưởng vào tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vì thế, hơn lúc nào hết, chúng ta phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu rác rưởi, phản động, phản khoa học này, góp phần bảo vệ giá trị trường tồn và tính khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mọi tổ chức, mọi lực lượng.

Thực hiện điều đó, vấn đề nhất quán, xuyên suốt của chúng ta là phải tiếp tục khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện, khoa học, cách mạng, là một bộ phận không tách rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác – Lê-nin; “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và của dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”3. Do đó, phải tăng cường nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, tích cực làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân và toàn xã hội. Hành động thiết thực nhất là mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; việc làm đó phải thường xuyên, trở thành một nhu cầu văn hóa sâu sắc, bền bỉ và rộng khắp trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đó cũng là cách thiết thực nhất, hiệu quả nhất để đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng ta.   

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

Tuyên ngôn Độc lập: Thời khắc lịch sử và ý nghĩa trường tồn

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc và sự thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đến nay, vẫn vẹn nguyên giá trị.

Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội đã tạo nên chuyển biến nhảy vọt của Tổng khởi nghĩa, đồng thời tạo điều kiện để Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiếp tục chỉ đạo Tổng khởi nghĩa, xúc tiến chuẩn bị ngay cho việc ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiến hành các hoạt động đối ngoại.

Ngày 21/8/1945, nhiều ủy viên Trung ương Đảng đã về Hà Nội. Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) về tới Hà Nội.

Sau khi nghe báo cáo tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội, chiều 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tổ chức tại số nhà 48 phố Hàng Ngang, để bàn những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương của Ban Thường vụ mở rộng thành phần Ủy ban giải phóng dân tộc và sớm công bố danh sách của Ủy ban cho toàn dân biết, chuẩn bị bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức cuộc mít-tinh lớn ở Hà Nội để Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt nhân dân. Ngày ra mắt của Ủy ban cũng là ngày Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 27/8/1945, Ủy ban giải phóng dân tộc họp tại Hà Nội. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu ra được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Một số ủy viên Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác, có cả những người đã từng tham gia trong chính quyền cũ.

Hành động tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác của một số ủy viên Việt Minh được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân”.

Cũng trong ngày 27/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày hôm sau, danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được công bố trên các báo ở Hà Nội.

Xứng đáng là trung tâm giáo dục chất lượng cao, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị thầy và trò nỗ lực phấn đấu dạy tốt và học tốt hơn nữa với tất cả ý chí và khát vọng của mình, tiếp tục giữ vững vị trí ngôi trường có nhiều thành tích nhất cả nước về số lượng huy chương, giải thưởng trong các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế tại Lễ Khai giảng năm học 2022-2023 Trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), sáng 5/9.

Phát biểu tại lễ khai giảng, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi tới các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh trong cả nước nói chung, Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên nói riêng những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất, bước vào năm học mới với khí thế mới, đạt nhiều thành tích trong dạy và học.

Chủ tịch nước nêu rõ, giáo dục là nền tảng của sự phát triển bền vững, quyết định tương lai của dân tộc, của đất nước; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Giáo dục vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển của xã hội.

Từ khi nước nhà giành được độc lập đến nay, Đảng và Bác Hồ đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, coi đây là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước.

Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhất là các thế hệ thầy cô giáo, đến nay, nền giáo dục nước ta đã có những chuyển biến tích cực, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề trong 2 năm học vừa qua do dịch Covid-19.

Trong bảng xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Đặc biệt, trong nhiều năm qua, các đoàn học sinh nước ta tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế luôn đạt những thành tích cao, góp phần khẳng định vị thế của nền giáo dục Việt Nam trên thế giới.

Thành tựu chung đó có sự đóng góp tích cực của mỗi thầy, cô giáo, mỗi em học sinh, của từng trường học, từng cơ sở giáo dục-đào đạo, từng cán bộ và đơn vị quản lý giáo dục, cũng như sự quan tâm chăm lo của các bậc phụ huynh, của mỗi gia đình, mỗi dòng họ và toàn xã hội, trong đó có Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên.

Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng về truyền thống và bảng vàng thành tích của các thế hệ thầy trò ngôi trường giàu thành tích nhất cả nước về đào tạo học sinh giỏi, đang dần khẳng định vị thế trong những trường THPT danh tiếng của khu vực và thế giới.

Nhà trường đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, nhiều học sinh đã trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý hàng đầu của đất nước, nhà khoa học hàng đầu của khu vực và quốc tế. Thành tích xuất sắc của nhiều thế hệ học sinh không chỉ mang lại niềm tự hào cho gia đình, nhà trường và đất nước mà còn khẳng định bản lĩnh, tài năng, trí tuệ của con người Việt Nam trên đấu trường quốc tế.

Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm học 2022-2023, Chủ tịch nước đề nghị toàn ngành Giáo dục nước nhà đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung chỉ đạo tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, hướng vào phát triển con người toàn diện cả năng lực và phẩm chất, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế-xã hội, khoa học và công nghệ của đất nước, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.

Cùng với đó, hoàn thiện các cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, phù hợp từng loại hình đào tạo; sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách, bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công bằng những thành quả tốt đẹp của nền giáo dục nước ta.

Chủ tịch nước cũng yêu cầu tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo đúng hướng, hợp lý; thực hiện bổ sung đủ biên chế giáo viên trong giai đoạn từ năm 2022-2026 theo đúng Kết luận của Bộ Chính trị; nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học; đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Với Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên, Chủ tịch nước đề nghị thầy và trò nỗ lực phấn đấu dạy tốt và học tốt hơn nữa với tất cả ý chí và khát vọng của mình, tiếp tục giữ vững vị trí ngôi trường có nhiều thành tích nhất cả nước về số lượng huy chương, giải thưởng trong các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, xứng đáng là trung tâm giáo dục chất lượng cao, đào tạo được nhiều nhân tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, tô thắm thêm bảng vàng thành tích và truyền thống quý báu đã được các thế hệ đi trước dày công tạo lập, vun đắp qua 57 năm xây dựng và trưởng thành.

Chủ tịch nước mong học sinh nhà trường cũng như tất cả học sinh trong cả nước thực hiện thật tốt 5 điều Bác Hồ dạy, tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, nối tiếp các thế hệ cha anh, phấn đấu không ngừng học hỏi, tiếp thu tinh hoa tri thức của nhân loại, bồi đắp trí tuệ, nhân cách, hoàn thiện bản thân, tự khẳng định mình để mai sau lập thân, lập nghiệp và cống hiến thật nhiều cho đất nước, để Việt Nam chúng ta vững bước tiến tới “đài vinh quang” và cùng “sánh vai với các cường quốc 5 châu”, như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.

Từ những thành công của Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên và nhiều trường chuyên khác, Chủ tịch nước đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo và toàn ngành Giáo dục quan tâm đổi mới mô hình trường chuyên, lớp chọn cho phù hợp, hiệu quả hơn để ngày càng đào tạo được nhiều học sinh giỏi quốc gia, quốc tế cũng như phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho tương lai đất nước.

Tại Lễ khai giảng năm học 2022-2023, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh trống khai giảng năm học mới và tặng quà các học sinh đoạt giải cao trong kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế và giáo viên nhà trường.

Nguồn: Báo ND

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được xác định là nội dung trọng tâm của đổi mới chính trị tại Việt Nam. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tích cực thảo luận, lấy ý kiến đóng góp để hoàn thiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với XHCN, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung XHCN trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng XHCN chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ… Những luận điệu trên  thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ sớm, gắn với các nhà tư tưởng nổi tiếng như Socrates (469-399 Tr.CN), Aristoteles (384-322 Tr.CN), Cicero (l06-43 Tr.CN), John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hegel (1770 - 1831) v.v… Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.

Những yếu tố cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền là xã hội có dân chủ, đất nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà các quốc gia khác nhau sẽ xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể một cách thích hợp.

Tại Việt Nam, mô hình mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, đây là bộ máy quyền lực của chính quần chúng nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đại đa số người dân trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Việt Nam, Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ. Tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Việc Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Sau 35 năm thực hiện đổi mới, kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm), cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững, là tiền đề quan trọng để đất nước phát triển. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm bình quân trên 1,4%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục cũng đạt được nhiều thành tựu. Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao và được bầu giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức quốc tế. Đây là những minh chứng rõ ràng khẳng định Việt Nam đang phát triển đúng hướng.

Quá trình phát triển cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết, trong đó có vấn đề tham nhũng, suy thoái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hoá, xã hội còn diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề tồn tại kéo dài khiến dư luận bức xúc, ảnh hưởng tới sự uy nghiêm của luật pháp và niềm tin của người dân vào thể chế. Tuy nhiên, những tồn tại đó có nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập, mở cửa, luật pháp chưa đầy đủ, còn những kẽ hở bị lợi dụng; công tác quản lý Nhà nước còn những yếu kém, còn tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái, nhũng nhiễu.

Vấn đề là Đảng, Nhà nước ta nghiêm túc nhìn nhận hạn chế, thiếu sót, đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài để chấn chỉnh, đặc biệt là việc xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Vì vậy, không có lý do gì để các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” để giở trò “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, xuyên tạc tình hình, bôi nhọ Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Những chiêu trò xuyên tạc lịch sử trong dịp Quốc khánh 2/9 của các thế lực thù địch

 Xuyên tạc, bôi lem về giá trị, ý nghĩa lịch sử Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 của dân tộc Việt Nam vốn là chiêu bài “truyền thống” của các thế lực xấu, cứ đến dịp lại khui lên kiểu “bình cũ, rượu mới”.

Song, có những luận điệu ngay từ cách đặt vấn đề đến lý giải cho thấy sự ngô nghê của người viết, dường như họ cố tình không nhìn thấy gì cả, không nghe thấy gì cả, cứ phết lên đó gam màu càng đen, càng xám là được, bất chấp sự thể ra làm sao.

Chẳng hạn, bài viết trên trang mạng của tổ chức Việt Tân đặt câu hỏi khôi hài “Ngày 2/9 nên gọi là ngày gì?”. Bằng việc đưa ra những hiện tượng tiêu cực trong xã hội rồi người viết đả kích rằng “dân chỉ là bầy cừu làm thuê mà không hề có một tổ chức nào bảo vệ”; “đừng nhìn dân như một bầy cá thể yếu ớt”! Trong một bài viết khác về suy ngẫm ngày 2/9, cũng bằng việc phân tích kiểu đánh tráo khái niệm, bản chất, dẫn dắt với những lý lẽ sai lệch, người viết đả kích “vậy sau khi giành được chính quyền, chính quyền đó có về tay nhân dân không?”! Thậm chí, bài viết này còn xuyên tạc rằng: “Đến ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam chẳng có một quyền gì”! Từ đó, đánh lái thành “cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân, hơn 70 năm qua vẫn chưa xong”…

Đọc những câu chữ trên cho thấy rõ tư duy của những người cố tình viết lấy được, nói lấy được, kiểu như đã nhận đặt bài của tổ chức, cá nhân nào đó, cầm “xèng” rồi thì phải “trả  bài” sao cho càng lộng ngôn, càng xuyên tạc, miệt thị cay độc càng có tiền.

Cổ suý tư tưởng chống phá nói trên, một số mạng hải ngoại phân tích kiểu râu ông cắm cằm bà, tiếp cận các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực hiện nay trong bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước rồi phán rằng, hiện thực đất nước là “gam màu xám xịt”. Họ cho rằng, 77 năm sau Quốc khánh 2/9/1945, Việt Nam vẫn trì trệ, lạc hậu vì “sự bảo thủ của Đảng”, coi Việt Nam “cũng chẳng có vị thế gì” trên bản đồ quốc tế, thậm chí còn cho rằng, ngày nay các nước không muốn kết bạn với Việt Nam vì “sợ cộng sản”! Rõ ràng, với cái cách xảo biện như thế, một mặt cho thấy động cơ chống phá đến cùng của một số cá nhân, tổ chức, song cũng phơi bày sự thật là họ cũng đã “hết cách”, xoay đi xoay lại chỉ bài vở cũ, kiểu như “cứ rượu xong là chửi”!

Ở đây, cần thấy rằng:  

Thứ nhất, về ý nghĩa, bản chất của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9, bất cứ nhìn từ góc độ nào cũng phải tôn trọng sự thật khách quan của lịch sử và điều này đã được sử sách nước ta cũng như thế giới ghi nhận. Với Cách mạng Tháng Tám, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Từ đây, đất nước, xã hội và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Thứ hai, từ thành quả của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam đã phấn đấu, đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Hiện thực đó được thể hiện bằng bức tranh sống động trong giai đoạn đổi mới hiện nay, điều mặc nhiên ai cũng thấy rõ. Các quyền con người được khẳng định trong Hiến pháp và cụ thể hoá từ thực tiễn và chính người dân ghi nhận, hưởng thụ, không thể bôi lem, biến tấu kiểu “đến ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam chẳng có một quyền gì”!

Thứ ba, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và quốc tế đánh giá, coi Việt Nam như thế nào, hãy để sự thật khách quan lên tiếng, không thể tẩy trắng kiểu “không có vị trí gì”!

Sự thực là, cũng trong những ngày đầu tháng 9 này, phái đoàn Việt Nam đang tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cảnh sát Liên hợp quốc lần thứ ba (UNCOPS), diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc tại New York từ 30/8-3/9, gửi đi thông điệp Việt Nam sẵn sàng tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế. Tại khóa họp 50 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc diễn ra tháng 6 vừa qua, Việt Nam cùng Bangladesh và Philippines đã đồng tổ chức phiên thảo luận chuyên đề về đảm bảo quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đồng thời giới thiệu dự thảo Nghị quyết năm 2022 về biến đổi khí hậu và quyền con người, tập trung vào quyền lương thực và biến đổi khí hậu. Đó chỉ là hai trong rất nhiều hoạt động quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia, thể hiện rõ nét Việt Nam là một đối tác tích cực, có trách nhiệm với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế.

Cũng trong dịp Quốc khánh này, các nước đã chúc mừng, đánh giá cao thành tựu, vị thế của Việt Nam. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres khẳng định, Việt Nam là nhân tố quan trọng đóng góp vào hòa bình, ổn định trong khu vực. Theo người đứng đầu Liên hợp quốc, “Việt Nam cho thấy những cam kết mạnh mẽ của một quốc gia luôn tích cực nỗ lực xây dựng lòng tin và đối thoại, làm cầu nối tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột trên thế giới”. Đánh giá của Tổng Thư ký Liên hợp quốc phản ánh sự tin tưởng, kỳ vọng vào những đóng góp trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế, đồng thời cũng cho thấy vai trò và vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.

Việc Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm kỳ ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020-2021 là một trong những minh chứng điển hình. Việt Nam được đánh giá đã thể hiện vai trò chủ động, cân bằng, trách nhiệm khi đưa ra những đề xuất, đóng góp thiết thực vào hoạt động của Hội đồng Bảo an, chung tay giải quyết những thách thức toàn cầu. Nổi bật là việc khi đại dịch COVID-19 bùng phát và lây lan trên toàn cầu, Việt Nam chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy để Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết thành lập Ngày Quốc tế phòng, chống dịch bệnh vào 27/12 hằng năm; cùng với Đức khởi xướng và trở thành nước sáng lập Nhóm Bạn bè của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, ra mắt cuối tháng 6/2021. Tại buổi lễ kỷ niệm 1 năm ngày thành lập Nhóm diễn ra ở New York tháng 6 vừa qua, đại diện nhiều nước đã hoan nghênh sáng kiến của Việt Nam cũng như các nước đồng sáng lập nhóm, góp phần đề ra cam kết của đông đảo thành viên Liên hợp quốc, các nước thành viên UNCLOS đối với Công ước vốn lâu nay được coi là “Hiến pháp của đại dương”.

Từ tháng 6/2014 đến tháng 8/2022, có 512 lượt sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp Việt Nam được cử đi làm nhiệm vụ ở phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei... Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc phụ trách các hoạt động hòa bình Jean-Pierre Lacroix đã cảm ơn Việt Nam về sự ủng hộ mạnh mẽ cũng như những đóng góp tích cực đối với các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Ông Lacroix đánh giá cao tính chuyên nghiệp, sự tận tụy, nỗ lực, hy sinh của các binh sĩ Việt Nam khi phải thực hiện nhiệm vụ trong những môi trường khó khăn; đặc biệt bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam tại Nam Sudan đã đóng vai trò quan trọng trong thành công chung của phái bộ Liên hợp quốc tại quốc gia châu Phi này.

Chính sự sẵn sàng và tinh thần trách nhiệm khi tham gia đóng góp vào công việc chung của cộng đồng quốc tế đã giúp Việt Nam tạo dựng được lòng tin, liên tiếp được bầu vào nhiều tổ chức đa phương quan trọng như Hội đồng Chấp hành của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Hội đồng Khai thác bưu chính của Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC)... Đây cũng là động lực để Việt Nam ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, đại diện cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điều này cũng thể hiện sự tự tin của Việt Nam trong việc gánh vác các trọng trách của quốc tế.

Đánh giá về những thành tựu đối ngoại của Việt Nam, Đại sứ Philippines Kridelka, Trưởng phái đoàn thường trực Bỉ tại Liên hợp quốc khẳng định: “Việt Nam có tiếng nói mạnh mẽ và có được lòng tin của thế giới, nhất là ở châu Á, châu Phi và cả châu Âu cũng như Mỹ”. Trong các phát biểu khi tham dự lễ kỷ niệm 77 năm Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhiều đại diện chính phủ, tổ chức quốc tế đã đề cao vị thế và coi trọng hợp tác với Việt Nam.

Sự tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế đã cho thấy một Việt Nam tự tin, sẵn sàng gánh vác nhiều trọng trách quốc tế vì hòa bình và phát triển bền vững. Đó là hiện thực khách quan, do quốc tế ghi nhận, đánh giá chứ không phải tự mình nói về mình. Vậy mà vẫn có những thành phần viết, nói theo kiểu không nghe, không biết, không thấy thì đủ hiểu động cơ của họ như thế nào.

Việt Nam-Lào vững bước đồng hành trên con đường phát triển

Nhìn lại lịch sử mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào qua hơn 9 thập niên, chúng ta tự hào về mối quan hệ mẫu mực, vô cùng trong sáng, hết mực thủy chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.

Là hai nước láng giềng gần gũi, có đường biên giới chung dài hơn 2.300km, cùng uống chung dòng nước sông Mekong, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, quan hệ gắn kết anh em giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào đã được hình thành và hun đúc trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung son sắt, trong sáng, hiếm có trong quan hệ quốc tế.

60 năm trước, ngày 5/9/1962, Việt Nam và Lào đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong quan hệ hai nước.

Đây không chỉ là sự kiện lịch sử quan trọng, là bước ngoặt mới trong thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của lực lượng cách mạng hai Đảng, hai nước, mà còn khẳng định sự gắn bó vận mệnh của hai dân tộc trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong hơn một thập niên sau đó, quân đội và nhân dân hai nước tiếp tục dành cho nhau sự hỗ trợ và sẻ chia to lớn cả về tinh thần cũng như nhân lực và vật lực, trên tinh thần “Hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”.

Để hỗ trợ cách mạng Lào, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã cử hàng vạn cán bộ, chiến sĩ sang phối hợp, giúp đỡ và sát cánh chiến đấu cùng quân đội và nhân dân Lào.

Để giúp cho công cuộc thống nhất đất nước của Việt Nam, Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào cũng đã hết lòng hết sức hỗ trợ Việt Nam xây dựng “Đường Hồ Chí Minh huyền thoại”.

Sự giúp đỡ lẫn nhau vô cùng to lớn và cao đẹp đó đã trở thành sức mạnh to lớn, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của mỗi nước đi đến thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.

Sau khi hòa bình lập lại, quan hệ giữa Việt Nam và Lào bước sang trang sử mới, từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập, chủ quyền là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Xuất phát từ nhu cầu hợp tác sâu rộng và cấp thiết giữa hai nước trong tình hình mới, ngày 18/7/1977, Việt Nam và Lào đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, tạo cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc để hai nước không ngừng mở rộng quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện.

Đây cũng là tiền đề để hai nước ký kết hàng loạt văn kiện và thỏa thuận hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục-đào tạo…

Trong thời kỳ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hai Đảng, hai nước Việt Nam-Lào anh em tiếp tục kề vai, sát cánh trong công cuộc Đổi mới, cùng đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, an toàn và trật tự xã hội, mang lại cuộc sống ngày càng ấm no và bình yên cho nhân dân mỗi nước.

Nhìn lại lịch sử mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào qua hơn 9 thập niên kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đặc biệt là sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1962 và ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác năm 1977 đến nay, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về mối quan hệ mẫu mực, vô cùng trong sáng, hết mực thủy chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.

Tự hào khi chứng kiến bất chấp tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, thuận lợi và thách thức đan xen, tác động mạnh đến hai nước, nhưng quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Souphanouvong trực tiếp đặt nền móng, chẳng những không bị ảnh hưởng, mà còn ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đem lại hiệu quả và nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước trên mọi lĩnh vực, trở thành mối quan hệ đặc biệt, là di sản quý báu và là nhân tố quyết định đối với sự thành công trong công cuộc cách mạng ở mỗi nước.

Đặc biệt trong những năm gần đây, ngay cả khi đại dịch COVID- 19 đặt ra những thách thức và khó khăn chưa từng có, nhờ sự phối hợp linh hoạt và hình thức đa dạng, nhiều thỏa thuận quan trọng mang tính chiến lược, định hướng cho quan hệ hai nước duy trì được tiến độ và bảo đảm hiệu quả, giúp cho quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước tiếp tục phát triển vững chắc, ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả.

Quan hệ chính trị không ngừng được củng cố và nâng cao, từ "quan hệ hữu nghị truyền thống" thành "quan hệ hữu nghị vĩ đại" từ tháng 2/2019, ngày càng trở nên tin cậy, gắn bó, tiếp tục giúp định hướng cho các lĩnh vực hợp tác khác.

Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng-an ninh tiếp tục là trụ cột vững chắc trong quan hệ Việt Nam-Lào, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định, an ninh chính trị mỗi nước.

Hợp tác kinh tế trở thành nền tảng lâu dài trong quan hệ hai nước, ngày càng khởi sắc, mở rộng, đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Việt Nam tiếp tục là một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Lào...

Không chỉ hợp tác toàn diện và ngày càng đi vào chiều sâu trong khuôn khổ song phương, tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt giữa Việt Nam và Lào còn được khẳng định trên bình diện đa phương.

Hai nước chia sẻ nhiều điểm tương đồng, ủng hộ lẫn nhau và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, Tiểu vùng Mekong mở rộng...

Trong diễn văn đọc tại Thủ đô Hà Nội ngày 18/7/2022 nhân dịp kỷ niệm 45 năm hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn luôn ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện công cuộc đổi mới của Lào; đồng thời hết sức coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa hai Đảng, hai nước chúng ta. Chúng tôi luôn luôn mong muốn hợp tác, hỗ trợ đất nước Lào với tinh thần giúp bạn là giúp mình, xem đây là nhiệm vụ chiến lược; mong muốn cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào không ngừng bồi đắp tin cậy chính trị, đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng, tăng cường kết nối hai nền kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng hợp tác giáo dục đào tạo, cùng nhau xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập sâu rộng”.

Trong diễn văn đọc tại thủ đô Viêng Chăn cùng ngày nhân sự kiện này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith cũng nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào luôn kiên quyết và sẽ cùng với các đồng chí Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống làm cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào-Việt Nam mãi mãi trường tồn, tăng cường và nâng cấp sự hợp tác trong các lĩnh vực ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho người dân hai nước”.

Với những cam kết mạnh mẽ của lãnh đạo cấp cao nhất cùng quyết tâm của người dân hai nước gìn giữ và vun đắp cho quan hệ Việt-Lào, trên cơ sở của những kết quả đáng tự hào mà hai nước đã đạt được trong suốt những năm tháng qua, tin tưởng rằng, quan hệ hữu nghị vĩ đại Việt Nam-Lào trong tương lai sẽ không ngừng được củng cố, phát triển, năng động, hiệu quả và thiết thực hơn, ngày càng đáp ứng lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân hai nước và mãi mãi trường tồn với thời gian.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...