Thứ Ba, 28 tháng 12, 2021

Năm thắng lợi của ngoại giao đa phương


Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, ngoại giao đa phương đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt khi tham gia vào một loạt sự kiện đối ngoại quan trọng của nước nhà trong năm 2021. 

Vài năm trở lại đây, ngoại giao đa phương của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc khi tham gia vào một loạt sự kiện quốc tế quan trọng như: Nước chủ nhà đăng cai Hội nghị Cấp cao APEC năm 2017, Hội nghị WEF ASEAN năm 2018, Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên năm 2019, Chủ tịch ASEAN, AIPA 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) nhiệm kỳ 2020-2021.

Ngoài ra, còn nhiều hoạt động đa phương khác có sự tham gia của các bộ, ngành. Đặc biệt, năm 2021 là năm thắng lợi của ngoại giao nước nhà khi Việt Nam được bầu là thành viên của Ủy ban Thương mại quốc tế của LHQ (UNCITRAL), ký được thỏa thuận xây dựng trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế (PCA) tại Việt Nam cũng như lần thứ hai có người được bầu là thành viên của Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) của LHQ với số phiếu cao hơn lần trước.

Điều này chứng tỏ cộng đồng quốc tế ngày càng tin tưởng vào vai trò của Việt Nam cũng như năng lực của cán bộ ngoại giao Việt Nam.

Những dấu ấn ngoại giao đa phương của Việt Nam khi tham gia vào HĐBA được Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Vụ trưởng Vụ Các tổ chức quốc tế Đỗ Hùng Việt nhắc đến trước hết là Việt Nam có lập trường nguyên tắc dựa trên luật pháp quốc tế, Hiến chương LHQ, luôn quan tâm đến lợi ích chính đáng và tiếng nói của các bên liên quan, qua đó tạo dựng được ý kiến đồng thuận.

“Bên cạnh đó, Việt Nam đã thúc đẩy một loạt ưu tiên và hoàn thành tương đối tốt. Chúng ta thúc đẩy để tăng cường vai trò, tiếng nói, sự hiện diện của ASEAN tại LHQ. Ví dụ, khi bàn thảo về vấn đề Myanmar, Việt Nam luôn mời đại diện của ASEAN tham gia phát biểu, chia sẻ quan điểm, đánh giá về tình hình ở Myanmar. Đây là vấn đề rất mới, bởi bắt đầu từ năm 2020, ASEAN mới hiện diện và đóng góp ý kiến tại HĐBA”, Trợ lý Bộ trưởng Đỗ Hùng Việt kể lại.

Đồng quan điểm trên, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, Thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế, cho rằng lần đầu là Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, Việt Nam trong giai đoạn khẳng định vị trí của mình. Ở nhiệm kỳ thứ hai, Việt Nam đã chủ động trong nhiều vấn đề.

Theo Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, đóng góp lớn nhất của Việt Nam ở HĐBA LHQ là thúc đẩy tiến trình xây dựng lực lượng Gìn giữ hòa bình LHQ. Việt Nam cũng nói lên tiếng nói của các nước đang phát triển để giải quyết xung đột ở những “điểm nóng” như Sudan, Ethiopia và một số nước khác. Lần đầu tiên Đại hội đồng LHQ lấy ngày 27-12 là Ngày quốc tế phòng, chống dịch bệnh theo sáng kiến của Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam và Đức còn đồng sáng kiến thành lập Câu lạc bộ các nước về Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, với 112 nước tham gia.

“Tại HĐBA, Việt Nam tham gia giải quyết những xung đột ở châu Phi, Trung Đông để làm gì, thu lợi được gì?”. Câu hỏi này được Vụ trưởng Đỗ Hùng Việt giải đáp rằng, nhiệm vụ hàng đầu của nền ngoại giao Việt Nam chính là tạo dựng môi trường hòa bình để phát triển.

Khi Việt Nam hội nhập, có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên LHQ thì sự hiện diện, giao thương của Việt Nam đã ở khắp nơi trên thế giới. Ở nơi nào có sự hiện diện của người dân, doanh nghiệp Việt Nam, ở đó có lợi ích của Việt Nam.

Vì thế, khi tham gia vào HĐBA, dù đóng góp ít hay nhiều để mang lại ổn định, hòa bình cho các nước, cũng là mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân Việt Nam. “Có thể chúng ta không nhìn thấy ngay lập tức, nhưng 5, 10, thậm chí 15 năm sau, chúng ta mới thấy sự tham gia này quan trọng như thế nào”, ông Việt nhấn mạnh.

Song, có những việc mà ngoại giao đa phương vừa làm đã mang lợi ích tức thì. Khi dịch Covid-19 mới bùng phát, cơ chế đa phương gần như bị tê liệt. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, các tổ chức chuyên môn, các cơ chế đa phương từ khu vực như ASEAN cho đến liên khu vực như ASEM, APEC, G20 và các tổ chức chuyên môn của LHQ như Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã có vai trò điều phối rất quan trọng.

Điển hình là cơ chế COVAX do WHO, Liên minh Đổi mới sáng tạo sẵn sàng ứng phó dịch bệnh (CEPI), Liên minh toàn cầu về vaccine và tiêm chủng (GAVI) và Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF) đồng sáng lập. Cơ chế này ngay khi thành lập đã xác định mục tiêu cung cấp đủ lượng vaccine cho 20% dân số thế giới, trong đó Việt Nam có thể tiếp nhận 39 triệu liều vaccine ngay từ đầu.

Vụ trưởng Đỗ Hùng Việt cho biết, những liều vaccine đầu tiên tiêm cho người dân Việt Nam đến từ cơ chế COVAX. Cái khó của giai đoạn đầu là khan hiếm nguồn cung, do đó công tác vận động càng phải quyết liệt. Nhân tố quyết định chính là sự vào cuộc của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước.

Một yếu tố rất quan trọng được COVAX tính đến khi cung cấp vaccine cho Việt Nam chính là năng lực của hệ thống y tế trong việc triển khai tiêm chủng.

“Chúng ta đã đi gom từng liều vaccine, có những lô vaccine cả triệu liều, nhưng có lô chỉ 30.000 liều. Có lần, biết tin một quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương không tiêm hết vaccine trong thời gian ngắn nên Việt Nam đã đề nghị WHO, COVAX chuyển số vaccine đó cho chúng ta. Chúng ta đã sẵn sàng tiếp nhận và triển khai rất nhanh lượng vaccine đó”, Vụ trưởng Đỗ Hùng Việt nhớ lại.

Năm 2021 đã khép lại với những thành tựu nổi bật của ngoại giao đa phương, góp phần quan trọng trong những dấu ấn nổi bật của ngành ngoại giao nói chung. Khi Việt Nam kết thúc vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020-2021, nhiệm vụ đặt ra đối với ngoại giao đa phương ngày càng nặng nề hơn.

Hiện nay, Vụ Các tổ chức quốc tế-Bộ Ngoại giao đang xây dựng kế hoạch để tiếp tục ứng cử vào vị trí lãnh đạo khác của LHQ. Ngoài việc ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam dự kiến sẽ ứng cử vào một số cơ chế, tổ chức khác của LHQ, đồng thời tiếp nối sáng kiến, ưu tiên đã triển khai; tăng cường tham gia xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, đặc biệt là dịch bệnh và biến đổi khí hậu.

Vụ trưởng Đỗ Hùng Việt nhấn mạnh, đây là những lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều dư địa để phát huy vai trò hơn nữa trong thời gian tới.

Nguồn: Báo QĐND

Chiêu trò lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước

Để chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch từ lâu xem tôn giáo là một trong những mũi nhọn để công kích, chống phá. Những đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ XHCN dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò của Đảng, Nhà nước ta.

Trước hết, các thế lực thù địch đi sâu tuyên truyền, gieo rắc tâm lý cho rằng: “CNXH không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo; công dân theo đạo không được xét, kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam”; cố gắng tạo ra khoảng cách cũng như dùng các thủ đoạn làm tăng sự đối kháng giữa tôn giáo với đời sống hiện thực để kích động tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không những phủ nhận những kết quả trong công tác tôn giáo mà còn ra sức lợi dụng tôn giáo, coi tôn giáo là vũ khí lợi hại để chống phá sự nghiệp cách mạng với nhiều chiêu thức thâm độc, tinh vi, xảo quyệt; khi thì bí mật, lúc thì trắng trợn, công khai.

Chúng tổ chức xây dựng các tổ chức lấy danh xưng tôn giáo cùng với việc thiết lập các trang mạng xã hội như: Youtube, facebook, blog… để phát tán, đăng tải các video, hình ảnh, bài viết với danh nghĩa các tôn giáo để đả kích, nói xấu chế độ, bôi nhọ lãnh tụ, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Họ đi sâu vào những mặt trái của xã hội để quy kết, hạ thấp thanh danh của Đảng, Nhà nước ta, thậm chí cố tình “diễn trò”, lợi dụng về đức tin và sự gắn kết cộng đồng của tôn giáo nhằm lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá cách mạng hay tìm mọi cách chia rẽ các tôn giáo với nhau, chia rẽ người có tôn giáo với người không có tôn giáo, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận nhân dân với hệ thống chính trị.

Trong giai đoạn hiện nay, tôn giáo ở Việt Nam đều có mối quan hệ quốc tế sâu sắc. Đây chính là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng, sử dụng mọi chiêu trò để vu khống Đảng, Nhà nước ta “xâm phạm quyền tự do, đàn áp tôn giáo”; từ đó, kêu gọi các tổ chức, cộng đồng quốc tế lên tiếng, can thiệp. Bằng hình thức lôi kéo, cổ súy, hậu thuẫn cho một số linh mục, chức sắc tôn giáo có nhiều tham vọng chính trị và lợi dụng đức tin của các tín đồ đã tuyên truyền, xuyên tạc hết sức phản động về Đảng, chế độ, chính quyền các cấp; ngang nhiên phát thư ngỏ trên mạng xã hội, kêu gọi, kích động một bộ phận nhân dân có đạo gây rối.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc song phát triển không đều về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đời sống dân trí và các hoạt động xã hội giữa thành thị với nông thôn, miền xuôi với miền núi, vùng có đạo và không có đạo còn có sự chênh lệch. Các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng núi cao, địa bàn có vị trí chiến lược nhưng điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn. Dựa vào đặc điểm địa lý; khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số, các thế lực thù địch đã lợi dụng để hình thành, phát triển những tôn giáo cực đoan, dị dạng trái với các giá trị văn hóa của tôn giáo, đi ngược lại thuần phong mỹ tục của dân tộc, từ đó thúc đẩy kết hợp chống phá sự nghiệp cách mạng cả về vấn đề dân tộc và tôn giáo.

Trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa quan tâm, chăm lo, bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt động, phát triển bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta.

Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận là quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền bẩm sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng định rõ hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc có nhiều hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng.

Tự do ngôn luận ở Việt Nam luôn được Hiến pháp bảo đảm

Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay như trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013); Luật Báo chí (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)..., quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm.

Trước những diễn biến mới trên mặt trận tư tưởng, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tiếp đó, ngày 25-3-2019, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch số 14-KH/TW thực hiện Nghị quyết số 35. Theo Kế hoạch số 14, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 35 cần gắn với việc tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng có liên quan. Riêng vấn đề chống lại việc lợi dụng “tự do ngôn luận” để tùy ý “ngôn luận tự do” nhằm lôi kéo, kích động, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất, sớm kiện toàn việc xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW. Đồng thời, phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là của người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Lực lượng chuyên trách là những người chủ lực, tiên phong trong việc thực hiện nhất quán, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, quan điểm cũng như các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, với kế hoạch trước mắt, lâu dài, cùng lộ trình ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và những trường hợp đột xuất phù hợp với tình hình thực tiễn một cách linh động, khoa học, sát hợp.

Việc hình thành lực lượng chuyên trách, tinh nhuệ trên mọi lĩnh vực, để có thể kịp thời phát hiện, bóc trần những âm mưu, thủ đoạn mà thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình gây ra và đấu tranh chống lại những âm mưu đen tối bằng nhiều phương thức khác nhau, trên cả các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như trên không gian mạng, giúp đông đảo người dân hiểu rõ bản chất của thông tin, miễn nhiễm với thứ “ngôn luận tự do” vô lối, trái pháp luật và nhận ra, hiểu rõ dã tâm của những phần tử quá khích, kích động, chống phá...

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm tăng cường công tác tuyên truyền nội dung của Nghị quyết số 35-NQ/TW, Kế hoạch số 14-KH/TW một cách thường xuyên, sáng tạo, khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu, tránh khô cứng, sáo mòn, giáo điều, khó đi vào cuộc sống. Cần tuyên truyền sâu rộng, thiết thực 4 nhiệm vụ thường xuyên tại Kế hoạch số 14-KH/TW đã được xác định rõ, đó là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị; tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm... Đồng thời, các cấp, các ngành chức năng cần kịp thời cung cấp thông tin chính xác, khách quan để đấu tranh phản bác, định hướng dư luận trước những thông tin trái với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giúp cấp ủy cơ sở có sự định hướng kịp thời...

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, đặc biệt là về hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, công bằng xã hội,... để tạo gốc rễ, nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước. Có như thế, mới không tạo ra những “kẽ hở”, những “khoảng trống” cho việc hình thành, phát sinh, tồn tại “nhóm lợi ích”, những quan tham, tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong xã hội... Bên cạnh đó, cần phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong phát triển kinh tế  - xã hội những năm qua, để tạo đà cho những sự bứt phá tiếp theo, với kỳ vọng sẽ đạt được những thành tựu nổi bật hơn nữa trong thúc đẩy đà tăng trưởng, nâng cao đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước...

Thứ tư, xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng, góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước mọi thủ đoạn tấn công, phá hoại của các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội, tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó và nhân danh “tự do ngôn luận” để xuyên tạc, vu khống đất nước bằng những gam màu xám... Các cơ quan báo chí cần tăng cường thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tránh chỉ dồn việc cho vài cơ quan báo chí vốn lâu nay chuyên đảm trách vấn đề này... Đồng thời, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động...

Thứ năm, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “đòi công lý cho nhân dân” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ,... trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau. Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ, việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài, có hệ thống để đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật...

Cảnh giác với chiêu trò lợi dụng phản biện xã hội để gây nhiễu thông tin, chống phá Đảng, Nhà nước

Phát huy dân chủ, quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong giám sát, phản biện tích cực nhằm mang lại những kết quả tích cực là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy vậy, một thực tế rất đáng quan tâm là không ít đối tượng lợi dụng phản biện xã hội (PBXH) để gây nhiễu thông tin, tạo ra những mâu thuẫn trong xã hội. Đặc biệt, các thế lực thù địch, một số tổ chức phản động đã móc nối, gieo mầm, nuôi dưỡng các đối tượng này để sử dụng làm công cụ chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Để thực hành PBXH với ý nghĩa tích cực, phải dựa trên nền tảng tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích... Nếu không, PBXH sẽ dễ chỉ là ý kiến chủ quan, cảm tính và phiến diện, thậm chí cực đoan, không đóng góp với tiến trình phát triển của xã hội, của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có không ít cá nhân xem và sử dụng PBXH như một “chiêu bài” để thực hiện một ý đồ, một mục tiêu nào đó hoàn toàn không nhằm mang lại lợi ích xã hội.

Thực tế cho thấy, trước mỗi kỳ đại hội Đảng hay trước mỗi lần sửa đổi Hiến pháp, ban hành các đạo luật, tổ chức các sự kiện lớn, những vấn đề hệ trọng của đất nước..., Đảng và Nhà nước ta đều công bố rộng rãi các văn kiện dự thảo, đưa ra quan điểm, chủ trương để lấy ý kiến thảo luận, đóng góp của toàn dân. Đại đa số nhân dân có ý thức trách nhiệm cao, luôn coi mỗi đợt đóng góp ý kiến là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và hưởng ứng tích cực. Các cơ quan chức năng luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân tiếp cận sớm, hướng dẫn người dân nghiên cứu, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về từng nội dung trong dự thảo các văn kiện và những vấn đề quan trọng. Tất cả ý kiến dù đồng thuận hay không đồng thuận đều được cơ quan chức năng tổng hợp báo cáo với Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ để xem xét quyết định.

Tuy vậy, với những người có động cơ xấu, nhằm mục đích chống phá đất nước, lại không bày tỏ quan điểm theo quy trình tổ chức và các kênh chính thống. Các đối tượng triệt để lợi dụng ưu thế của internet, nhất là mạng xã hội (MXH) để tiến hành các hoạt động chống phá núp dưới danh nghĩa PBXH. Dưới sự giật dây của các thế lực thù địch, một số phần tử cơ hội trong nước và cả ở nước ngoài đã soạn ra các văn bản dưới dạng “tâm thư”, “thư góp ý”, thậm chí họ còn soạn hẳn một dự thảo văn kiện mới, hoàn toàn khác với dự thảo văn kiện chính thống được công bố... để thể hiện những ý kiến trái ngược với quan điểm của Đảng, Nhà nước. Để minh họa cho những quan điểm sai trái đã nêu, núp dưới chiêu bài PBXH, họ dựng chuyện, tung ra nhiều thông tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc, nhằm gây nhiễu loạn thông tin, gây bất ổn trong dư luận. Trên không gian mạng, họ lập ra các hội, nhóm trá hình… để tuyên truyền, lôi kéo những người nhẹ dạ, tán phát các ý kiến tiêu cực, đi ngược với chủ trương, đường lối của Đảng.

Ngoài sử dụng những đối tượng PBXH đã được móc nối, để chống phá đất nước, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm đến việc phát triển lực lượng “phản biện” mới. Đối tượng PBXH là giới trẻ, cán bộ, đảng viên, công chức... được chúng đặc biệt để mắt. Cùng với tài trợ về tài chính, chúng còn hướng dẫn nội dung, kế hoạch hoạt động liên kết thành mạng lưới. Khi xuất hiện những quan điểm đi ngược chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên không gian mạng, thì ngay lập tức chúng huy động lực lượng “chân rết” vào bình luận, chia sẻ, tung hô... để gây bất ổn trong dư luận.

Bên cạnh việc phản biện có thể giúp điều chỉnh xã hội từ vi mô tới vĩ mô, thì mặt khác, phản biện cũng biểu thị cho tính dân chủ của xã hội. Vấn đề là ở chỗ, phản biện phải hướng tới ổn định và phát triển, không phải dùng phản biện nhằm gây mơ hồ, làm lạc hướng nhận thức chung, càng không gây ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn trong dư luận… Do vậy, muốn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng PBXH để gây nhiễu thông tin, chống phá đất nước của các thế lực thù địch, việc tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về hoạt động PBXH cần được quan tâm, chú trọng.

Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, khi tiếp cận với những thông tin, tài liệu, nhất là những nội dung thuộc quan điểm về các vấn đề hệ trọng, nhạy cảm của đất nước tán phát trên MXH, cần phải tỉnh táo nhận diện đâu là thông tin tốt, đâu là thông tin xấu, đâu là thông tin có cơ sở khách quan, đâu là thông tin xuyên tạc. Nâng cao hiểu biết, tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết là cách tốt nhất để mỗi người nâng cao “sức đề kháng”, tránh bị cuốn theo những giọng điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch.

Hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước của các tổ chức “xã hội dân sự”

Hiện nay ở nước ta, bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, còn có một loại tổ chức tự xưng dưới danh nghĩa là “xã hội dân sự”(XHDS). Mặc dù có những đóng góp nhất định trong hoạt động xã hội, nhưng nhiều tổ chức có hoạt động trái phép hoặc bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước.

Có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng  chung nhất  của XHDS hoạt động trong lĩnh vực xã hội là theo tôn chỉ tự nguyện, phi lợi nhuận, không ràng buộc bởi nhà nước. Tên gọi có thể là nhóm, hội, tổ chức, câu lạc bộ hoặc tổ chức phi chính phủ (NGO). Mặt tích cực của XHDS là có những hoạt động thúc đẩy kỹ năng, kiến thức cho cộng đồng, góp phần hữu ích cho xã hội khi Nhà nước chưa thể với tới. Tuy nhiên, nhiều tổ chức về danh nghĩa cương lĩnh, điều lệ không chống Nhà nước nhưng lại có xu thế phản kháng, làm trái hoặc được bên ngoài lợi dụng hoạt động chống đối. Nhiều tổ chức hoạt động chống phá dưới hình thức “phản biện”, “nghiên cứu phát triển” và có những hội công khai chống đối.

Nhìn ra thế giới trong những năm gần đây, để nhận rõ hơn bản chất của các tổ chức XHDS. Đầu năm  2011, chính biến nổ ra ở Bắc Phi, Trung Đông, bắt đầu từ Tuynidi, lan sang Ai Cập, Li Bi cho đến Syria đều có vai trò thúc đẩy sụp đổ các chính phủ, do NGO của một số nước tiến hành. Các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội cùng với các tổ chức dân sự đã đưa ra nhiều phương thức khác nhau nhằm kích động, dẫn dắt những cuộc biểu tình đường phố, trở thành những làn sóng bạo loạn. Bắt đầu là biểu tình nhỏ, từ một vài nhóm người có bức xúc, dần dần được tác động từ bên ngoài thông qua NGO nội địa đã tập hợp hàng chục ngàn người tham gia. Ở Ukraina trước đây, với gần 200 tổ chức XHDS đã trở thành lực lượng nòng cốt kích động quần chúng gây nên những cuộc bạo loạn đường phố, tạo nên “cách mạng màu cam”.

Nhiều năm qua, các tổ chức XHDS ở nước ta đã lợi dụng hoặc dựa bên ngoài để hoạt động chống phá như đã làm ở nhiều nước. Đặc điểm chung nhất là các tổ chức dạng này không xin phép thành lập, tập hợp những người có tư tưởng chống đối hoặc dưới danh nghĩa phản biện. Ban đầu là đề cao vai trò “phản biện”, triệt để lợi dụng tính đa dạng hoạt động nhiều mặt nhằm hình thành nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Từ đa nguyên tư tưởng hình thành đa nguyên chính trị và sau cùng là hình thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng. Nhiều hội được hình thành với hình thức đa dạng để tạo tiền đề cho bầu cử dân chủ, công khai cạnh tranh với Đảng khi có điều kiện. Mục tiêu mà các tổ chức XHDS hướng đến là những người “bất đồng chính kiến”, cơ hội chính trị, người có quan điểm trái chiều hoặc thiếu nhận thức. Dưới danh nghĩa “phản biện”, “góp ý” bằng “thỉnh nguyện”, “ thư ngỏ” đòi thay đổi Hiến pháp, xóa bỏ vai trò của Đảng Cộng sản, đổi tên nước, từ bỏ con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và tổ chức các cuộc biểu tình biến tướng.

Nhiều tổ chức trong nước có mối liên hệ và được bên ngoài tài trợ kinh phí đã thường xuyên tổ chức các hoạt động trái phép, chống đối. Vào những dịp có sự kiện lớn của đất nước hoặc khi đồng bọn bị bắt, chúng lại rộ lên những “chiến dịch” phản ứng quyết liệt, đòi nhà nước trả tự do không điều kiện cho “các nhà dân chủ” mà chúng gọi là “tù nhân lương tâm”. Dưới danh nghĩa “yêu nước”, “bảo vệ biển đảo”, nhiều tổ chức đã tập hợp lực lượng biểu tình ở các đô thị dưới chiêu bài “bất bạo động”, “ôn hòa”. Mục đích là lôi kéo đông người, thăm dò phản ứng của chính quyền, mặt khác quay phim, chụp ảnh gửi ra bên ngoài để khuếch trương, xin tài trợ. Không ít kẻ cầm đầu khi bị bắt đã thừa nhận nhiều lần nhận những khoản tiền lớn, thực chất là cách “trả công” hay “nhuận bút” của các tổ chức bên ngoài.

Nhóm “Đồng thuận” ở xã Đồng Tâm (Hà Nội) quan hệ với các tổ chức dân chủ không những gây rối, tạo sức ép mà còn dùng tiền được tài trợ để lôi kéo lực lượng, mua sắm vũ khí chống lại chính quyền.

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: Công dân có quyền được “hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Nghị định 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ “Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội” đã nêu điều kiện thành lập hội là phải “có mục đích không trái pháp luật”. Như vậy, các tổ chức không phải do Nhà nước lập ra đều phải tuân thủ  quy định của pháp luật, không thể tự ý tuyên bố thành lập, hoạt động trái phép.

Các hội mang tính chất XHDS không tuân thủ quy định là mầm mống của các tổ chức đối trọng, là cơ sở xã hội cho các thế lực thù địch lợi dụng làm chỗ dựa cho hoạt động chống Đảng, Nhà nước. Bài học về sự hữu khuynh của các quốc gia bị lật đổ, chuyển hóa trong những năm qua đang là bài học rút ra cho chúng ta.

Trong tình hình hiện nay, các thế lực chống đối đang tích cực lợi dụng tự do, dân chủ, thành lập các nhóm hội trái phép dưới danh nghĩa  XHDS. Cần nhận diện đúng tổ chức dạng này, xử lý nghiêm minh, không để phát triển trở thành tổ chức đối trọng với Đảng,  làm mất ổn định xã hội.

Hình phạt thích đáng cho hành vi tuyên truyền thông tin chống phá Nhà nước

Ngày 28/10, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Quốc Khánh về tội "Tuyên truyền thông tin nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Trần Quốc Khánh, sinh năm 1960, quê quán ở xã Lưu Phương, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; đăng ký thường trú tại P.307, nhà Z8, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Trình độ học vấn 10/10.

Trong thời gian từ 19/9/2019 đến 04/01/2021, Trần Quốc Khánh đã sử dụng tài khoản Facebook "Trần Quốc Khánh" và trang Fanpage "Tiếng Nói Công Dân" của mình, để phát trực tiếp 22 video có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc, bịa đặt, quy chụp chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bịa đặt, nói xấu, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, tam quyền phân lập, chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 

Tại phiên tòa, ban đầu Trần Quốc Khánh còn cứng đầu, quanh co chối tội. Nhưng trước những chứng cứ không thể chối cãi, Trần Quốc Khánh đã phải cúi đầu nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt. 

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, Tòa án nhân dân tỉnh tuyên phạt bị cáo Trần Quốc Khánh 6 năm 6 tháng tù; ngoài ra, bị cáo phải chịu quản chế 2 năm tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù. 

Những dấu ấn kinh tế nổi bật của Việt Nam

Trong bài viết điểm lại những dấu ấn kinh tế nổi bật của Việt Nam trong năm 2021, hãng tin Nga Sputnik nhấn mạnh rằng, với nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng nể qua các giai đoạn khủng hoảng, mới nhất là đại dịch Covid-19.

Sputnik nhận định: Làn sóng Covid-19 thứ tư đã “phủ bóng đen” lên tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam, với hàng loạt tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội kéo dài và trên diện rộng, các doanh nghiệp đối mặt nhiều khó khăn, khi chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy. Tuy nhiên, nổi lên là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế thế giới ảm đạm, Việt Nam vẫn đạt và vượt một số chỉ tiêu kinh tế. Đặc biệt, với mức tăng trưởng GDP hơn 2%, thương mại 22,4%, Việt Nam lọt vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài duy trì đà tăng, nhờ môi trường đầu tư an toàn và ổn định dù trong bối cảnh đại dịch.

Theo Sputnik, đây là kết quả của quyết tâm và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các thành phần kinh tế trong việc triển khai nhanh chóng và linh hoạt các chính sách quan trọng, thực hiện mục tiêu kép, vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế. Sự bứt phá của nền kinh tế trong đại dịch có được cũng xuất phát từ một loạt nghị quyết, chính sách “chưa có tiền lệ” trong phòng, chống dịch Covid-19. Đặc biệt là nghị quyết của Quốc hội giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định và tổ chức thực hiện một số biện pháp chưa được quy định, hoặc khác với quy định trong các luật, pháp lệnh hiện hành, để đáp ứng yêu cầu cấp bách về phòng, chống dịch Covid-19; nghị quyết của Chính phủ mở đường cho các bộ, ngành, địa phương chủ động các biện pháp chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng do dịch bệnh...

Năm 2021 ghi dấu mốc 15 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bứt phá với mức tăng trưởng ấn tượng, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2021 tăng hơn bảy lần so mức năm 2006, Việt Nam được công nhận là một trong số 50 nền kinh tế thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới. Hàng chục hiệp định thương mại tự do có hiệu lực và đang được đàm phán đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế có độ mở cao.

Trong bài viết, Sputnik cũng dẫn các kết quả xếp hạng, bình chọn của nhiều tổ chức quốc tế, đánh giá rất cao về nền kinh tế Việt Nam. Vị trí của Việt Nam được cải thiện mạnh mẽ trong Báo cáo chỉ số “quyền lực mềm toàn cầu” năm 2021, do Brand Finance công bố, từ hạng 50/60 lên 47/105 quốc gia được xếp hạng. Việt Nam lọt tốp 10 thị trường đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số thị trường logistics mới nổi toàn cầu năm 2021, do hãng Agility chuyên cung cấp dịch vụ kho vận hàng đầu thế giới bình chọn. Thị trường chứng khoán Việt Nam lập kỷ lục chưa từng có về điểm số, thanh khoản và số tài khoản mới trong năm 2021.

Bài viết của Sputnik nêu rõ, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết về kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, trong đó nhấn mạnh mục tiêu hình thành cơ cấu hợp lý và hiệu quả, phát triển nhiều sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và tạo xung lực bứt phá về cạnh tranh của một số ngành kinh tế chủ lực, nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chọi của nền kinh tế. Việt Nam cũng đã cam kết đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, khẳng định là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Nguồn: Báo Nhân dân

WHO cảnh báo Omicron gây quá tải hệ thống y tế

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 28/12 cảnh báo Omicron có thể dẫn tới quá tải hệ thống chăm sóc sức khỏe dù các nghiên cứu ban đầu cho thấy biến chủng này gây bệnh nhẹ hơn.

“Sự lây lan nhanh của biến chủng Omicron vẫn sẽ dẫn đến số lượng lớn ca nhập viện, đặc biệt ở người chưa tiêm vaccine, và gây ra sự gián đoạn trên diện rộng đối với hệ thống y tế và các dịch vụ quan trọng khác", bà Catherine Smallwood - quan chức cấp cao thuộc WHO khu vực châu Âu - cho biết.

Lời cảnh báo được đưa ra giữa lúc hàng loạt nước trên thế giới công bố ca nhiễm mới kỷ lục trong 24 giờ qua, bao gồm Mỹ, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha…

Mỹ công bố 512.553 ca nhiễm mới trong ngày 28/12, con số cao nhất kể từ đầu đại dịch và cao hơn đáng kể so với lục trước đó ghi nhận vào ngày 8/1 với 294.015 ca mắc, theo dữ liệu Đại học Johns Hopkins.

Trong khi đó, để giảm bớt tác động kinh tế giữa lúc Omicron khiến nhiều lao động Mỹ nghỉ ốm, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã giảm một nửa thời gian cách ly với những ca không triệu chứng.

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) ngày 27/12 đã rút ngắn thời gian đề xuất cách ly những người nhiễm virus SARS-CoV-2 từ 10 ngày xuống chỉ còn 5 ngày.

Theo đó, người mắc Covid-19 được đề xuất giảm thời gian cách ly trong trường hợp không có triệu chứng và đảm bảo sẽ đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người khác thêm 5 ngày sau đó.

Vương quốc Anh cũng công bố kỷ lục 129.471 ca mắc Covid-19 trong ngày 28/12, dù mới chỉ tổng hợp dữ liệu ca nhiễm ở Anh và xứ Wales, chưa bao gồm dữ liệu ở Scotland và Bắc Ireland.

Tại Pháp, 179.807 ca nhiễm mới được ghi nhận trong 24 giờ qua, đánh dấu ngày có số trường hợp nhiễm mới cao chưa từng thấy. Kỷ lục trước đó là 104.611 ca nhiễm mới ghi nhận vào ngày 25/12.

Giới chức trách nước này đã yêu cầu các công ty phải cho nhân viên làm việc từ xa ít nhất 3 ngày/tuần.

Tại châu Á, Trung Quốc dù đối mặt với đợt bùng dịch nhỏ hơn so với các điểm nóng toàn cầu khác, nước này vẫn không nới lỏng chiến lược "Zero Covid-19", áp đặt phong tỏa cục bộ nhiều khu vực ở thành phố Diên An hôm 28/12.

Hàng trăm nghìn cư dân Diên An bị ảnh hưởng bởi lệnh phong tỏa mới nói trên trong khi 13 triệu người dân thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây đã trải qua lệnh phong tỏa kéo dài tới ngày thứ 6, trong bối cảnh Trung Quốc chống chọi với đợt bùng dịch mới đưa số ca nhiễm hàng ngày lên mức cao nhất trong 21 tháng.

Phạm Thị Đoan Trang lĩnh án 9 năm tù về tội chống phá Nhà nước

Ngày 14-12, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang, sinh năm 1978, trú tại phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội theo quy định tại Điều 88, khoản 1, điểm a, b, c – Bộ luật Hình sự năm 1999.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 16-11-2017 đến ngày 5-12-2018, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngoài ra, bị cáo Đoan Trang còn trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân.

Cụ thể, bị cáo Đoan Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu: "Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam"; "Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam"; "Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam".

Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội xác định, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền "luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Hội đồng xét xử xác định, hành vi của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, xã hội, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân.

Bản thân bị cáo là người có trình độ nhận thức nhất định, bị cáo hiểu và biết rõ hậu quả hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn tích cực thực hiện trong một thời gian dài, do vậy cần phải xử phạt nghiêm minh.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo Phạm Thị Đoan Trang khai báo không thành khẩn, phạm tội nhiều lần nên quyết định áp dụng hình phạt tù với thời hạn nhất định mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

Hai bị cáo lợi dụng sự việc ở Đồng Tâm chống phá Nhà nước lĩnh án 16 năm tù

Ngày 15-12, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên xét xử sơ thẩm đối với Trịnh Bá Phương và Nguyễn Thị Tâm về tội chống phá Nhà nước.

Theo đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên phạt 2 bị cáo: Trịnh Bá Phương, sinh năm 1985 10 năm tù và Nguyễn Thị Tâm, sinh năm 1972 (cả hai cùng trú tại phường Dương Nội, quận Hà Đông, Hà Nội) 6 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117-Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ngoài hình phạt tù, Tòa còn tuyên phạt quản chế bị cáo Phương 5 năm, quản chế bị cáo Tâm 3 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, vào các ngày 9, 10, 11-1-2020, lực lượng quân đội thực hiện xây dựng tường rào bảo vệ sân bay Miếu Môn và Công an thành phố Hà Nội thực hiện công tác bảo vệ an ninh trật tự tại địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

Lợi dụng mạng xã hội Facebook, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm đã thực hiện việc phát trực tiếp các video, đăng tải các bài viết, trạng thái, chia sẻ trên tài khoản cá nhân “Trịnh Bá Phương”, “Nguyễn Thị Tâm”, “Tâm Dương Nội” các nội dung liên quan đến sự việc ở xã Đồng Tâm.

Những thông tin và nội dung phát tán, chia sẻ này đã xuyên tạc, bịa đặt tình hình diễn ra tại Đồng Tâm, phỉ báng chính quyền nhân dân, kích động nhân dân chống đối chính quyền, thóa mạ, hạ uy tín lực lượng chức năng, xúc phạm uy tín danh dự của người khác, gây hoang mang trong nhân dân, nhằm mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Các thông tin và nội dung phát tán của Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm đã thu hút nhiều lượt người xem, tương tác, chia sẻ, bình luận có nội dung tiêu cực, phản đối chính quyền, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước.

Ngoài ra, Trịnh Bá Phương còn có hành vi tàng trữ 1 tài liệu dạng sách gồm 278 trang, trong đó trang bìa có in các dòng chữ “Phạm Đoan Trang”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Luật Khoa tạp chí”.

Qua giám định đã kết luận tài liệu này có nội dung tuyên truyền thông tin xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.

Hội đồng xét xử nhận định, hành vi của các bị cáo gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; đe dọa phá vỡ sự vững mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gây ảnh hưởng đến uy tín và sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức và cá nhân; gây ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội, chính trị của Nhà nước và từng địa phương.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Tâm đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Trịnh Bá Phương không khai nhận hành vi phạm tội, không thành khẩn, chống đối. Ngoài hình phạt chính, căn cứ quy định tại các Điều 43 và Điều 122 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là quản chế các bị cáo một thời gian sau khi chấp hành xong hình phạt tù.


Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021

Báo cáo nhân quyền của EEAS chưa khách quan về Việt Nam

Trong khuôn khổ buổi họp báo thường kỳ diễn ra ngày 24/6, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã đưa ra những bình luận liên quan đến Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới 2020 của Cơ quan Đối ngoại EU (EEAS).

"Chúng tôi ghi nhận những đánh giá về thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ quyền lao động, chống lao động trẻ em và thúc đẩy bình đẳng giới trong Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới năm 2020 của Cơ quan Đối ngoại EU. Rất tiếc báo cáo vẫn còn một số nội dung chưa khách quan dựa trên những thông tin không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam", bà Lê Thị Thu Hằng bày tỏ. 

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho rằng báo cáo của EEAS vẫn còn một số nội dung chưa khách quan dựa trên những thông tin không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam.

Trên thực tế, như đã nhiều lần khẳng định, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người. Điều này đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013, các văn bản pháp luật liên quan và được tôn trọng, triển khai trên thực tế, được khẳng định qua các thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế, công tác phòng chống đại dịch COVID-19 hiện nay. Các nỗ lực và thành công đó cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong nhiều khuôn khổ song phương và đa phương, như Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Theo bà Lê Thị Thu Hằng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin ở Việt Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của báo chí Việt Nam và thực tế hơn 70% dân số Việt Nam sử dụng mạng Internet và mạng xã hội quốc tế và trong nước.

"Tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử chỉ vì “bày tỏ chính kiến”, “bảo vệ nhân quyền”. Như các quốc gia khác, Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Quá trình điều tra, xét xử và giam giữ được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật; quyền của người bị giam giữ được bảo đảm", bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng khẳng định, Việt Nam coi trọng quan hệ Đối tác Hợp tác Toàn diện với EU. Việt Nam sẵn sàng trao đổi, hợp tác với EU trong vấn đề quyền con người trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thông qua cơ chế đối thoại nhân quyền thường niên và các khuôn khổ trao đổi song phương khác.

Việt Nam hiện thực hóa quyền con người bằng nhiều chính sách thiết thực

 Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai các biện pháp đồng bộ, ưu tiên dành nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Các thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội và việc tăng cường hội nhập quốc tế đã tạo ra các điều kiện vật chất và nguồn lực để Việt Nam bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân.

Cho đến nay, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế, khu vực, đa phương và song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG).

Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Việt Nam cũng nhanh chóng đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng là quyền được sống của người dân; đồng thời thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tác động của dịch đối với nền kinh tế, duy trì và phục hồi sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là những người dễ bị tổn thương.

Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã thông qua 36 luật, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, góp phần cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Bộ luật Lao động, Luật Thanh niên, Luật Cư trú, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Thư viện... Các luật này đã góp phần kiến tạo thể chế, khung pháp lý điều chỉnh trên lĩnh vực kinh tế-xã hội có liên quan trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của người dân.

Thực hiện một số khuyến nghị theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi, bổ sung một số Luật phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc sửa đổi Luật Trẻ em, cụ thể là định nghĩa trẻ em là người dưới 18 tuổi, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại dâm, quy định cụ thể định nghĩa quấy rối tình dục trong Bộ luật Lao động 2019...

Nhiều Chương trình hành động cấp quốc gia được ban hành như Chương trình hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2021-2030, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, Chương trình bảo vệ trẻ em trên không gian mạng và Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, Chương trình phát triển xã hội giai đoạn 2021-2030…, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam đang tiếp tục triển khai Luật Bình đẳng giới, Luật Người khuyết tật và tích cực nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về các vấn đề này.

Việc bảo đảm các quyền con người của Việt Nam được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam hiện là thành viên của 7/9 Công ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Việt Nam cũng là thành viên của 25 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế, trong đó có 7/8 Công ước cơ bản; đang nghiên cứu phê chuẩn Công ước cơ bản còn lại là Công ước 87 về Quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức. Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết nghĩa vụ theo các công ước này, trong đó có nghĩa vụ báo cáo tình hình thực thi các Công ước tại Việt Nam.

Nỗ lực trong phát triển kinh tế và bảo đảm sinh kế, tạo nền tảng cho việc thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho người dân, Việt Nam đã tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 đã có những kết quả tích cực như tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 2,75%, bình quân trong 5 năm giai đoạn giảm khoảng 1,43%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 24%, bình quân trong 5 năm giảm 5,65%. Trong thời kỳ đại dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động; chủ trương bảo đảm tiêm vaccine phòng COVID-19 miễn phí cho người dân theo các đối tượng ưu tiên mà WHO khuyến nghị.

Về giáo dục, tại Việt Nam, người dân được tạo điều kiện để học liên tục mọi nơi, học suốt đời theo nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, trong giai đoạn 2012-2020 đã xóa mù chữ cho 295.308 người trong độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-35 là 99,3%. Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho các nhóm yếu thế, trong đó tập trung hỗ trợ học sinh vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, việc tiếp cận thông tin của người dân ngày càng được phát triển, rộng mở, đặc biệt là người dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.

Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Mạng lưới viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa và phát triển rộng khắp với mức phủ sóng đạt 99,7% dân số, trong đó mạng 3G và 4G phục vụ 98% dân số. Theo báo cáo xếp hạng An toàn an ninh mạng toàn cầu (GCI) năm 2020 do ITU công bố mới đây, Việt Nam đã tăng 25 bậc trong 2 năm, vươn lên vị trí thứ 25 trong tổng số 194 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 7 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thứ 4 trong khu vực ASEAN.

Trong lĩnh vực tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và có hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung độc lập được đăng ký sinh hoạt tôn giáo (trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam).

Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước hiện có 50.703 cơ sở tín ngưỡng; có 29.801 cơ sở tôn giáo, 53.390 chức sắc, 95.360 chức việc; 40.075 người vừa là chức sắc, vừa là chức việc tại 62/63 tỉnh, thành phố và 26.548.509 tín đồ. Việt Nam hiện có 63 cơ sở giáo dục, đào tạo tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo với hơn 18.000 học viên đăng ký theo học các khóa đào tạo tôn giáo mỗi năm. Năm 2020 có khoảng 230 cơ sở thờ tự được xây mới, 308 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa...

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm

Nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng mở ra giai đoạn phát triển mới, trong bối cảnh đất nước tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Tại Hội nghị lần thứ 4 vừa qua, Trung ương nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới.

 Với Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Trung ương đặt ra yêu cầu tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa năm nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trong đó, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên sai phạm là giải pháp căn cơ, nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, cảnh báo, răn đe, phòng ngừa sai phạm.

 Kế thừa thành quả của nhiệm kỳ qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Kết luận số 21 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp tiếp tục phát huy vai trò, vị trí, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên; tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và có nhiều khiếu kiện, khiếu kiện kéo dài; chú trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh vi phạm từ khi mới phát sinh... 

Thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát thời gian qua cho thấy, có nhiều sai phạm, tiêu cực xảy ra trong một số lĩnh vực khó, mới đối với công tác kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, với quyết tâm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đội ngũ những người làm công tác kiểm tra đã hoàn thành không ít việc khó, chưa có tiền lệ.

Bài học kinh nghiệm được chia sẻ, đó là tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm, kết hợp kiểm tra thường xuyên với kiểm tra dấu hiệu vi phạm, giám sát chuyên đề; làm bài bản, chặt chẽ, khoa học, đến đâu chắc đến đó, phát hiện sớm, xử lý từ đầu không để tích tụ thành sai phạm lớn, ngăn ngừa vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người…

Nhiều văn bản chỉ đạo của Đảng đã nêu rõ, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan, đơn vị phải gương mẫu thực hiện và có trách nhiệm chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chủ động tự phát hiện vụ việc, dấu hiệu vi phạm trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình.

Kết quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng chính là thước đo, đánh giá phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu. Theo Kết luận số 21, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực phải bắt đầu từ nhận thức, trách nhiệm cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Theo đó, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát người đứng đầu thực hiện trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; trách nhiệm nêu gương…

Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp; thực hiện nghiêm chế độ tiếp dân, đối thoại trực tiếp và xử lý kiến nghị, phản ánh của người dân. Qua đó, nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế được phát hiện sớm, đẩy nhanh điều tra, truy tố, xét xử, xử lý nghiêm minh. Nhiệm kỳ qua, ngành Thanh tra của tỉnh tiến hành hơn 500 cuộc, phát hiện nhiều sai phạm về kinh tế, kiến nghị thu hồi hơn 39 tỷ đồng, đã thu hồi hơn 80%; kiến nghị chuyển cơ quan cảnh sát điều tra làm rõ 6 vụ việc có dấu hiệu tội phạm về kinh tế. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 23 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước…

Thực tế cho thấy, ở đâu người đứng đầu nêu gương, tự tu dưỡng, rèn luyện tác phong, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương; chỉ đạo và quyết tâm tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; duy trì hiệu quả hoạt động đối thoại với công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thì ở đó, tình hình ổn định, thúc đẩy hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả, củng cố lòng tin của nhân dân và nâng cao vị thế, uy tín người đứng đầu.

Văn hoá gắn liền với tồn vong của dân tộc

Bất cứ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới nào từ ngàn xưa tới nay đều quan tâm đến văn hoá của riêng và của chung nhân loại. Việt Nam chúng ta có hay không, văn hoá của người Việt xưa và nay có gì khác biệt cũng là một câu hỏi lớn mà các nhà văn hoá, các học giả, người dân và Nhà nước đã và đang đặt ra.

Sau 75 năm Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946) và 73 năm Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948), ngày 24-11-2021 Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các ban, bộ ngành tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ ba để triển khai những định hướng lớn về văn hóa do Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra. 

Văn hoá đi liền với nhân loại, khi nhân loại xuất hiện trên hành tinh này mặc nhiên văn hoá song hành. Văn hoá để truyền tải suy nghĩ, hành động có ý thức hay vô thức giữa người với người, với vạn vật xung quanh.

Văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc sẽ nói lên, thể hiện đẳng cấp của quốc gia ấy ở cấp độ nào trên thế giới. Thế giới phẳng càng lộ rõ những phần lồi, phần lõm và sự yếu kém văn hoá của quốc gia đó.

Phải khẳng định rằng văn hoá cực kỳ quan trọng với bất cứ cộng đồng, sắc tộc nào đã và đang tồn tại trên thế giới. Văn hoá giúp cho sắc tộc đó, dân tộc đó, đất nước đó phát triển tốt hay không, văn minh hay lạc hậu...

Phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, sự quan tâm đến văn hoá của Việt Nam có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Lâu nay chúng ta tập trung quá nhiều về kinh tế, về thể chế chính trị mà sao nhãng lĩnh vực văn hoá. Đã 75 năm qua đi, chúng ta mới tổ chức một Hội nghị Văn hoá với quy mô toàn quốc (năm 1948 chúng ta tổ chức Hội nghị Văn hóa lần thứ hai ở chiến khu). Nền văn hoá không được quan tâm, coi trọng đúng mức nên để lại hậu quả vô cùng đáng lo ngại cho xã hội. Văn hoá, đạo đức thiếu chuẩn mực, thông tin trên báo chí chính thống và mạng xã hội nhiều khi cổ súy cho những hành động và việc làm thiếu văn hoá, không hướng tới chân - thiện - mỹ sẽ gây hiệu ứng xấu, phản tác dụng trong môi trường xã hội giáo dục lớp trẻ. Báo chí truyền thông là những cơ quan chính thống để truyền tải văn hoá đến người dân nhiều khi lại đưa tin không kiểm chứng, không khách quan và thiếu chính xác tạo điều kiện cho các trang mạng xã hội ăn theo, bóp méo, thổi phồng, tung tin giả nhưng tác hại thật, gây hoang mang dư luận đến cuộc sống của nhân dân.

Bác Hồ đã nói "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi" là câu nói không chỉ đúng với Việt Nam mà còn đúng với tất cả các nước trên thế giới. Nhưng triển khai và kết quả được nhiều hay ít lại do sức mạnh nội sinh của quốc gia đó, do cơ quan chủ quản có làm tốt được nhiệm vụ của mình hay không.

Việt Nam tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thành phần tham dự là những vị lãnh đạo quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội; các nhân sỹ trí thức trong nước và kiều bào. Hội nghị này do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chủ trì và phát biểu ý kiến chỉ đạo. 

Đứng ở góc độ khách quan mà nói, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cực kỳ quan trọng cho việc bảo tồn và chấn hưng nền văn hoá của Việt Nam. Bài phát biểu đã nêu rõ những tồn tại, yếu kém của văn hoá Việt nói chung và trách nhiệm của những người làm văn hoá. Nhiều giá trị văn hoá là cốt lõi, là hồn cốt của dân tôc, của đất nước bị mai một, bị lai căng và thiếu chuẩn mực. Tổng Bí thư đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp của các di tích lịch sử ngàn năm có một của đất nước có hơn bốn nghìn năm lịch sử. Sự suy đồi văn hoá khi con người tận dụng triệt để các di sản văn hoá phi vật thể và vật thể để thương mại hoá, để kiếm tiền bất chính.

Văn hoá chính là bản sắc của dân tộc, văn hoá hun đúc nên tư tưởng của mỗi người từ tấm bé đến khi trưởng thành và phát triển. Đất nước có văn hoá thì mặc nhiên con người có văn hoá bởi con người là chủ thể, con người là kế thừa và phát triển đưa văn hoá nội tại lên tầm cao mới, lan toả ra thế giới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi phát biểu về văn hoá trong thời kỳ hiện nay, ông trăn trở bởi văn hoá xuống cấp, có hiện tượng không ít cán bộ, đảng viên là những người lãnh đạo nhân dân, đất nước nhưng đã vi phạm pháp luật, đã tham ô, tham nhũng, tha hoá, biến chất. Bởi họ là những kẻ thiếu văn hoá, là những kẻ chạy chức, chạy quyền.

Văn hoá đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đời thường cũng như trong sự phát triển kinh tế, chính trị. Nhưng chúng ta đã lãng quên văn hoá một thời gian rất dài, bây giờ cần phải làm lại, làm ngay, làm luôn để phát triển văn hoá lên tầm cao mới ngang bằng với phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý là phải: Xác định được căn cơ cội nguồn của văn hoá Việt Nam; Định hướng bằng văn bản pháp quy có pháp lý cao nhất để cho các cơ quan, đơn vị và người dân thực hiện; Giải pháp nào hữu hiệu nhất để ngăn chặn những kẻ thiếu văn hoá lợi dụng để trục lợi; Việc quản lý văn hoá là chủ trương đúng, nhưng văn hoá là vô hình nhưng lại hữu hình nếu muốn “quản” thì phải có “lý” và hợp lòng dân.

Sau Hội nghị này, hệ văn hoá đa dạng của Việt Nam hy vọng sang trang mới, hy vọng có cách nhìn và cách tiếp cận mới, mang lại cho đất nước, dân tộc niềm tin mới và tương lai mới tốt đẹp hơn như mong muốn của hơn 98 triệu người dân đất Việt và Tổng Bí thư Nguyến Phú Trọng đã nêu trong Hội nghị.

                                                                                        Doanh nhân Nguyễn Hoài Bắc

                                                                                             Việt kiều Ca-na-đa

Nguồn: http://www.xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2021/16147/Van-hoa-gan-lien-voi-ton-vong-cua-dan-toc.aspx   

 

Mô hình KTTT định hướng XHCN đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng khách quan, khoa học, sáng tạo

Chủ trương phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được Đảng ta chính thức đưa ra tại Đại hội IX (2001). Mô hình KTTT định hướng XHCN đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền tảng tư tưởng phát triển của đất nước, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trò con người chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển.

Các thế lực thù địch, phản động tăng cường công kích, xuyên tạc, phủ nhận các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng qua các Đại hội với các luận điệu sau: 1) Xuyên tạc, bác bỏ định hướng XHCN của Việt Nam. Những nhóm này cho rằng phát triển KTTT thì không thể xây dựng CNXH, chủ trương gắn KTTT với định hướng XHCN là không có cơ sở, bởi chúng đối lập nhau như nước với lửa, không thể dung hòa. 2) Nhiều luận điệu phê phán quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế diễn ra không thực chất, chưa đạt nhiều kết quả, chỉ mang tính hình thức, cơ cấu kinh tế nước ta đang tỏ ra lạc hậu so với các nước khác. 3) Phủ nhận những nỗ lực thực hiện PTBV, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường của đất nước, ra sức lôi kéo các cộng đồng dân tộc thiểu số, các nhóm dễ bị tổn thương để phản đối, kích động biểu tình, ngăn cản các chính sách PTBV của Đảng và Nhà nước ta. 4) Tranh thủ những ý kiến nghi ngại về khả năng thích ứng của Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng để tìm cách chống phá, cản trở những nỗ lực hội nhập phục vụ phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những quan điểm, luận điểm này bộc lộ dã tâm, mưu đồ xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng. Những lý lẽ đưa ra có thể thấy là những quan điểm, lập luận hết sức phiến diện và phi khoa học, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phân tích, đánh giá. Thực tế cho thấy:

Thứ nhất, cần khẳng định KTTT là sản phẩm của nhân loại, được hình thành, phát triển gắn liền với quá trình xã hội hóa sản xuất, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Thực tiễn kể từ khi bắt đầu quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế những năm 1990 và đặc biệt cho đến những năm gần đây Đảng và Nhà nước đẩy mạnh chủ trương phát triển KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từng bước được cải thiện, đạt mức tăng khá cao trong bối cảnh nền kinh tế thế giới trì trệ. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt gần 2.800USD trong năm 2019, tăng 28 lần so với mức GDP bình quân đầu người năm 1990 (khoảng gần 100 USD). Định hướng XHCN đã tiếp tục chứng minh tính đúng đắn và ưu việt của mình thông qua đại dịch Covid-19, Đảng và Nhà nước ta đã làm rất tốt mục tiêu kép vừa ra sức chống dịch, vừa duy trì phục hồi và phát triển kinh tế, qua đó giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ nền tảng chính trị tốt đẹp cũng như những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đã đạt được thời gian qua. Do vậy, điều quan trọng nhất là kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh, đời sống con người phát triển và từng bước vươn lên ngang tầm với các nước phát triển trên thế giới. Đối chiếu với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam, có thể thấy việc Đảng ta lựa chọn mô hình “KTTT định hướng XHCN” là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, thể hiện sự khoa học và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển thời đại và yêu cầu phát triển đất nước đặt ra.

Thứ hai, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam, nhất là trong 5 năm trở lại đây, đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực và thực chất, thể hiện tính đúng đắn trong chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế. Quyết tâm đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu gắn với năng suất lao động, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong những kỳ Đại hội gần đây. Thành quả cho sự quyết tâm đó thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt mức 6,7% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 5,9%/năm của giai đoạn 2011-2015), đạt mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Cùng với đó, mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt gần 44,5%, cao hơn nhiều so với mức 33,6% của giai đoạn 2011-2015. Tỷ trọng giữa các ngành đã có sự chuyển biến đáng kể, theo hướng giảm tỷ trọng các ngành nông lâm thủy sản, tăng tỷ trọng trong công nghiệp - xây dựng, duy trì tỷ trọng ngành dịch vụ luôn ở mức cao (dao động trong khoảng 40%) trong tổng cơ cấu GDP. Mặc dù còn một vài hạn chế, nhưng có thể khẳng định rằng những kết quả đối mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam thời gian qua là rất đáng ghi nhận, thể hiện sự đúng đắn trong tư duy, định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ ba, là một trong những quốc gia được dự báo sẽ chịu tác động tiêu cực nhất từ biến đổi khí hậu, PTBV đã trở thành nội dung quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, PTBV của Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực: Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,5%/năm giai đoạn 2016-2019, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ khoảng 75% năm 2015 lên 90% năm 2019, tỷ lệ học sinh được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học xấp xỉ 100%, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (nhiệm kỳ 2016-2021) là khoảng 25%. Ngoài ra, hơn 99% các hộ gia đình Việt Nam đã được tiếp cận với điện năm 2019, tỷ lệ dân số sử dụng in-tơ-nét là xấp xỉ 66%. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII (2021) của Đảng khi đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã trình bày 5 quan điểm phát triển: 1) Phát triển nhanh và bền vững. 2) Về thể chế phát triển. 3) Về nguồn lực con người. 4) Về xây dựng nền kinh tế, tự chủ. 5) Về sức mạnh tổng hợp quốc gia trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những thành tựu PTBV mà nước ta đã đạt được thời gian qua cho thấy, những chủ trương, định hướng của Đảng về PTBV đóng vai trò rất quan trọng, nó khẳng định đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước là đúng đắn. Đồng thời, là cơ sở vững chắc để củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, qua đó làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong tiến trình đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN của Đảng và nhân dân ta.

Thứ tư, hội nhập và liên kết kinh tế trong kỷ nguyên mới là xu hướng tất yếu, với các liên kết kinh tế khu vực và song phương đang và sẽ tiếp tục được thúc đẩy. Những năm qua, Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh phát triển KTĐN, hội nhập kinh tế với thế giới cũng như tham gia mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới kinh tế, KTĐN Việt Nam đã từng bước khẳng định là một động lực phát triển quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng từ mức khoảng 5 tỷ USD trong năm 1990 lên gần 30 tỷ USD năm 2000, lên khoảng 160 tỷ USD năm 2010 và lên khoảng 500 tỷ USD năm 2019, với cơ cấu hàng hóa chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm xuất khẩu thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến, mang hàm lượng giá trị gia tăng cao. Là một nước có độ mở kinh tế cao (khoảng 200% GDP), Việt Nam đã và đang tham gia 17 FTA, trong đó có 2 FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang thực hiện là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó mang lại nhiều kết quả tích cực đối với Việt Nam, đóng góp vào các mục tiêu về tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu cũng như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tựu chung lại, những nỗ lực của Đảng và Nhà nước là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh mới, việc nước ta lựa chọn con đường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển KTĐN là một lựa chọn đúng đắn và sáng suốt mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, góp phần nâng cao thực lực kinh tế và thực hiện khát vọng phát triển đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.

Để đấu tranh với các thế lực sai trái, thù địch, tất cả mỗi người Việt Nam phải kiên định lập trường, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước nói chung và tư tưởng phát triển kinh tế nói riêng; rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, chuyên môn, tầm nhìn để chủ động tranh luận, đấu tranh với các quan điểm sai lầm của các đối tượng. Cần phân biệt rõ các đối tượng chính để có giải pháp, hình thức phù hợp. Đối với một số quần chúng nhân dân do hạn chế về nhận thức, ta nên kiên trì giải thích, giáo dục để họ hiểu. Đối với kiều bào ở xa đất nước nếu có người không phải chủ tâm mà do bị lôi kéo, nhận thông tin lệch chuẩn, cũng phải chú ý tiếp xúc, vận động để bà con luôn có được nguồn tin chính thức, chính xác, đồng tình, ủng hộ đối với phát triển quê hương. Đối với lực lượng thù địch, đối kháng, cần có lập luận chặt chẽ, minh chứng rõ ràng, ngôn ngữ sắc bén để phản bác, phải phân hóa đội ngũ của họ, cô lập kẻ xấu để tập trung đấu tranh. Cuối cùng cách bảo vệ đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta hiệu quả có thể nói gọn là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cốt lõi sau: 1) Triển khai thành công trong thực tiễn các nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế bền vững, hài hòa mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đất nước. 2) Thực hành rộng rãi, kiên trì việc duy trì kỷ cương phép nước, phòng, chống tham nhũng, chống quan liêu, lãng phí mạnh mẽ, tích cực hội nhập quốc tế mọi mặt kể cả kinh tế, tạo thành quốc lực ngày càng vững mạnh, trở thành quốc gia có nền kinh tế phát triển, có uy tín trên thế giới. 3) Chủ động, sáng tạo trong giải thích, thông tin, truyền thông tất cả đường lối, chính sách của Đảng để mọi công dân thấu hiểu, tự giác nâng cao nhận thức, giác ngộ trước các thủ đoạn chống phá của thế lực xấu. 4) Tích cực đấu tranh dư luận bằng các biện pháp phù hợp, kể cả trên mặt trận tư tưởng văn hóa, các diễn đàn, trên sách báo, trên các phương tiện truyền thông.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc

 Khi nói về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (tháng 2/1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn thể phong trào. Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.

Cùng với đó, “Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản” cũng ghi rõ điều kiện và tiêu chuẩn để trở thành đảng viên cộng sản, trong đó, không thể không nhắc đến các yêu cầu như thừa nhận chủ nghĩa cộng sản; không tham gia vào mọi tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc chống cộng sản; hoạt động phù hợp với mục đích của Đảng; có nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành khi tiến hành công tác tuyên truyền; giữ bí mật công việc của Đảng; được một chi bộ đồng ý kết nạp… Điều đó có nghĩa là, Đảng Cộng sản là tổ chức của những con người thực sự tiêu biểu, vượt trội về nhận thức, tư tưởng, hành động hơn quần chúng ngoài Đảng và đảng viên của Đảng Cộng sản phải là những người có đủ năng lực, phẩm chất để tuyên truyền, vận động, thuyết phục giai cấp công nhân và các tầng lớp khác tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp bóc lột.

Ở Việt Nam, được xây dựng và phát triển theo nguyên tắc một Đảng Mácxít Lêninnít chân chính, Đảng Cộng sản là một tổ chức của những con người tiên tiến nhất. Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc. Trong một chỉnh thể được tổ chức chặt chẽ, thống nhất ấy, mỗi đảng viên là một tế bào của Đảng; sinh hoạt gắn liền và chịu sự lãnh đạo, quản lý, kiểm tra của tổ chức Đảng. Để trở thành một thành viên của tổ chức ấy, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, tháng 2-1930) đã ghi rõ tại mục III: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng thời được vào Đảng”. Trong từng giai đoạn cách mạng, từng thời điểm cụ thể, căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Đảng và trình độ giác ngộ cách mạng của quần chúng, Đảng đề ra điều kiện, tiêu chuẩn đảng viên phù hợp và chặt chẽ, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Cụ thể, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại Đại hội lần thứ XI, tháng 1-2011) quy định tại mục 2, Điều 1 là: “Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”.

Từ quy định trong Điều lệ vắn tắt và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể thấy rõ rằng, người/quần chúng muốn trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam thì tất yếu phải tuân thủ những quy định, nguyên tắc và Điều lệ Đảng. Đó gọi là “tính Đảng”, đồng thời cũng chính là sự thừa nhận một cách tự nguyện và tuyệt đối trung thành với nền tảng tư tưởng của Đảng; với lý tưởng cách mạng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam mà Đảng lựa chọn. Người được kết nạp vào Đảng nhất định phải là những người ưu tú trong quần chúng; phải có giác ngộ chính trị tốt, thể hiện được tính tiên phong trong mọi lĩnh vực công tác và cuộc sống đời thường; đồng thời, có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó. Đó chính là giá trị cao quý của Đảng để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong; đồng thời cũng là giá trị của mỗi người đảng viên trong quá trình phấn đấu, trưởng thành. Điều đó cũng có nghĩa là quần chúng đã muốn/đã quyết tâm phấn đấu vào Đảng thì đều phải nhận thức sâu sắc rằng, đã "gọi là đảng viên thì phải biết rõ Đảng ta phải làm gì, vào Đảng để làm gì…Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng… Đảng không bắt buộc ai vào Đảng cả. Vào thì có nhiệm vụ, có trách nhiệm của đảng viên, nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.

Để làm tròn nhiệm vụ rất nặng nề nhưng rất vẻ vang là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh. Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”, song “Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân, Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”. Vì thế, Người yêu cầu "Đảng phải phát triển tổ chức của mình một cách thận trọng, vững chắc và rộng rãi trong quần chúng”, thông qua quá trình phát hiện, bồi dưỡng quần chúng về mọi mặt; đồng thời, các tổ chức cơ sở Đảng “cần phải xem công tác củng cố và phát triển đảng là một công tác quan trọng và thường xuyên. Và phải nắm vững phương châm phát triển Đảng là trọng chất hơn lượng” để đề phòng các phần tử thù địch, cơ hội chui vào Đảng.

Vì nghiêm túc trong công tác phát triển đảng viên và coi đó là một nội dung quan trọng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cho nên trong hơn 91 năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, phương hướng phát triển đảng viên được đẩy mạnh theo từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Theo nghị quyết các nhiệm kỳ Đại hội Đảng và kế hoạch công tác hằng năm, các cấp ủy Đảng đã căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương, cơ quan, đơn vị để tập trung phát triển Đảng toàn diện; đặc biệt, đẩy mạnh việc phát triển Đảng trong công nhân và các thành phần khác như sinh viên đang học tập tại hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các học viện, nhà trường, ở các vùng nông thôn hay tại các doanh nghiệp, trong các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và lao động tự do tại các địa phương… tự nguyện rèn luyện tư tưởng, lập trường giai cấp công nhân/mong muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng, phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cao cả của Đảng.

Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc và sức mạnh niềm tin của nhân dân trước yêu cầu mới của Đảng

Năm 2021, đánh dấu chặng đường 35 năm đổi mới của đất nước. Những thành quả đạt được từ trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước đã cho phép Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam hướng đến khát vọng lớn hơn là phồn vinh, hạnh phúc. Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc chính là sự kết tinh bản lĩnh, trí tuệ của Đảng dựa trên sự đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Đó không phải là khát vọng giản đơn, xuôi chiều, mà được bồi đắp trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng thời tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong cần phải kiên quyết khắc phục, thích ứng, vượt qua. Đó cũng là sự vận dụng phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến, nhạy bén chớp thời cơ, chủ động ứng phó với nguy cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển.

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mang sức sống hiện thực được hình thành, bồi đắp trên một cơ tầng khoa học về lộ trình hướng đích, bước đi được dự liệu rõ ràng và là sự kế thừa, hoàn thiện những mục tiêu đã được xác định từ những giai đoạn trước. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúcgắn liền với quá trình xây dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và giá trị chuẩn mực, cùng sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn liền với phát huy đồng bộ hệ động lực phát triển: Dân chủ xã hội chủ nghĩa; đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và cuộc bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp cho thấy, quần chúng nhân dân đã sẵn sàng hành trang, tâm thế để cùng Đảng, Nhà nước bước vào vận hội mới. Do vậy, để phát huy được tối đa sức mạnh niềm tin của nhân dân vào quá trình hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thiết nghĩ cần phải chú trọng đến các định hướng cụ thể sau:

Thứ nhất, cần nâng tầm và đặt đúng vai trò, vị trí của niềm tin nhân dân trong chiến lược phát triển. Phải xem sức mạnh niềm tin nhân dân là động lực của sự phát triển quốc gia. Động lực này không chỉ là kết quả từ sự kiến tạo niềm tin của nhân dân, của mỗi người lao động, của các doanh nghiệp đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí, quản trị hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; mà còn là sự kiến tạo niềm tin và trách nhiệm cao cả của Nhà nước đối với nhân dân với tư cách là chủ nhân, chủ thể phát triển của xã hội, của đất nước. Đó còn là sự kiến tạo niềm tin dựa trên các mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa các chủ thể với nhau trong cộng đồng quốc gia, dân tộc, kết tụ ở việc luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. 

Động lực này sẽ được xác lập dựa trên những nền tảng đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đúng đắn của của Đảng, Nhà nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trên nền tảng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách quản lí, quản trị phát triển hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch; một nền hành chính liêm chính, tinh thần trách nhiệm cao trước dân; trên nền tảng một đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức “thực đức, thực tài”, thực sự công bộc, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích phát triển của đất nước lên trên hết. Động lực này sẽ phát huy cao độ khi thực hành dân chủ xã hội rộng rãi gắn liền với thực thi kỉ cương phép nước, “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”; tôn trọng, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của của mỗi con người, của nhân dân và của tất cả các chủ thể trong xã hội. Có được động lực niềm tin thì tất cả mọi người dân trong xã hội mới vững tâm mang tất cả tâm huyết, nguồn lực, trí tuệ, tài năng của mình ra để cống hiến cho sự phát triển chung của đất nước và dân tộc. Động lực này cũng là sự kết tinh, kết tụ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội khát vọng chấn hưng đất nước của mỗi con người, của toàn dân tộc với sự lãnh đạo của Đảng và quản lí của Nhà nước. Có thể nói, niềm tin của quần chúng nhân dân chính là thước đo quý giá nhất đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, khả năng quản lí đất nước của Chính phủ và là một động lực to lớn nhất, chính yếu nhất cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. 

Thứ hai, cần chú trọng xây dựng cơ sở để nhân dân kí thác niềm tin và thể hiện tình yêu đối với đất nước. Xưa nay, niềm tin và tình yêu Tổ quốc luôn sẵn có nơi mỗi người dân Việt và nó được duy trì, phát triển dựa trên tư duy của nhà quản lí. Tuy nhiên nếu niềm tin và lòng yêu nước không được định hình dựa trên nền tảng, quan điểm và cả những định hướng cụ thể thì sẽ rất dễ bị tổn thương và lợi dụng. Trường hợp nêu trên đã từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam và rõ nhất là qua âm mưu của các nhà truyền giáo ở thời kì cận đại... Và ngày nay trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, niềm tin và tình yêu quê hương, đất nước cũng cần phải được định hình dựa trên những cơ sở thật sự cụ thể nếu ko sẽ bị lợi dụng để phục vụ cho các toan tính cá nhân hoặc các tổ chức đối lập, chống đối. Điều này sẽ tạo nên những hệ lụy và hậu quả vô cùng to lớn đối với sự an nguy của đất nước.

Để xây dựng môi trường cho niềm tin hình thành và phát triển, thì trước hết phải được bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách thực sự đúng đắn và phù hợp. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa lợi ích, nguyện vọng của nhân dân; lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc và quyền lợi căn bản của công dân làm mẫu số chung cho quá trình phát triển; phải xem trọng nhân dân với tư cách là chủ thể của việc tạo lập niềm tin trong xã hội... Phải chăm lo xây dựng con người phát triển toàn diện theo hướng trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý chí, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Phải tạo nên được những sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, niềm tin sâu sắc vào truyền thống lịch sử, vào văn hóa dân tộc. Phải gắn việc xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Phải nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, khát vọng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế...

Thứ ba, cần gắn chặt vấn đề xây dựng, phát huy sức mạnh niềm tin với việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Có niềm tin mới có đoàn kết dân tộc. Sự phát triển hay suy giảm niềm tin luôn kéo theo tỉ lệ thuận tương ứng của tinh thần đoàn kết dân tộc. Do đó cần đặt mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc với việc củng cố và phát huy niềm tin trong quần chúng nhân dân. Việc gắn chặt niềm tin với tinh thần đoàn kết không chỉ cho phép tăng thêm sức mạnh nội lực trong quá trình phát triển, hội nhập sâu rộng với thế giới mà còn làm gia tăng thêm sức đề kháng cho quốc gia trong việc đập tan các hành động xâm lấn của kẻ thù và cả những âm mưu chống đối, chống phá nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, chỉ có sức mạnh của tinh thần đoàn kết mới mang lại cho dân tộc một sự phát triển ổn định và thịnh vượng, mới giúp dân tộc thành công trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và niềm tin chính là mẫu số chung có giá trị cao nhất để thúc đẩy các thành viên trong xã hội xích lại gần nhau, đoàn kết, gắn bó keo sơn với nhau trong một chỉnh thể nhà nước, quốc gia thống nhất./.

Anh tặng Việt Nam thêm 320.000 liều vắc xin AstraZeneca

Tối 9-12, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng điện đàm với Quốc vụ khanh phụ trách châu Á, Bộ Ngoại giao và Phát triển Anh Amanda Milling.

Tại cuộc điện đàm, hai bên đã bày tỏ vui mừng trước sự phát triển tốt đẹp, tích cực và toàn diện của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Anh. Năm 2021, mặc dù chịu tác động của đại dịch Covid-19, hai nước vẫn đẩy mạnh các cuộc trao đổi cấp cao hiệu quả và thực chất. Hai bên đã trao đổi cụ thể các biện pháp triển khai những nội dung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã thống nhất nhằm nâng tầm và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Anh trong thời gian tới.

Nhân dịp này, Quốc vụ khanh Amanda Milling thông báo Chính phủ Anh quyết định tặng Việt Nam thêm 320.000 liều vắc xin AstraZeneca. Thứ trưởng Tô Anh Dũng bày tỏ cảm ơn Chính phủ Anh về quyết định này và đề nghị Anh tiếp tục hỗ trợ Việt Nam tiếp cận vaccine, thuốc điều trị Covid-19, đặc biệt là chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, để sớm cùng nhau vượt qua khó khăn, tiến tới kiểm soát đại dịch.

Hai bên cũng trao đổi về một số vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng và duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, cũng như bảo đảm tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế, coi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 là khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương.

Bộ Ngoại giao lên tiếng việc Quốc ca Việt Nam bị tắt tiếng khi chào cờ

Tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao diễn ra chiều nay (9/12), PV Dân trí đặt câu hỏi: Trong khuôn khổ giải bóng đá AFF Cup 2020 đang diễn ra ở Singapore, tại lễ chào cờ trước trận bóng đá Việt Nam - Lào tối 6/12, quốc ca Việt Nam bị tắt tiếng trên nền tảng YouTube. Bộ Ngoại giao cho biết quan điểm về sự việc này?

Bà Lê Thị Thu Hằng - Người phát ngôn Bộ Ngoại giao - cho hay, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và phải thực hiện các biện pháp cần thiết để giữ gìn, phát huy giá trị của Quốc ca Việt Nam.

"Tất cả các cá nhân, tổ chức phải thực hiện nghiêm và không được có bất kỳ hành vi nào ngăn chặn việc phổ biến Quốc ca Việt Nam" - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

Trước đó, khi đội tuyển Việt Nam hát quốc ca trước trận đấu trên sân Bishan tại Singapore, trên màn hình kênh YouTube nắm bản quyền phát trận đấu đã hiện thông tin với nội dung: "Vì lý do bản quyền âm nhạc, chúng tôi buộc lòng phải tắt tiếng ở phần lễ chào cờ. Sau lễ chào cờ, tín hiệu âm thanh sẽ trở lại bình thường, mong quý vị khán giả thông cảm!".

Phía đơn vị nắm bản quyền AFF Cup 2020 tại Việt Nam là Next Media đã chủ động tắt tiếng khi đội tuyển Việt Nam hát Quốc ca để tránh những rắc rối về bản quyền. Điều này đang tạo nên nhiều tranh cãi.

Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) khẳng định đã cung cấp bản Quốc ca chuẩn cho cho Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC). Bản này được đơn vị xin phép lấy nguồn từ Cổng Thông tin Chính phủ để cung cấp cho AFC.

Trước mắt, VFF xử lý bằng việc gửi bản thu âm Quốc ca mới cho ban tổ chức AFF Cup 2020. Bản thu âm Quốc ca này được sử dụng trong các nghi lễ quốc gia của Việt Nam. 

Thứ Hai, 6 tháng 12, 2021

Tăng cường 410 cán bộ, thầy thuốc quân y vào phía Nam phòng, chống dịch Covid-19

Thực hiện quyết định của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 4-12, Học viện Quân y và 3 viện, bệnh viện quân đội đã tổ chức lễ xuất quân, điều động 410 cán bộ, bác sĩ, học viên, nhân viên quân y tăng cường giúp các địa phương trên địa bàn Quân khu 7, Quân khu 9 phòng, chống dịch Covid-19.

 Cán bộ, học viên Học viện Quân y lên đường vào các tỉnh phía Nam chống dịch

Cụ thể, trong buổi sáng và chiều 4-12, Học viện Quân y đã tổ chức xuất quân, tăng cường 311 cán bộ, học viên quân y, chia làm hai đoàn công tác lên đường vào làm nhiệm vụ phòng, chống dịch tại các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 7 và Quân khu 9.

Lãnh đạo Bệnh viện Quân y 354 (Tổng cục Hậu cần) động viên, căn dặn các cán bộ, bác sĩ, nhân viên trước khi lên đường vào miền Nam làm nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19. Ảnh: THẮNG GIÁP 

Cũng trong ngày, Viện Y học cổ truyền Quân đội và Bệnh viện Quân y 354, Bệnh viện Quân y 105 (Tổng cục Hậu cần) đã tổ chức xuất quân điều động tổng số 99 cán bộ, bác sĩ, nhân viên tăng cường làm nhiệm vụ phòng, chống dịch tại các địa phương trên địa bàn Quân khu 9.

Theo quyết định điều động, 410 cán bộ, bác sĩ, nhân viên, học viên quân y của các đơn vị trên sẽ được chia thành 133 tổ quân y, trong đó, 122 tổ quân y được biên chế 3 thành viên, các tổ còn lại biên chế gồm 4 thành viên.

Trong số này, 67 tổ quân y cơ động thuộc Học viện Quân y, mỗi tổ 3 thành viên sẽ trực tiếp tham gia phòng, chống dịch tại địa bàn Quân khu 7. Lực lượng còn lại là các tổ hồi sức, truyền nhiễm sẽ được phân bố làm nhiệm vụ tại các tỉnh trên địa bàn Quân khu 9.

Nhiệm vụ chính của các tổ quân y là hỗ trợ địa phương thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19; trực tiếp tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân Covid-19 tại nhà; phối hợp với lực lượng y tế địa phương phát hiện triệu chứng, hướng dẫn người dân phương pháp tự chăm sóc, điều trị; kịp thời phát hiện các F0 có diễn biến chuyển nặng để xử trí, cấp cứu kịp thời.

Được biết, hầu hết cán bộ, bác sĩ, nhân viên quân y được tăng cường phòng, chống dịch tại các tỉnh phía Nam lần này đều có kinh nghiệm, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, ý thức kỷ luật tốt. Riêng Học viện Quân y, hầu hết các đồng chí tham gia phòng, chống dịch lần này đều là bác sĩ và sinh viên năm cuối; rất nhiều cán bộ, học viên đã từng tham gia tăng cường chống dịch tại tỉnh Bắc Giang, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đợt điều động, tăng cường lực lượng cán bộ, nhân viên, học viên Quân y giúp các tỉnh phía Nam phòng, chống dịch Covid-19 thêm một lần nữa thể hiện vai trò, tinh thần xung kích, đi đầu, hết lòng vì nhân dân phục vụ của lực lượng Quân đội trong mọi hoàn cảnh.

Đây cũng là sự tiếp nối tinh thần “Bộ đội chủ động tìm đến với nhân dân chứ không để nhân dân khó khăn tìm đến bộ đội” đã được những người lính Cụ Hồ thực hiện trong suốt thời gian qua.

Nguồn: Báo QĐND

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ: Mối quan hệ Việt Nam-Lào là tài sản vô giá

Tối 6-12, tại Nhà Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Phu nhân đã chủ trì chiêu đãi trọng thể chào mừng đồng chí Xaysomphone Phomvihane, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Lào thăm chính thức Việt Nam từ ngày 6 đến 8-12-2021.

Cùng tham dự có các Ủy viên Bộ Chính trị: Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng; Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, lãnh đạo ban, bộ, ngành. Phía Lào có các thành viên trong Đoàn và một số cán bộ Đại sứ quán Lào tại Việt Nam…

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nồng nhiệt chào mừng Chủ tịch Quốc hội Xaysomphone Phomvihane cùng Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội sang thăm chính thức Việt Nam.

Bày tỏ tự hào về mối quan hệ mẫu mực, thủy chung, trong sáng Việt Nam - Lào, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh đây là tài sản vô giá cần được nâng niu, trân trọng và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Nhân dân Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc rằng, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày nay đều gắn liền với tình đoàn kết, sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình của nhân dân Lào anh em. Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Việt Nam bày tỏ sự cảm ơn chân thành, sâu sắc tới Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Lào về những tình cảm và sự giúp đỡ quý báu đó.

Chủ tịch Quốc hội khẳng định, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang phát triển hết sức nhanh chóng, phức tạp và khó lường, tình cảm thủy chung, son sắc giữa hai đất nước, hai dân tộc Việt - Lào không bao giờ thay đổi và ngày càng được củng cố, ăn sâu, bám rễ trong mỗi tầng lớp nhân dân như Chủ tịch Kaysone Phomvihane từng nói: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”.

Chủ tịch Quốc hội Lào Xaysomphone Phomvihane bày tỏ vui mừng thăm chính thức Việt Nam ngay sau khi được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Lào khóa IX. Đồng chí đánh cao giá kết quả cuộc hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ diễn ra sáng 6-12.

Hội đàm diễn ra trong bầu không khí thắm tình hữu nghị, đồng chí, anh em. Hai bên đã cùng trao đổi thẳng thắn, thống nhất nhiều nội dung nhằm tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp hai nước. Trong khuôn khổ chuyến thăm, lãnh đạo Quốc hội hai nước đã tham dự hội thảo trao đổi kinh nghiệm công tác giữa Quốc hội hai nước, trong đó thảo luận, trao đổi những kinh nghiệm trong lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước…

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Chủ tịch Quốc hội Lào Xaysomphone Phomvihane cùng chúc cho quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững.

Nhân dịp này, thông qua Chủ tịch Quốc hội Xaysomphone Phomvihane và Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Lào, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng thay mặt Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hà Nội trao tặng 5 tỷ đồng hỗ trợ nhân dân Lào trong công tác phòng, chống dịch Covid-19.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...