Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

BẢN CHẤT "TƯ DUY ĐỘT PHÁ" CỦA NHỮNG "NHÀ DÂN CHỦ CUỘI"

 


 “Nói dối như Cuội” là thành ngữ phổ biến ở Việt Nam. Cứ nói đến chuyện Cuội là hầu hết mọi người biết rằng đó là những người dối trá đến độ chuyên nghiệp, khó có thể tin và phải cảnh giác, đề phòng. Ấy vậy mà, như “đến hẹn lại lên”, cứ mỗi lần Việt Nam tổ chức các sự kiện chính trị quan trọng là bấy nhiêu lần mấy người tự xưng “nhà dân chủ” ở trong và ngoài nước lại cất lời chê bai đủ kiểu.

 Lần này cũng vậy, khi Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị tiến hành Đại hội XIII, họ cũng hùa nhau “bình luận” và đưa ra những “phát kiến dân chủ” cho nội dung dự thảo các văn kiện trình đại hội.

Tại sao những “nhà dân chủ” lại mất nhiều công sức và thời giờ đến vậy để nêu lên và đề xuất những “phát kiến dân chủ” đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó thực chất chỉ là lời lẽ của những người cố tình khoác lên mình cái vỏ bọc gọi là “dân chủ” mà thôi. Bản chất của những “nhà dân chủ” này được thể hiện ở những vấn đề sau:

1. Họ mượn cớ bàn luận về nội dung văn kiện đại hội chỉ để chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Người dân của các nước trên thế giới và ở Việt Nam đều biết rằng, việc hoạch định đường lối chính trị để dân tộc mình phát triển đi lên trong từng giai đoạn là khó khăn nhất so với việc hoạch định mọi đường lối khác. Vì vậy, các đảng cầm quyền ở các nước luôn đầu tư nhiều công sức cho việc xây dựng đường lối chính trị của nước mình trong giai đoạn tiếp theo để được công dân hoặc cử tri đồng tình, ủng hộ với tỷ lệ cao nhất. Cùng vì lý do này, khi người đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam họp báo và nêu lên những vấn đề mới trong nội dung dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII, thì các “nhà dân chủ” bắt đầu bám riết vào đó để “thọc mạch”, “soi mói”. Họ cho rằng: “3 đến 4 vấn đề mới mà dự thảo đưa ra không có gì gọi là “tư duy đột phá” và chỉ là “sự tuyên truyền của Đảng”. Họ còn đưa ra tiêu chí về “tư duy đột phá”-tư duy ở trình độ cao, ít nhất là cao hơn hẳn tư duy thông thường 4-5 bậc (thông thường, kinh nghiệm, logic, tổng hợp)...

Với lập trường chính trị dường như đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, họ lớn tiếng phủ nhận đường lối chính trị của Đảng là điều có thể dự đoán được. Thực tế, Đảng cũng không ép buộc họ phải theo ý của Đảng, đó chính là biểu hiện của tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng đã “đăng đàn” về sự phủ nhận thì phải có lý lẽ thuyết phục và đề xuất được cái gì mới hơn, hay hơn, đúng với cái gọi là “tư duy đột phá” như họ nói thì mới thuyết phục được Đảng Cộng sản Việt Nam và công luận về việc đổi mới tư duy chính trị để xây dựng đất nước. Vậy nội dung chủ đạo cái gọi là “tư duy đột phá” của họ nêu lên là gì? Đó là, họ đòi Đảng phải thay đổi “định hướng xã hội chủ nghĩa”, "đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, xã hội thực hiện đa nguyên chính trị mà không có đảng cộng sản tham gia thì mới tìm thấy dân chủ"...

Xem ra đây đúng là cái lý của các “chú Cuội”. Tiếc thay thực tiễn trên thế giới này đang diễn ra trái với mong mỏi của họ. Đó là, ở nhiều nước được coi là dân chủ, đa nguyên chính trị trên thế giới, nhưng thực chất chỉ có một hoặc hai đảng thay nhau cầm quyền và quyết định đường lối chính trị của đất nước. Hơn nữa, cái thực thể “chính trị đa nguyên” bấy lâu nay ở một số nước đã nhiều lần bị thế giới “nghi ngờ” và bị chính một bộ phận không nhỏ người dân của nước đó tẩy chay vì sự "đa nguyên nửa vời", tiếng là có nhiều đảng tham gia lãnh đạo chính trị, nhưng thực chất chỉ có một, hoặc hai đảng thay nhau lãnh đạo mà thôi. Và thực tế là "thiên đường" của chủ nghĩa tư bản, của chủ nghĩa đa nguyên thì chưa thấy, nhưng cái hố ngăn cách xã hội do phân hóa giàu nghèo rõ ràng ngày càng rộng; sự phân biệt đối xử, kỳ thị giữa các dân tộc, màu da... đã ngày càng lộ rõ, khiến cho xã hội bất bình, náo loạn, mất an ninh trật tự, quyền con người bị đe dọa.

Thực tế là như thế, nhưng với tâm địa đen tối và bản chất cơ hội, dối trá, những “nhà dân chủ” vẫn cố tình tung hỏa mù hòng lừa phỉnh một số người nhẹ dạ cả tin. Thế nên họ không ngừng tâng bốc phong trào dân chủ kiểu phương Tây; cố hữu tư tưởng, mục tiêu, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi chế độ và hướng lái người dân Việt Nam đi tới "xã hội dân chủ" kiểu phương Tây mà thiên hạ thừa biết đó chỉ là cái “bánh vẽ” không hơn không kém. Vì thế có thể gọi họ là những "nhà dân chủ cuội".

2. Về vấn đề bầu cử trong Đảng, bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, các "nhà dân chủ cuội” cho rằng cần phải “dân cử, dân bầu”, chứ không thể là “đảng cử, đảng bầu” hay “đảng cử, dân bầu”... Thực tế trên thế giới hiện nay, có nhiều nước phương Tây, việc bầu cử tưởng như rất dân chủ, thế nhưng thực chất dân chủ chỉ là cái vỏ, là phần nổi của tảng băng chìm. Có những nước đã bày ra đủ thứ luật lệ để ngăn chặn cơ hội thắng cử của các đảng có tư tưởng đối lập với đảng, hoặc các đảng cầm quyền. Sự việc này còn tiến xa và nguy hiểm đến mức những đối thủ tiềm năng có nguy cơ bị "thanh toán" trước khi thắng cử. Điều này từng xảy ra ở nhiều nước có nền dân chủ kiểu phương Tây. Thực tế đó chắc chắn các "nhà dân chủ cuội" có biết, nhưng họ luôn cố tình lấp liếm, che đậy.

Về phương pháp bầu cử, các "nhà dân chủ cuội" khuyên Đảng ta nên học theo nước này, nước kia và lấy Hoa Kỳ là "hình mẫu", nghĩa là để cho "dân trực tiếp bầu Tổng Bí thư" của Đảng, như kiểu cử tri Hoa Kỳ bầu tổng thống. Nhưng từ trước đến nay, theo pháp luật của Hoa Kỳ thì bất cứ ứng cử viên tổng thống nào cũng phải được đảng của mình lựa chọn, đề cử và bầu ra để trở thành ứng cử viên tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ. Các ứng cử viên tổng thống sẽ được cử tri, đúng hơn là đại cử tri, bầu chọn làm tổng thống. Như vậy có thể hiểu, hiện tượng “đảng cử, rồi đảng bầu”, sau đến “đảng cử rồi dân bầu” cũng là một nguyên tắc phổ thông trong bầu cử ở các nước phương Tây, mà điển hình là Hoa Kỳ. Vì vậy, các "nhà dân chủ cuội" cố tình chê bai, bài xích Đảng Cộng sản Việt Nam "không để cho dân được bầu Tổng Bí thư” và xuyên tạc cơ chế đảng đề cử để nhân dân bầu ra bộ máy lãnh đạo, quản lý nhà nước (bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp) của mình, chứng tỏ họ thiếu hiểu biết về nguyên tắc và phi thực tế. 

3. Với bản chất, tâm địa hẹp hòi nên các "nhà dân chủ cuội" luôn lo sợ, cố tình dè bỉu, xuyên tạc sự thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Khi chứng kiến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở các nước Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1980-1990, nhiều người đã không khỏi hoang mang, lo lắng. Lúc đó, những "nhà dân chủ cuội” có lẽ là người vui mừng nhất và họ “tiên đoán” chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ theo. Nhưng ngược lại, dưới sự chèo lái của Đảng Cộng sản Việt Nam, con tàu cách mạng Việt Nam không những vượt qua sóng cả mà còn vươn lên mạnh mẽ. CNXH ở Việt Nam đã đứng vững giữa muôn vàn khó khăn, đã phát triển một cách đĩnh đạc, kỳ diệu hơn bao giờ hết. Nói như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng là: Chưa bao giờ chúng ta có một cơ đồ như ngày hôm nay. Việt Nam hiện nay đang là đối tác, là bạn bè của gần 200 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều quốc gia hùng cường, nhiều nước lớn trên thế giới muốn nâng cấp mối quan hệ, hợp tác với nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đó là thực tế không thể phủ nhận.

Vấn đề là tại sao Việt Nam lại đứng vững và phát triển như vậy? Chỉ có một câu trả lời duy nhất đối với các “nhà dân chủ cuội” rằng, chỉ có họ mới cố tình quên truyền thống anh dũng quật cường và tư duy sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Nhưng người không quên vấn đề này là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã tiếp nối, phát huy cao độ truyền thống quý báu của dân tộc trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại giá trị đích thực về quyền dân tộc tự quyết, quyền con người cho nhân dân và dân tộc Việt Nam. Đảng đang ngày càng làm cho dân giàu, nước mạnh, phát triển hùng cường, nâng cao uy tín, vị thế đất nước, tham gia có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề về hòa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, Đảng Cộng sản được nhân dân Việt Nam tin cậy, yêu mến và ủy thác vai trò là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội, định ra chủ trương, đường lối, đưa dân tộc Việt Nam không ngừng phát triển. Bằng uy tín, trí tuệ và bản lĩnh của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo được niềm tin đối với nhân dân và bạn bè trên thế giới.

Thực tế ngày nay cho thấy, lý tưởng cộng sản trên thế giới không những không mất đi mà còn tiếp tục hiển hiện một cách quang minh từ chính những thành công mang tầm thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản khác ở những năm đầu thế kỷ 21 này. Các “nhà dân chủ cuội” đang thấy rõ sự tồn tại mãnh liệt và sinh động đó, nhưng họ vẫn cố tình lập lờ, không chịu thừa nhận thực tế, không chịu thừa nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua. Đó là vì trong họ luôn tồn tại dai dẳng một tư tưởng thù nghịch, hoặc tồn tại sự ảo tưởng phi thực tế mà căn nguyên sâu xa của nó là sự cơ hội về chính trị, chỉ muốn Việt Nam mất ổn định để "đục nước béo cò". Về lâu dài, họ ảo tưởng rằng "cứ tuyên truyền, cứ xuyên tạc kiểu "mưa dầm thấm lâu", thế nào cũng có người nghe, người theo". Về ngắn hạn thì họ cố tình xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn, đổi trắng, thay đen trong cách lập luận, hòng câu view, câu like để... kiếm sống trên mạng. Tất cả những trò bịp bợm chính trị đó của các "nhà dân chủ cuội" không thể qua mắt những người có hiểu biết, có kinh nghiệm, có thông tin, không thể phỉnh phờ được nhân dân Việt Nam.

Đến đây có thể nói, các “nhà dân chủ cuội” đang lo sợ những thành tựu của CNXH ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ là luồng sáng soi rõ tâm can đen tối của họ. Còn những cái gọi là “tư duy đột phá”, những “phát kiến”, “đóng góp” cho Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam từ những "nhà dân chủ cuội" thực chất không có gì gọi là khoa học, là đột phá, đó chỉ là những cái cớ để họ chống phá, hòng hạ thấp uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá sự vươn lên của CNXH trên thế giới mà thôi. Thế nên, những lý lẽ mà họ đưa ra không thuyết phục và không thể nào tin được.

https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-viet-nam/ban-chat-tu-duy-dot-pha-cua-nhung-nha-dan-chu-cuoi-627414

 

VẠCH TRẦN ÂM MƯU ĐÒI THAY QUỐC HIỆU CỦA CÁC NHÀ "DÂN CHỦ CUỘI"

 


Quốc hiệu của một quốc gia ở bất cứ đâu trên thế giới cũng mang giá trị lịch sử, văn hóa và chính trị. Những cuộc cách mạng, thay đổi chế độ xã hội nói chung thường dẫn đến thay đổi quốc hiệu.

Sự thay đổi quốc hiệu được xem như một phần của thành quả cách mạng. Quốc hiệu của một quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác nhau còn thể hiện tư duy chính trị của lực lượng cầm quyền (thường là đảng chính trị) giành thắng lợi.

Với nhà nước Việt Nam, quốc hiệu không phải chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn thông qua một quy trình luật định của Hiến pháp, do Quốc hội-cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho toàn thể nhân dân quyết định. Thế nhưng trong làn sóng “dân chủ trên thế giới ảo-mạng” (có tài khoản còn gọi là “dân chủ cuội”) có người đã đòi thay đổi tên nước, từ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trở lại tên gọi trước đây-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Loại trừ tính cách cá nhân (muốn thể hiện trí tuệ hơn người) cái gọi là “kiến nghị”, "yêu cầu" trên còn ẩn chứa âm mưu gì?

Trước hết xin được lược qua các quốc hiệu của Nhà nước Việt Nam từ khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập dân tộc, năm 1945 đến nay. Quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc hội khóa I, nhiệm kỳ (1946-1960), quyết định. Tên gọi này kéo dài 31 năm (1945-1976). Còn nhớ, thắng lợi của cuộc kháng chiến thống thực dân Pháp vào năm 1954, Hiệp định Geneve (Thụy Sĩ) quy định Việt Nam tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc và miền Nam. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thế chân thực dân Pháp cai trị dưới hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài từ năm 1954 đến ngày 30-4-1975 cuối cùng đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

Vào năm 1976, do còn có sự khác biệt nhất định về thể chế xã hội giữa hai miền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thực hiện cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất ra đời. Quốc hội nhiệm kỳ mới, mở đầu từ năm 1976 đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Sự khác biệt giữa hai tên nước: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không chỉ về ngôn từ mà còn mang nội dung chính trị-pháp lý nhất định. Chính thể cộng hòa dân chủ nói chung là một chế độ xã hội trong đó nguyên thủ quốc gia và cơ quan lập pháp (Quốc hội) do nhân dân bầu ra theo thể thức bình đẳng và bỏ phiếu kín. Các quốc gia theo chính thể cộng hòa dân chủ đều xác lập nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hoặc xuất phát từ nhân dân). Mọi công dân đến tuổi (do pháp luật quy định) đều được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện từ cơ sở đến Trung ương. Chính thể cộng hòa dân chủ là hình thức chính thể phổ biến của các nhà nước hiện đại.

Nhìn lại lịch sử nhân loại, chế độ cộng hòa dân chủ có nhiều mô hình. Chẳng hạn, các mô hình: Cộng hòa dân chủ chủ nô (Aten); cộng hòa dân chủ phong kiến (ở một số nước phương Tây); cộng hòa dân chủ tư sản... Công xã Pari là một sự kiện mở đầu cho chính thể cộng hòa dân chủ. Tiếp đó là chế độ cộng hòa Xô viết (ra đời từ nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917). Mô hình cộng hòa dân chủ còn ra đời từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi chế độ thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc-đó là mô hình “cộng hòa dân chủ”. Trong mô hình này có thể chế cộng hòa dân chủ của nước ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Ở Việt Nam, việc Quốc hội quyết định chuyển quốc hiệu từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là sự khẳng định thể chế chính trị nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời gắn với mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Nói như thế không có nghĩa quốc hiệu là bất biến. Khi nào có thể và cần thay đổi thì vẫn có thể thay đổi. Quốc hiệu mới như thế nào thì câu trả lời dành cho đảng cầm quyền và cho cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Ở Việt Nam, quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là sự kế thừa quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng mô hình xã hội thì đã thay đổi. Về chính trị, đó là Nhà nước pháp quyền, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với những quy định chặt chẽ. Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Vậy, những người đòi thay quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở về với quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để nhằm mục đích gì? Có "trong sáng" như họ vẫn nói hay không? Sẽ tác động đến tư tưởng-chính trị và văn hóa của đất nước ra sao? Và cuối cùng, thực chất của giọng điệu đề nghị thay đổi tên nước?

Trước hết, về hệ quả lý luận, sự thay đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến “vênh” giữa nền tảng tư tưởng của Đảng ta (đó là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) với mục tiêu đi lên xã hội XHCN. Cần lưu ý rằng mô hình kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay là mô hình “quá độ” lên xã hội XHCN. Nói cách khác về mặt logic, mô hình này chưa phải là mô hình XHCN.

Thứ hai, về tư tưởng, chính trị, sự thay đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến nhận thức chung của xã hội là Đảng Cộng sản Việt Nam đã thay đổi nền tảng tư tưởng, đã từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự thay đổi này bao gồm cả nhận thức về quyền làm chủ của nhân dân. Từ đó, theo logic sẽ dẫn đến những hình thức đấu tranh đòi xóa bỏ thể chế kinh tế hiện này. 

Thứ ba, về khách quan, đó sẽ là sự phủ định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người ta có thể lập luận rằng, mô hình kinh tế xã hội hiện hữu do Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng và điều hành bấy lâu nay là sai lầm... nên phải thay đổi “tận gốc”, phải thay đổi đảng chính trị cầm quyền, đây là cái gốc của mô hình cũ.

Trong thời đại công nghệ thông tin dựa trên nền tảng internet, mạng xã hội... hệ lụy của những sai lầm về chính trị tư tưởng, từ nhỏ có thể trở thành những vấn đề tư tưởng chính trị phức tạp, khó lường. Âm mưu đòi đổi quốc hiệu núp dưới vỏ bọc "chân thành", mong muốn trở về với "tên nước do Bác Hồ đặt" thực ra là âm mưu tạo cớ để đòi thay đổi nền tảng tư tưởng của đảng cầm quyền, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi mục tiêu và con đường xây dựng, phát triển đất nước mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn và đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Thiết nghĩ, vấn đề này cần được thông tin rộng rãi để cộng đồng, xã hội hiểu rõ bản chất của các nhà “dân chủ mạng”, “dân chủ ảo”, “dân chủ cuội”.

https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-viet-nam/vach-tran-am-muu-doi-thay-quoc-hieu-cua-cac-nha-dan-chu-cuoi-632502

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

 


QĐND - Phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xuyên tạc lịch sử, hướng lái con thuyền cách mạng nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, là thủ đoạn không mới, nhưng vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch. Do đó, luận giải và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ phản động ấy là vấn đề cấp thiết và thời sự hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 75 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Vậy mà, những phần tử cơ hội, xét lại trong và ngoài nước, đặc biệt cái gọi là đảng Việt Tân lại cố tình phủ nhận thành quả vĩ đại ấy của dân tộc ta. Chúng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “là đi ngược lại sự bảo hộ của mẫu quốc”, “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”... Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn của những kẻ thiếu lương tri... quên đi “vết nhơ” của lịch sử dân tộc ta đã phải chịu cảnh nô lệ, lầm than hơn 80 năm.

Năm 1858, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, khiến dân tộc ta mất quyền độc lập, nhân dân ta phải chịu cảnh nước mất, nhà tan, “một cổ hai tròng”. Thực dân Pháp không cho dân ta bất cứ quyền tự do dân chủ nào; bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, thẳng tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu... Từ năm 1940, trước sự xâm lăng của phát xít Nhật vào Đông Dương và Việt Nam, đã bao lần Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Vậy mà, chẳng những thực dân Pháp không đáp ứng, lại thẳng tay đàn áp Việt Minh và quỳ gối đầu hàng, bán nước ta cho phát xít Nhật, làm cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích...

Luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” thì quả là sự vu khống và xuyên tạc lịch sử. Bởi lẽ, sau khi Nhật hàng đồng minh, Vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày 23-9-1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Nhưng “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(1), quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta xác định từ năm 1930. Và con đường cách mạng chân chính ấy đã đưa nước ta đến thắng lợi vẻ vang vào ngày 30-4-1975, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Như vậy, chính sự hiếu chiến xâm lược của bọn thực dân, đế quốc là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta, chứ không phải Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” như bọn phản động xuyên tạc.

Về vai trò lãnh đạo và nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”... Thực chất, luận điệu ấy là chúng muốn phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vận mệnh dân tộc Việt Nam, phủ nhận khối đại đoàn kết và tinh thần dân tộc, khát khao giành độc lập dân tộc của nhân dân ta sau hơn 80 năm dưới sự cai trị tàn bạo của chế độ thực dân Pháp. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách khoa học, đúng đắn, khắc phục triệt để hạn chế, sai lầm của những con đường cứu nước mà các nhà yêu nước trước đó đã tiến hành và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi!

Về thành quả của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”... Đây là sự xuyên tạc trắng trợn và phi lịch sử. Ngay về thuật học, chúng đã đánh tráo khái niệm. Ở nước ta, chế độ “vua trị”, hay nói cách khác là chế độ “quân chủ” bao giờ cũng đối lập hoàn toàn với chế độ “dân chủ”. Trong khi đó, cuộc Cách mạng Tháng Tám không những lật đổ sự thống trị của thực dân, phát xít, mà còn lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến “vua trị”.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích rõ ràng “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám “là giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”(4). Nghĩa là, đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh phúc-chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ, bị bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Đồng thời, đưa cách mạng Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc và CNXH. Thành quả ấy đã giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam-vấn đề chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN)...

Giá trị lịch sử và thời đại vô cùng to lớn của Cách mạng Tháng Tám đó là giá trị hòa bình chân chính. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn là ngọn cờ đầu của các dân tộc, thuộc địa bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

Để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn thâm độc ấy của các thế lực thù địch, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục khẳng định giá trị lịch sử và thời đại to lớn của Cách mạng Tháng Tám; phải nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng luôn kiên định với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, mỗi quốc gia-dân tộc đều có những chiến lược, sách lược nhất định nhằm bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia-dân tộc. Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân làm động lực chủ yếu để phát triển đất nước; độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu tối thượng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; phấn đấu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(5) là những mục tiêu, giải pháp căn bản, góp bảo vệ thành quả vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta.

https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-viet-nam/khong-the-phu-nhan-thanh-qua-cach-mang-thang-tam-632029

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.

(2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.30.

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.1.

(4) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 9, tr.35.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.76.

 

 

BẢN CHẤT PHẢN ĐỘNG CỦA NHÓM “VỆ QUỐC QUÂN”

 


 

 Trọng Văn

 

 “Vệ Quốc Quân” là một trong 3 nhóm “kín”, lợi dụng mạng Intenet  hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Giống như các nhóm còn lại, mục đích thành lập của “Vệ Quốc Quân” là tập hợp lực lượng, chủ trương hoạt động nhằm lật đổ Đảng Cộng sản. Để thực hiện ý đồ này, đối tượng lôi kéo các thành viên tham gia các hội nhóm để chống Đảng, chống Nhà nước; tiến hành các hoạt động như tuyên truyền chống phá, tụ tập biểu tình, tham gia các khóa huấn luyện, đào tạo...

Đến nay, nhóm này đã tập hợp được hàng trăm thành viên. Trong đó, admin là nick facebook “Quốc Quân Vệ” (đối tượng này đồng thời đã lập facebook thứ hai “Người Cầm Đuốc”) và các thành viên trong nhóm đều sử dụng “nick ảo”, hoạt động theo số bí danh; giữa các thành viên trong nhóm không biết tên thật của nhau, chỉ cần biết nhiệm vụ, số lượng người tham gia nhiệm vụ, mục đích nhằm “giữ an toàn” cho các thành viên.

Các đối tượng hoạt động thành 2 giai đoạn. Ở giai đoạn 1, các đối tượng chủ trương đấu tranh “bất bạo động”, tự vệ, bảo vệ người biểu tình. Trong giai đoạn này, các đối tượng sẽ tập trung “tuyển quân”, tán phát bài viết đến nhiều hội, nhóm phản động như “Tổ quốc - dân tộc”, “Quyền dân chủ cho nhân dân”, “Thông tin đa chiều”... để kêu gọi các đối tượng tham gia. Sau đó, nhóm “Quốc Quân Vệ” sẽ tuyển chọn và phân loại thành viên thành các nhóm thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.

Bản chất phản động của nhóm thể hiện rõ nhất trong việc bọn chúng hướng dẫn, huấn luyện các thành viên cách thức, phương thức và thủ đoạn hoạt động. Theo đó, các đối tượng sử dụng mạng xã hội để tuyển lựa thành viên, trong đó sẽ tạo thành các facebook “trắng” (không liên quan đến chính trị) để xâm nhập vào các nhóm có liên quan đến nhiều lĩnh vực của xã hội như đồng hương, kinh doanh, lái xe... 

Khi có biểu tình hoặc cần phát động biểu tình, các đối tượng sẽ đồng loạt chia sẻ, tán phát các bài viết để kích động người dân. Đối tượng đồng thời chỉ đạo các thành viên trong nhóm thảo luận việc “lập facebook” mới ít có thông tin liên quan đến chính trị để điểm danh, điểm số để đánh giá tính khả thi mới thực hiện nhiệm vụ. Khi nhóm có đủ số lượng 30 thành viên, sẽ triển khai “lực lượng trinh sát quân”. 

Trong trường hợp xảy ra biểu tình, nhận nhiệm vụ các nhóm sẽ chia thành tổ gồm 2 xe máy, có từ 2-4 người chốt tại các tuyến đường xung quanh nơi dự kiến biểu tình hoặc đang biểu tình, mục đích để nắm tình hình lực lượng chức năng di chuyển, theo dõi lực lượng chức năng rút quân về đơn vị, bám theo cán bộ để nắm địa chỉ nhà riêng. 

Khi có biểu tình nổ ra, chúng sẽ ném bom xăng vào nhà cán bộ để khủng bố tinh thần. Đồng thời, đăng bài lên diễn đàn phản động, tuyên bố đã nắm được thông tin, địa chỉ, nhân thân của cán bộ. Nếu cán bộ nào thực hiện nhiệm vụ trấn áp biểu tình thì chúng đe dọa sẽ phải trả giá... Theo cách này thì dù biểu tình thành công hay thất bại thì đối với bọn chúng, “lực lượng trinh sát quân” cũng đã thực hiện thành công nghiệm vụ “bảo vệ người biểu tình”.

Đối tượng “Quốc Quân Vệ” đồng thời sẵn sàng cung cấp thông tin cho tổ chức phản động lưu vong “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” của Đào Minh Quân, LiSa Phạm để phối hợp “hành động”. Việc làm này của các đối tượng nhằm hai mục đích “gây tiếng vang, thu hút lực lượng trong nước của Chính phủ quốc gia lâm thời”, tham gia đầu quân cho “Chiến sĩ Vệ Quốc”; sử dụng được lực lượng quân “3 sạch” vào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn đầu vì nhóm còn thiếu lực lượng, phương tiện.

Các đối tượng còn chiêu mộ thành viên, phát triển lực lượng, liên kết dân oan và các nhóm khác. Trong trường hợp này, các thành viên trong nhóm sẽ cài người vào đoàn biểu tình để trao đổi facebook. Qua đó, đề nghị người biểu tình liên kết, giữ liên lạc, thực hiện kế hoạch “hoa nở trên cây”, quay clip để gây tiếng vang, thu hút lực lượng. 

Khi nhóm trinh sát báo có lực lượng làm nhiệm vụ đến thì sẽ rút trước để đảm bảo an toàn cho các thành viên. Cùng với đó, hướng dẫn cách rải truyền đơn. Đối tượng “Quốc Quân Vệ” hướng dẫn chiến thuật du kích, quan sát nhiều  địa điểm, lên kế hoạch kỹ càng. Các đối tượng đi nhóm 2 người, xe máy, chuẩn bị sẵn nhiều đinh, túi nilong chứa dầu nhớt, ớt bột, bom xăng, biển sổ giả dán băng keo lên biển số thật. 

Ngoài ra, các đối tượng còn mặc nhiều lớp áo khác màu, khẩu trang, vẽ màu lên mặt, vạch sẵn tuyến đường đi rải truyền đơn nên rút vào hẻm hay đường nhỏ vì bom xăng sẽ phát huy hiệu quả hơn trong đường hẻm. Trong trường hợp bị phát hiện, các đối tượng có thể rút chạy an toàn nếu bị truy đuổi.

Với phương thức như trên, facebook của “Quốc Quân Vệ” đăng chỉ đạo “Ai có thể hoạt động tại Sài Gòn, nhiệm vụ trinh sát, yêu cầu có xe máy để theo dõi mục tiêu, điểm số tham gia bên dưới để tính toán khả năng thực hiện”. Facebook “Quốc Quân Vệ” chỉ đạo “trinh sát trà trộn vào đoàn biểu tình” của các đối tượng “dân oan” tại “Trường Thịnh và Thủ Thiêm” đã bị lực lượng an ninh phát hiện, ngăn chặn kịp thời, không cho chúng có khả năng hoạt động gây phương hại đến an ninh trên địa bàn…

 

NHẬN RÕ TÍNH CHẤT PHẢN ĐỘNG CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ NGÀY ĐỘC LẬP CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA NAY LÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 


 

Trong những ngày này, cả nước Việt Nam đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945- 2/9/2020) thì trên một số trang mạng của các thế lực thù địch, phản động, đang xuyên tạc, bóp méo tính chất và ý nghĩa của các sự kiện lịch sử này. Trong đó có những luận điệu hết sức bịa đặt mà chúng dựng lên để xuyên tạc lịch sử, hạ bệ lãnh tụ. Thâm độc hơn, chúng tiếp tục dã tâm xóa bỏ nền độc lập và chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng: Ngày độc lập cho Việt Nam là ngày 11-3-1945, khi Bảo Đại ký đạo dụ tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Giáp Thân (hay còn gọi là Hòa ước Patenôtre) ký với Pháp năm 1884.  Thực ra, thông tin trên của các thế lực phản động, thù địch là hoàn toàn bịa đặt và không hiểu gì về lịch sử Việt Nam!

Có thể thấy, sự kiện ngày 11-3-1945 khi Bảo Đại ký đạo dụ tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Giáp Thân ký với Pháp năm 1884 chỉ diễn ra sau sự kiện đêm 9-3-1945 “Nhật đảo chính Pháp” trên toàn cõi Đông Dương.

Sau khi hất cẳng thực dân Pháp, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là phải lập ra được một bộ máy cai trị tay sai bản xứ để duy trì trật tự và ổn định. Vì thế, “chính phủ” Trần Trọng Kim được ra đời dưới sự bảo hộ của phát xít Nhật. Phát xít Nhật đã chọn hai quân bài để phục vụ mục đích của mình bao gồm: Bảo Đại làm vua, còn Trần Trọng Kim là thủ tướng dưới một hình thái tổ chức chính quyền kiểu quân chủ lập hiến. Nhất cử nhất động của “chính phủ” Trần Trọng Kim đều phải xin phép và phải được sự đồng ý của Nhật. Danh sách nội các mà Trần Trọng Kim trình với Bảo Đại cũng phải được sự chấp thuận của Đại sứ Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama.

Đạo dụ ngày 11-3-1945 của Bảo Đại thực chất là một văn bản dưới sức ép của phát xít Nhật nhằm chối bỏ sự đô hộ của thực dân Pháp đối với Việt Nam, đồng thời đặt Việt Nam nằm trong vòng kiểm soát của nước Nhật. Mang danh nghĩa là vua, nhưng không có thực quyền, nên trong Tuyên ngôn thoái vị ngày 25-8-1945 trước Ngọ Môn, Bảo Đại đã thốt lên rằng: “Trong hai mươi năm ở ngôi, trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước bị trị. Từ nay trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập”. Sau này, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, ông Trần Trọng Kim cũng cay đắng chỉ ra bản chất và thâm ý của phát xít Nhật: “Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng chủng ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp” nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình”.

Dù các thế lực phản động có xuyên tạc, cố tình bóp méo sự thật đi thế nào đi nữa thì lịch sử của dân tộc Việt Nam luôn trường tồn và chứng minh cho những kẻ bán rẻ lương tâm, mất gốc giống nòi “con Lạc cháu Hồng” sáng mắt rằng: Để có được nền độc lập, đó là công sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết để xây dựng, chiến đấu và giành giữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là lãnh tụ vĩ đại, thiên tài của dân tộc Việt Nam, tên tuổi của Người luôn gắn liền với những chiến công vang dội trong việc giành giữ nền độc lập tự do của dân tộc!, chứ không như những gì chúng đang xuyên tạc, bịa đặt.

Q.C.504

CẦN PHẢI KIÊN QUYẾT XỬ LÝ LINH MỤC “NGUYỄN DUY TÂN”

 

Nguyễn Duy Tân, thời gian gần đây thường tham giá các buổi hội luận với các tổ chức phản động trong và ngoài nước về chủ đề tự do báo chí, tự do internet và chống ngược đãi tra tấn “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam.

Tại các buổi hội luận, Nguyễn Duy Tân ra sức xuyên tạc về tình hình tự do báo chí, kêu gọi các tổ chức phản động giúp đỡ vì đến nay bản thân y đã bị nhiều lần bị mời gọi lên đồn Công an về các hành vi vi phạm pháp luật, gây rối trật tự an toàn xã hội. Từ trước đến nay, Nguyễn Duy Tân liên tục có nhiều hành vi nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với chế độ như linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam,… tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây xung đột, gây rối trật tự an toàn xã hội.

Mặc dù đã được Công an Đồng Nai nhắc nhở xử phạt nhiều lần, song linh mục Nguyễn Duy Tân vẫn chưa từ bỏ tư tưởng hận thù chế độ, từng bước vận động giới chức Mỹ, liên tục cấu kết cùng các tổ chức nhân quyền trong và ngoài nước hòng chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bản chất con người của linh mục Nguyễn Duy Tân có lẽ không bao giờ thay đổi. Bởi, khi vẫn còn núp bóng “áo Chúa” thì đối tượng này vẫn tưởng rằng mình “sẽ được bảo vệ” an lành, không ai, chính quyền nào có thể “động đến”. Giống như các linh mục Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục, Nguyễn Thái Hợp.

Có lẽ, Công an Đồng Nai cần phải kiên quyết hơn nữa đối với linh mục Nguyễn Duy Tân và coi đây là “điểm” để phá bỏ quan niệm “chiếc áo Chúa”. Không thể có đối tượng được “miễn trừ” trước pháp luật và càng không có chuyện “pháp luật cả nể” một cá nhân hay một tổ chức nào trong xã hội./.

Q.C.504

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

PHÁT HUY VAI TRÒ, SỨC MẠNH CỦA QUẦN CHÚNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, QUÂN ĐỘI TÍCH CỰC THAM GIA XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” VỮNG CHẮC TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

 


Cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hưởng ứng Lời kêu gọi của Lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1, cả dân tộc Việt Nam nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Chỉ trong thời gian ngắn, từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945, hơn 20 triệu người Việt Nam từ miền Bắc tới miền Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi, đồng loạt nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng thành công trên cả nước, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, thiết lập chính quyền công nông.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những mốc son chói lọi, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Thời gian đã lùi xa, nhưng tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị. Một trong những bài học đó: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lãnh đạo cách mạng thành công, Đảng phải dựa vào nhân dân, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân; khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; trên cơ sở đó, xây dựng mặt trận thống nhất đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân để thực hiện yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khẳng định sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân - người làm nên lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”2; “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”3. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, triệu người như một, quyết chí, đồng lòng đứng lên giải phóng dân tộc khỏi chế độ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Sức mạnh đó là truyền thống quý báu được hun đúc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, không chịu khuất phục trước bất cứ thế lực xâm lược, áp bức nào; là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Xây dựng “thế trận lòng dân”, coi yếu tố “lòng dân” là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng làm nền tảng phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, là bài học lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa xuất sắc trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng, lần đầu tiên thuật ngữ “thế trận lòng dân” được sử dụng. Nghị quyết Đại hội viết: “Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”4. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng xác định: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”5. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân…”6. “Thế trận lòng dân”, thực chất là “lòng dân” - trạng thái chính trị, tinh thần của người dân - được biểu hiện ở lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, sự hài lòng, tin tưởng của nhân dân vào chế độ chính trị - xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, được xây dựng vững chắc, trở thành “thế trận”, sẵn sàng huy động, sử dụng, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” là thực hiện đồng bộ các giải pháp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội làm cho dân no, dân yên, dân tin, dân yêu Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về “lòng dân”, về phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó thể hiện sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; khẳng định tính quy luật, sự kế thừa, phát huy truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.

Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 35 năm qua của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và những kết quả bước đầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; “thế trận lòng dân” được tăng cường. Mặc dù vậy, những hạn chế, yếu kém nảy sinh trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; biểu hiện và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự chống phá của các thế lực thù địch, âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” ngày càng tinh vi, xảo quyệt,… tác động không nhỏ đến niềm tin, tình cảm của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tình hình đó, đòi hỏi toàn đảng, toàn dân, toàn quân phải có các chủ trương, giải pháp phù hợp để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo nền tảng để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ cấp bách hiện nay và là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân, hơn 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tại bất cứ nơi đâu, với tinh thần vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đều sẵn sàng hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ để chiến đấu, bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân; làm nòng cốt cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thảm họa môi trường, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,... làm sáng thêm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào Quân đội nhân dân anh hùng. Phát huy kết quả đó, thời gian tới, để góp phần cùng với các cấp, ngành xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Một làtiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”. Xây dựng “thế trận lòng dân” thực chất là xây dựng, quy tụ, khơi dậy và nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, ý chí của toàn dân tộc để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Thế trận lòng dân” là một bộ phận hết sức quạn trọng trong thế trận quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” phải được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm làm cho nhân tố chính trị - tinh thần của toàn dân luôn được bồi đắp, củng cố và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân không thay thế các chiến lược khác, nhưng nó tạo ra nền tảng vững chắc để xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước. Do vậy, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy (chính trị viên) các cấp phải giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ và tuyên truyền cho nhân dân nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” Quân đội. Một trong những mục tiêu tiến công của chúng là đánh vào lòng dân, làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho nhân dân không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” phải được quán triệt sâu sắc trong tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị và mọi người dân; coi đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, chứ không phải của riêng Quân đội.

Hai làđẩy mạnh tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; truyền thống đoàn kết, yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, các cơ quan, đơn vị tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong Quân đội, các tầng lớp nhân dân quán triệt sâu sắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng các chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và các phong trào, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể địa phương phát động. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nhất là đối với thế hệ trẻ về chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; về vai trò lãnh tụ, cá nhân anh hùng lịch sử, về các tấm gương mẫu mực trong lãnh đạo, chỉ huy, lao động sản xuất, huấn luyện, chiến đấu, học tập, công tác, giúp dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, v.v. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục phải kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị kích động, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Qua đó, củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba làtích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đây là vấn đề quan trọng, thiết thực để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được giải quyết, đời sống của nhân dân được cải thiện, khoảng cách giàu - nghèo được thu hẹp, công bằng xã hội được thực hiện tốt, sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn để củng cố “lòng dân”. Để làm được điều đó, đòi hỏi việc chăm lo đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân phải được tiến hành thường xuyên, thực chất bằng các chính sách cụ thể của Đảng, Nhà nước, làm cho dân no, dân yên, dân tin.

Trong những năm qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ “đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”, các cơ quan, đơn vị Quân đội thông qua công tác dân vận, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nông thôn mới,… đã góp phần giúp nhân dân, nhất là đồng bào vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ổn định cuộc sống. Có thể khẳng định, nơi nào có bộ đội là nơi đó các hoạt động dân vận, giúp nhân dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần được thực hiện hiệu quả. Phát huy kết quả đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục hưởng ứng, thực hiện phong trào Thi đua Yêu nước, các cuộc vận động mà Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức, các ngành, địa phương phát động với tinh thần trách nhiệm cao. Thực hiện tốt Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, các phong trào: “Đền ơn đáp nghĩa”, “Quân đội chúng sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, các chương trình chăm sóc sức khỏe nhân dân,... bằng nhiều hoạt động phong phú, thiết thực. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, sẵn sàng hy sinh, cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các dự án xây dựng và phát triển Khu kinh tế - quốc phòng, nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn dọc tuyến biên giới đất liền, biển, đảo; bố trí, ổn định lại dân cư theo quy hoạch sản xuất và mục tiêu lâu dài về quốc phòng, an ninh, hình thành các cụm làng, xã biên giới, vận động nhân dân chuyển giao kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất, bao tiêu sản phẩm, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập. Qua đó, góp phần giảm nghèo bền vững, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hóa - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an theo Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng, vì sự bình yên cuộc sống của nhân dân.

Bốn làphát huy vai trò của Quân đội trong góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Việc tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện là bản chất, truyền thống của Quân đội ta, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị, nhất là đơn vị làm nhiệm vụ ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào có đạo. Thông qua các hoạt động: kết nghĩa, giao lưu, tạo nguồn cán bộ, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, tăng cường cán bộ Biên phòng tham gia cấp ủy địa phương, cắm thôn, bản, các tổ, đội công tác,… các cơ quan, đơn vị Quân đội đã trực tiếp góp phần xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hàng nghìn lượt cơ sở xã, phường, thôn, bản; đưa nhiều cơ sở từ yếu kém vươn lên khá và vững mạnh; xóa tình trạng “trắng đảng viên” ở nhiều thôn, bản; củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng vững mạnh, hoạt động hiệu quả, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố niềm tin trong nhân dân.

Quán triệt, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh7, toàn quân chủ động phối hợp, tham mưu với cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, tập trung vào cấp xã ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Chú trọng tham gia xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nhất là năng lực cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng sát với tình hình địa phương; xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, luôn gần dân, thấu hiểu và quan tâm giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân; thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở. Đồng thời, giúp Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở đổi mới nội dung, hình thức hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, thực sự là nền tảng để củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”.

Năm làtiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Để phát huy vai trò của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân”, “nói dân nghe, làm dân tin”, đòi hỏi phải quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân nói riêng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW, ngày 08/7/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 855-CT/QUTW, ngày 12/8/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp thực sự là tấm gương sáng để quần chúng noi theo; duy trì nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, v.v. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện tiêu biểu; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, không ngừng tô thắm, lan tỏa hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Xây dựng “thế trận lòng dân” có vị trí, vai trò quan trọng, liên quan trực tiếp đến lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc, sự sống còn của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là vấn đề lớn, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Với chức năng, nhiệm vụ  của mình, Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy vai trò, trách nhiệm thực hiện đồng bộ các giải pháp, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
____________________

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG,  H. 2011, tr. 596.

2 - Sđd, Tập 10, tr. 453.

3 - Sđd, Tập 2, tr. 297.

4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 109.

5 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 234.

6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

7 - Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) “Về củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở”, Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg, ngày 17/10/2005 của Thủ tướng chính phủ về “Tăng cường xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới”, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Nghị quyết số 49-NQ/QUTW, ngày 26/01/2015 của Quân ủy Trung ương về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới”, v.v.

http://tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-75-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-029/phat-huy-vai-tro-suc-manh-cua-quan-chung-trong-cach-mang-thang-tam-quan-doi-tich-cuc-tham-/15848.html

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỘC LẬP, TỰ DO

 

 

 


 Cách mạng Tháng Tám (CMT8) có giá trị vĩ đại không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại. Thế nhưng hiện nay, vẫn có thế lực từ bên ngoài với tâm địa đen tối, bằng những lập luận thiếu tử tế hòng xuyên tạc và phủ định giá trị của CMT8.

Họ cho rằng không cần phải làm CMT8 vì với xu thế chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp rất muốn và sẽ tự trao trả độc lập cho Việt Nam. Hơn nữa, họ còn cho rằng dân tộc Việt Nam cũng không cần độc lập mà cứ là một thuộc địa của Pháp thì sẽ phát triển hơn. Đáng buồn và đáng giận là vẫn có những người Việt Nam thuộc thế hệ sau được hưởng thành quả từ xương máu của thế hệ đi trước, nhưng vì thiếu hiểu biết, suy nghĩ nông cạn đã bị ảnh hưởng từ những thông tin sai trái, để rồi có những lời lẽ vô ơn khi nhắc tới CMT8. 

Đầu tiên cần phải khẳng định, thắng lợi của CMT8 năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một quốc gia-dân tộc độc lập, có chủ quyền. Về ý nghĩa vĩ đại của CMT8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày CMT8, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô... CMT8 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn biển”(1). CMT8 cũng trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập.

Thực tế là Việt Nam giành chính quyền từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ thực dân Pháp. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc nêu rõ rằng, thực dân Pháp “đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là "mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương... thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật". Rồi ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đã đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp không chỉ ở Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Sau đó, phát xít Nhật đã dựng lên một chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim đứng đầu. Chính phủ này chỉ tồn tại trên giấy, không làm gì và cũng không thể làm gì. Mọi quyền hành đều trong tay phát xít Nhật.

Như thế, câu chuyện thực dân Pháp trả độc lập, tự do cho Việt Nam là điều hoàn toàn nực cười cả về pháp lý, đạo lý và thực tế lịch sử. Vì người ta không thể “cho” hay “trả” cái mà người ta không có.

Và thực dân Pháp có muốn trả độc lập, tự do dân tộc Việt Nam không? Thực dân Pháp không bao giờ muốn! Lịch sử đã cho thấy rõ ràng! Khi thế cuộc của Chiến tranh thế giới thứ hai đã rõ ràng với chiến thắng của phe Đồng minh, thực dân Pháp đã có mưu đồ quay trở lại xâm lược nước ta. Ngay sau khi nước ta giành độc lập, thực dân Pháp theo chân quân Mỹ, Anh vào Nam Bộ để giải giáp quân Nhật. Ngày 23-9-1945, quân Pháp bất ngờ tấn công để lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ tại Nam Bộ. Nam Bộ bị quân Pháp dìm trong bể máu. Độc lập, tự do của nhân dân ta ở Nam Bộ chỉ không đầy một tháng lại bị thực dân Pháp tước đi. Cả Nam Bộ đứng lên kháng chiến để đánh đuổi quân Pháp. Sau khi tấn công chiếm Nam Bộ, Pháp tiếp tục đưa quân ra miền Bắc, liên tục khiêu khích, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Nhiều lần Chính phủ ta đã tỏ thiện ý thương lượng, đàm phán, với sự nhân nhượng vì mong muốn duy trì hòa bình, tránh đổ máu cho dân tộc nhưng không thể được trước tâm địa đen tối của thực dân Pháp quyết cướp nước ta một lần nữa. Quân Pháp quyết gây chiến tranh khi liên tiếp gây ra các vụ thảm sát tại Hải Phòng và Hà Nội. Sau đó, ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi hai tối hậu thư liên tiếp, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Đến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Cả dân tộc đứng lên trường kỳ kháng chiến 9 năm để đánh đuổi thực dân Pháp, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết. Thế nhưng thực dân Pháp rút đi thì đế quốc Mỹ cũng ngay lập tức thế chân tại miền Nam, với mưu đồ biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và để từ đó tấn công phá hoại miền Bắc. Lịch sử đã chứng minh rằng, các nước thực dân, đế quốc luôn muốn đặt ách thống trị tại Việt Nam, không bao giờ muốn nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do. Từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta đã phải anh dũng, kiên cường chiến đấu suốt 30 năm nữa, đổ bao xương máu mới có được độc lập, tự do, thống nhất trên cả nước.

Ấy thế mà ngày nay, vẫn có những kẻ muốn lừa bịp giới trẻ, vẽ ra ảo tưởng thực dân, đế quốc tốt bụng, sẽ trao trả độc lập, tự do cho dân tộc ta, đem lại sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân ta và chúng ta chẳng cần phải làm gì, chỉ trông chờ vào sự tốt bụng đó.

Nguy hiểm hơn, có những người mang dòng máu Việt Nam lại gieo rắc luận điệu cho rằng, nước ta chẳng cần độc lập để làm gì, mà cứ giữ là thuộc địa của Pháp có khi lại phát triển hơn, đời sống người dân sung sướng hơn. Luận điệu ấy chắc chắn chỉ có trong đầu óc của những kẻ thiếu tử tế và thiếu nhân cách. Suy nghĩ ấy là của những kẻ luôn muốn ăn bám và tư duy lệ thuộc. Đó là những kẻ không xứng đáng đứng trước tổ tiên để nhận mình là con cháu Việt Nam. Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy ý thức, khát vọng độc lập, tự chủ đã ăn sâu vào máu của mỗi người Việt Nam. Người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh chứ quyết không chịu đặt dưới ách cai trị của dân tộc khác. Dân tộc Việt Nam cũng không chịu để kẻ thù cướp đi bất cứ tấc đất nào của cha ông để lại.

Khi đọc những lời lẽ hùng hồn trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh bất ngờ dừng lại và hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Và cả triệu người đồng thanh đáp lại vang dội: “Có!”. Trong giờ phút ấy, chắc hẳn từ vị Chủ tịch nước cho tới từng người dân đều xúc động nghẹn ngào, nhiều giọt nước mắt đã rơi... Tại Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh), do hạn chế về kỹ thuật, không thể tiếp sóng phát thanh trực tiếp lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ tuyên ngôn độc lập từ Quảng trường Ba Đình, do đó, ông Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đã được đề nghị lên phát biểu. Trong phát biểu của mình, ông Trần Văn Giàu cũng nêu rõ: “Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập... Việt Nam đương tiến bước trên đường sống”. Ông cũng đã chỉ rõ mưu toan của thực dân Pháp: “Kẻ địch toan tính một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên cổ 25 triệu đồng bào”. Ông đã hỏi những người dự lễ: “Đồng bào ở đây có ai thừa nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không? Có ai chịu bó tay để cho chế độ thực dân-ra mặt hay giấu mặt-trở lại không?”. Sau mỗi câu hỏi của ông, cả triệu người đồng thanh đáp lại: “Không! Không! Không!” vang dội cả góc trời. Thay mặt hàng triệu người dân Nam Bộ, ông Trần Văn Giàu nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ quốc: “Chúng ta thề cương quyết đứng bên cạnh Chánh phủ, chống mọi sự xâm lăng, dầu chết cũng cam lòng”(2).

Chính vì ý thức, khát vọng độc lập, tự do rất mãnh liệt như vậy nên dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dân tộc ta vẫn giữ được bản sắc của mình, không bị đồng hóa như rất nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã từng tồn tại và biến mất.

Cái ý nghĩ, mong muốn nhờ vào ngoại bang để có được hạnh phúc, phồn vinh đã bị không chỉ lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử nhân loại chứng minh sự sai lầm. Suy nghĩ sai lầm tai hại ấy không chỉ làm cho nhiều thế hệ hào kiệt, nhiều nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam phải sa cơ, thất bại mà còn làm cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của chúng ta kéo dài. Phải đến khi nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước chân chính, đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì sự nghiệp giải phóng dân tộc mới đi đúng hướng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” chính là thể hiện tinh thần, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường của cuộc CMT8. Đó chính là phương thức cứu nước đúng đắn mà thế hệ trước đã tìm ra, đã thực hiện thành công và trao truyền lại cho thế hệ những người Việt Nam tiếp theo. Ngày nay, bài học vô giá phải trả bằng máu đó phải được tiếp tục khắc cốt ghi tâm trong những người con mang dòng máu Việt Nam. Dân tộc ta không thể phó mặc, không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào để bảo vệ chủ quyền đất nước, để được độc lập, tự do. Dân tộc ta cũng không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc, quốc gia nào để được hạnh phúc, phồn vinh, phát triển. Chúng ta trước hết phải dựa vào sức mình! Bằng tinh thần đoàn kết, bằng trí tuệ, ý chí, sức lực, lòng dũng cảm của mình, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều đó! Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ trường tồn!

Đã gần 75 năm kể từ ngày lời Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang vọng trên Quảng trường Ba Đình. Việt Nam của chúng ta ngày nay đã rất khác xưa, đã là một đất nước độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình, hạnh phúc và đang ngày càng phát triển. Với vị thế quốc gia của mình, Việt Nam có tiếng nói ngày càng có trọng lượng trên trường quốc tế, được bạn bè quốc tế lắng nghe, tin tưởng và nể trọng. Tất cả thực tế đó đã chứng minh những luận điệu xuyên tạc về CMT8 là hoàn toàn sai trái, không thể có chỗ đứng trong lòng những người Việt Nam chân chính và nhân loại có lương tri.   

HỒ QUANG PHƯƠNG

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 14, tr621, tr622.

(2) TS Phan Văn Cách mạng Tháng Tám và văn hóa ngoại giao Hồ Chí Minh

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...