Thứ Hai, 20 tháng 1, 2020

CẢNH GIÁC VỚI MƯU ĐỒ PHỦ NHẬN HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC



                                                                                         Tất Thắng
Sáng tạo ra học thuyết giá trị thăng dư, C.Mác đã làm một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế - chính trị học, chỉ ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản, vạch trần “bí mật” của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư do sức lao động của những người lao động làm thuê tạo ra. Bóc lột giá trị thặng dư là bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa tư bản, là đầu mối của mọi mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao động, là vấn đề không thể giải quyết được trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ph.Ăngghen cho rằng, việc phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư là công lao vĩ đại nhất của C.Mác. Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cùng mò mẫm trong bóng tối không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nhưng từ khi ra đời cho đến nay, học thuyết giá trị thặng dư cũng là một trong những trọng điểm mà kẻ thù của chủ nghĩa Mác và các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội tập trung xuyên tạc, bóp méo nhất. Họ cố tình lý giải theo “cách riêng của mình” rằng, chính máy móc tạo ra giá trị, còn sức lao động của người công nhân nếu được trả công sòng phẳng đúng với giá trị của anh ta thì nhà tư bản không có cái gọi là bóc lột công nhân mà họ chỉ làm giàu chính đáng nhờ bóc lột máy móc. Ở đây, mánh khóe của họ là muốn phủ nhận học thuyết giá trị thăng dư, vì nếu đúng như thế thì lý luận của Mác còn có ý nghĩa gì.
Thực chất, luận điệu này cũng không có gì mới mẻ. Ngay từ sớm, chính C.Mác đã chỉ ra rằng: Cũng như mọi bộ phận cấu thành khác của tư bản bất biến, máy móc không tạo ra một giá trị nào cả, nhưng nó chuyển giá trị của bản thân nó vào sản phẩm mà nó được dùng để chế tạo ra. Dĩ nhiên, C.Mác hiểu rất rõ rằng máy móc càng tinh xảo, kỷ thuật càng hiện đại thì năng suất lao động càng cao, sản phẩm lao động càng nhiều. Nhưng dù máy móc có vai trò quan trọng đến đâu đi chăng nữa cũng không tự nó chuyển được giá trị vào sản phẩm, chứ chưa nói đến việc tạo ra giá trị mới. Máy móc dù hiện đại như thế nào, muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua lao động sống của con người, lao động đó gồm cả trí lực và thế lực, lao động sáng tạo, có mục đích của con người.
Theo C.Mác, không bao giờ máy móc có thể chuyển vào sản phẩm mới một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã mất đi trong quá trình sản xuất. Nghĩa là, trong sản phẩm mới, giá trị của máy móc được “bảo toàn”, được “chuyển sang”, được “tái hiện”, và trở thành những bộ phận cấu thành “bất biến” của giá trị sản phẩm, chứ bản thân nó không tạo ra giá trị mới. Có thêm giá trị mới được tạo ra là do lao động của người công nhân đã bị kéo dài trong một thời gian nhất định, giá trị mới này gồm tiền công và giá trị thăng dư. Với những luận chứng rõ ràng, đầy sức thuyết phục, C.Mác đã làm rõ vấn đề hết sức cốt lõi: Lao động sống vừa bảo tồn được giá trị của máy móc trong sản phẩm mới, vừa tái sản xuất ra vật ngang giá trị với bản thân mình, và còn sản xuất ra một số dư là giá trị thặng dư. Và C.Mác kết luận: Chỉ có lao động sống mới là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Hiện nay, các học giả tư sản còn lập luận rằng: Quy luật giá trị thặng dư có thể tác động trong thời kỳ kinh tế công nghiệp, nhưng quy luật ấy không có tác dụng trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, thời đại kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức. Trước đây, giai cấp công nhân, người lao động bán sức lao động, nhưng ngày nay, họ không thể bán tri thức, trí tuệ được,… Ngày nay, làm ra giá trị không phải chủ yếu do lao động trực tiếp, bóc lột không phải do chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, mà hình thức hiện nay, hình thức quan trọng hơn hết của tài sản lại là những thứ không thể trực cảm được. Nó là siêu tượng trưng, siêu ký hiệu, nó là tri thức, chất xám.
Thêm vào đó, các nhà kinh tế học tư sản hiện nay còn lập luận rằng: Trong học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác quá đề cao lao động cơ bắp và coi nhẹ hoặc không thấy hết vai trò của lao động trí lực, lao động quản lý trong quá trình tạo ra giá trị. Điều đó càng không đúng. Khi hỏi về lao động trừu tưựng, chính C.Mác đã chứng minh đó là sự hao phí về sức óc, thần kinh, cơ bắp. Không chỉ thế, Mác còn phân biệt rất rõ giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, sản phẩm của một phút lao động phức tạp là một hàng hóa có giá trị cao hơn, thậm chí cao hơn rất nhiều lần so với sản phẩm của một giờ lao động giản đơn. Cũng chính vì đặc biệt coi trọng lao động trí tuệ nên C.Mác đã từng dự báo khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là một động lực của lịch sử, là một lực lượng cách mạng.
Những luận cứ, luận chứng và cách lập luận sâu sắc, lôgíc chặt chẽ,… thể hiện ở mỗi nguyên lý, mỗi luận điểm trong học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác cho tới nay vẫn là chân lý được thực tiễn kiêm nghiệm. Những sáng tạo và phát triển của các thế hệ sau vẫn phải lấy học thuyết này của C.Mác đặt nền móng, làm cơ sở và điểm xuất phát. Và rất nhiều vấn đề còn nghi vấn, tranh luận xuất hiện xung quanh học thuyết của Mác cũng phải quay về, trở lại tìm sự gợi ý và chỉ dẫn của C.Mác và Ph.Ăngghen.

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG BIẾN THÁI MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” HIỆN NAY



                                                                                       Tất Thắng
Gần đây, các chiến lược gia của chiến lược “diễn biến hòa bình” đã bổ sung vào luận thuyết phản động ấy những chiêu thức mới rất tinh vi, xảo quyệt. Những gì mà trước đây chúng đã làm, bị chúng ta phát hiện, lật tẩy, vạch mặt và giáng trả những đòn đau đớn thì nay hầu như chúng đã “thay hình đổi dạng”, thậm chí những âm mưu, thủ đoạn mới trở nên tinh vi, xảo quyệt và nham hiểm hơn. Vì vậy, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện đúng, cảnh giác và vạch trần bản chất, âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, không lúng túng, bất ngờ, hoang mang. Mọi cán bộ, đảng viên cần bình tĩnh xem xét, phân tích và nhận rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm mà các thế lực thù địch đang ra sức chống phá, từ đó làm thật tốt công tác tuyên truyền tới các tầng lớp nhân dân, vạch rõ sự gian trá cả về mặt lý luận và thực tiễn mà các thế lực thù địch đã, đang và tiếp tục rao giảng.
Bên cạnh đó, cũng cần phân biệt các quan điểm sai trái, thù địch với các ý kiến đóng góp của một số cử tri theo hướng xây dựng, gạn đục khơi trong, tâm huyết với con đường phát triển của đất nước,,… Đã là người Việt Nam yêu nước, có lương tâm, hiểu biết đạo lý, biết phân biệt phải trái, đúng sai, thật giả, chắc chắn sẽ nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đang rắp tâm chống phá Việt Nam.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay và những năm tới ở nước ta dù tinh vi hay khoác áo, đội lốt như thế nào thì về bản chất vẫn là một hình thái mới của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, tinh vi và lâu dài trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống,... của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả dân tộc ta nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần nhận thức dứt khoát, rõ ràng rằng, cuộc đấu tranh này không chỉ có ý nghĩa về mặt giai cấp mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt dân tộc. Tách rời hay đối lập hai nội dung đó sẽ dẫn tới sai lầm trong nhận thức, chỉ đạo và tổ chức đấu tranh. Giành thắng lợi trong  phòng, chống “diễn biến hòa bình”, chúng ta mới có thể giữ vững được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và giữ được chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Do đó, nếu lơ là, mất cảnh giác, nghi ngờ cho rằng, Đảng thổi phồng nguy cơ “diễn biến hòa bình, tự chuyển hóa, tự diễn biến” từ đó lẩn tránh, không tích cực, thiếu chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch thì sự tồn tại của dân tộc, chủ quyền quốc gia và của chế độ bị đe dọa trực tiếp. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, chống bạo loạn, lật đổ cần trở thành quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
Để tránh lơ là, mơ hồ, mất cảnh giác trước những biến thái mới của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam cần làm tốt công tác dự báo. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, cấp thiết. Bởi, có nắm chắc, dự báo chính xác tình hình thì mới chủ động trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, cơ chế và có đối sách xử lý đúng, kịp thời và hiệu quả các tình huống xảy ra, bảo đảm không bị động, bất ngờ về chiến lược. Mặt khác, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và mỗi người nhân dân mức độ nguy hại của nó và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh phòng, chống.





Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2020


LẠI MẤY CHỨNG BỆNH “VĨ CUỒNG” VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

Vẫn nhớ những “khuôn mặt tư tưởng” đã quen. Và, vẫn hiện tồn qua đó những “linh hồn tư tưởng” với các luận đề cũng trở nên quá nhàm nhưng lại ảo vọng thành những “vĩ nhân” trong chuyện làm huyên náo “học thuật chính trị”...
Rốt cuộc, tất cả đã rơi tõm vào im ắng, và chẳng ai còn nhớ gì các vị nữa.
Chẳng hiểu có phải vì cả thẹn bởi những chuyện đó hay không mà ít năm nay các vị cũ ấy và lác đác thêm vài dung mạo nữa bỗng dưng đùng đùng tự lăng-xê mình bằng cái trò “đốt đền Ác-tê-mi”, khiến không ít người, dù hiền nhất, cũng phải bực mình.
Các vị ấy “đốt đền Ác-tê-mi” kiểu gì?
Bằng cách, qua đài báo của các thế lực thù địch ở hải ngoại, họ hô hoán toáng lên; và đồng thời, “du thuyết cao đàm khoát luận” khắp nơi để huyên truyền, để ầm ỹ phát tán cái “tâm huyết”, để trương ra tá hỏa trên sách báo hải ngoại, trên mạng xã hội những sự “uyên bác” của mình bằng những cuộc “tọa đàm nhỏ” hay dưới dạng những “huyết thư về Việt Nam”(!)
Các vị ấy nói những gì?
Nhìn tổng thể, kỳ thực, chúng ta thấy rất nhiều ý kiến cũ mèm hay đại loại như vậy trong hàng đống sách báo chống chủ nghĩa xã hội, chống Việt Nam của đủ hạng người trong và ngoài nước, đã mấy mươi năm nay.
Mặc nhiên vậy, điều chúng ta buộc lòng phải trao đổi ở đây là, liệu tất cả những điều “tâm huyết”, “khuyến nghị” của họ có thực sự đúng đắn không?; có “hoàn toàn vô tư, trong sáng”, như đã từng khuếch trương trong các lời “phi lộ” của họ không?
Trước hết, đó là chung quanh vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa
Họ cho rằng, việc Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra định hướng xã hội chủ nghĩa là “thừa”, là “vô nghĩa”, do đó “chỉ cần đặt vấn đề xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh là đủ, cần gì phải định hướng xã hội chủ nghĩa”(!)
Xin thưa rằng, 89 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân Việt Nam, xét về lô-gíc, là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam; xét về xu thế phát triển của thời đại và xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng của nhân dân lao động Việt Nam.
Hẳn ai cũng đều biết, chẳng cứ gì xã hội xã hội chủ nghĩa, mà bất cứ xã hội nào khác, trong tiến trình phát triển của mình đều cần có một sự hoạch định từ phương hướng đến bước đi. Ở tầm vĩ mô, lịch sử thế giới càng về cuối thế kỷ XX càng trở nên rất rõ ràng, là thời kỳ lịch sử phát triển rút ngắn, với gia tốc mạnh mẽ chưa từng thấy; đồng thời xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa về kinh tế với tốc độ chóng mặt tạo nên một thế giới chỉnh thể vừa hợp tác, vừa đấu tranh hết sức phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc. Bối cảnh đó đã làm xuất hiện tính đa dạng của sự phát triển và sự phát triển có tính ngắn hạn. Thực tiễn nóng bỏng và gay gắt trong cuộc chạy đua để tìm hướng đi và giải pháp phát triển, và nhất là khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI đã bật lên hàng loạt vấn đề mới mẻ và xác nhận rằng, sẽ chỉ còn lại những quốc gia, dân tộc nào đã xác định rõ rệt và đúng đắn hướng đi, có một nội lực đủ mạnh, bền vững và đủ khả năng thích ứng nhằm tiến tới hội nhập hiệu quả vào thế giới. Trong số những bài học ấy, bài học về lựa chọn mục tiêu và hoạch định phương hướng phát triển trở thành bài học có ý nghĩa căn bản, then chốt, có ý nghĩa tồn vong trước hết đối với bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Đó chính là vấn đề có tính thời đại về tư tưởng phát triển đúng hướng, mạnh mẽ và bền vững.
Việt Nam trên con đường phát triển của mình không nằm ngoài quy luật ấy.
Đối với Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở tiền đề, mục tiêu, mà rộng lớn và sâu sắc hơn, nó còn bao hàm sự nhận thức tất cả các tính quy luật, bản chất của chủ nghĩa xã hội quy định toàn bộ sự vận động của xã hội Việt Nam hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được thể hiện thông qua con đường, phương thức, bước đi và hệ giải pháp theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử nên quá trình nhận thức và tổ chức thực tiễn sẽ hết sức khó khăn, lâu dài, thậm chí có cả những khúc quanh co, thất bại tạm thời. Bởi vậy, xét về nhu cầu thông thường tối thiểu, định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu. Chúng ta có thể giả định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường thẳng để có thể hình dung rõ đâu là bước đầu, đâu là bước tiếp theo, đâu là bước cuối cùng để tránh khỏi lạc đường và mất phương hướng. Thực tiễn phát triển cho thấy, phương pháp chắc chắn nhất và cần thiết nhất để thực sự có được thói quen xem xét vấn đề đó một cách đúng đắn, và không để lạc hướng trong rất nhiều chi tiết, hoặc trong rất nhiều ý kiến đối lập nhau - điều quan trọng nhất là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào.
Nhưng trên thực tế, con đường đó không phải là con đường thẳng tắp, trơn tru mà nó rất quanh co, phức tạp. Để tránh chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn dẫn tới tình trạng làm cho con đường đó càng phức tạp, quanh co hơn, thậm chí chệch hướng, nên không thể không hoạch định những giới hạn cho phép, trong khả năng cụ thể, vững vàng đi tới mục tiêu đã vạch ra. Đó chính là quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do đó, sự thống nhất về nhận thức, sự đồng tâm về tư tưởng, sự tỉnh táo và đúng đắn trong việc xử lý các cảnh huống có ý nghĩa hết sức to lớn, thậm chí có vai trò quyết định. Đặc biệt, việc khắc phục và ngăn ngừa những khuynh hướng tự phát, vô chính phủ, nhất là chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa thực dụng, là chệch hướng xã hội chủ nghĩa, ở đây, là vấn đề vừa mang tầm chiến lược, vừa có tính nóng bỏng, cấp bách. Vì vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng không thể không bao hàm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tầm cỡ, quy mô, tốc độ và chiều sâu của công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh thời đại hiện nay, càng đòi hỏi nghiêm ngặt phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, cho dù hiện nay xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa về kinh tế có phát triển đến đâu đi nữa thì vẫn nguyên vẹn còn đó cuộc đấu tranh quốc gia, đấu tranh dân tộc, dù dưới hình thức này hay khác. Và dù chúng ta có “mở cửa”, “hội nhập” thế giới đến đâu đi nữa thì trong điều kiện phức tạp ấy, phải có nguyên tắc. Nguyên tắc tối cao là bảo vệ triệt để lợi ích dân tộc tối thượng, lợi ích quốc gia tối cao theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Do đó, hiển nhiên là không thể có “mở cửa”, “hội nhập” chủ động, đúng đắn và hiệu quả, nếu không bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, không giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ là yêu cầu có tính nguyên tắc, là nhu cầu nội tại trọng yếu, thường xuyên của tiến trình phát triển đất nước mà còn quyết định sự thành bại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, quyết định sự “mất, còn” của dân tộc Việt Nam. Bởi, nếu xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới “những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực tiễn, sẽ đưa tới nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và như thế “sẽ phải trả giá rất đắt, có khi không cứu vãn được”, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định. Do đó, nhất định phải tiến hành định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói khái lược, Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình xác định những giới hạn, những “độ” tồn tại lịch sử cụ thể của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới mục tiêu cuối cùng, mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những “độ” ấy có thể và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, thực chất của toàn bộ quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa là hoạch định một hành lang hoạt động cho phép, phù hợp thực tế và những quy luật khách quan, với những tiêu chí xác định, thông qua một cơ chế thích hợp xuyên suốt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng nhằm đạt hiệu quả mong muốn, chứ quyết không phải thứ tù mù “chủ nghĩa nào cũng được miễn là giàu mạnh” (!). Đó chính là nhiệm vụ trung tâm của quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghĩa là chúng ta không ngừng kiến lập và phát triển: Tầm nhìn chiến lược - Định vị chiến lược quốc gia - Xây dựng quyết sách phát triển chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam chính là định hướng xã hội chủ nghĩa vậy!
Bởi vậy, một cách hiển nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu, một nhu cầu, một phương án phát triển duy nhất đúng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; và hơn nữa, nó cần luôn được xem xét, bổ sung và hoàn chỉnh không ngừng.
Quả đúng rằng, khi người ta lén lút đưa dã tâm và núp dưới danh nghĩa cái gọi là khoa học mưu toan bài xích chủ nghĩa xã hội, thì nói như V.I. Lê-nin, tự nó đã lòi ra cái đuôi kỳ thị vô lối, thậm chí là cái đuôi hằn học của những kẻ đối lập về ý thức hệ.
Thứ hai là chung quanh vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Họ cho rằng, “Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một điều kỳ quặc, trái quy luật”(!)
C. Mác đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng: Lịch sử là một quá trình phát triển tự nhiên. Ai cũng biết, luận điểm này xuất phát từ vai trò của nhân tố kinh tế rằng: Không một chế độ xã hội nào lại tự bị diệt vong khi tất cả những lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển, vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Kết luận này của C. Mác là hoàn toàn chính xác, nếu xét ở tầm bao quát lịch sử, mang tính khuynh hướng của một thời đại.
Nhưng, nếu xét ở những trường hợp đặc thù, tại một thời điểm lịch sử cụ thể, thì không phải bao giờ kinh tế cũng là cái duy nhất quyết định. Bởi, kết luận trên của C. Mác là một kết luận có tính triết học - lịch sử. Hơn nữa, như đã biết, trong điều kiện cụ thể, C. Mác chú ý nhấn mạnh nhân tố kinh tế , và Người xem nó trong tư cách khi “xét cho đến cùng” mà thôi. Vì, C. Mác thừa hiểu rằng, sự phát sinh, tồn tại, phát triển của một chế độ xã hội không chỉ phát sinh từ các điều kiện kinh tế, mà còn bắt nguồn từ các vấn đề không thể tách biệt là xã hội, chính trị... Còn ai đó chỉ cố bám vào cái luận đề “không tất yếu về kinh tế” để nhằm bài xích “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” của Việt Nam, chẳng khác gì cái xu hướng muốn giải đáp những vấn đề cụ thể bằng cách phát triển một cách đơn thuần lô-gíc chân lý chung... là một cách lập luận tầm thường hóa chủ nghĩa Mác và chỉ chế giễu một cách mù quáng chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thôi. Vả nữa, “cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định như thế, - Ph. Ăng-ghen viết như thế - còn ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”.
Thực tế cho thấy, vô số các quốc gia ở vào tình thế như vậy. Khi V. I. Lê-nin tuyên bố: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc” thì không ít người phương Tây thiếu thiện chí cho rằng, đó là trò không tưởng. Song chỉ 15 năm sau đó, Liên Xô trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh. Rõ ràng, ở những trường hợp cụ thể nhất định, thì khoa học và ý chí thực sự đã làm biến đổi kinh tế. Và nữa, cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 chẳng hạn. Cuộc cách mạng này nổ ra khi trong lòng xã hội Pháp lực lượng sản xuất đại diện cho phương thức sản xuất mới còn chưa phát triển tới trình độ để mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất phong kiến. Ở thời đoạn này, người ta thấy nổi bật lên vai trò của những tư tưởng đi tiên phong. Vì hàng chục năm trước đó, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng như J. Rút-xô, C. Mông-te- xki-ơ, Vôn-te (bút danh của Francois-Marie Arouet), Đ. Đi-đrô và các nhà kinh tế, như J. Ma-bli, Mô-ren-li... đã phê phán chế độ phong kiến, cổ vũ tư tưởng dân chủ tư sản đó sao.
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), một loạt nước châu Á và khu vực Mỹ La-tinh đã xây dựng các chế độ xã hội chủ nghĩa ở một xuất phát điểm về trình độ sức sản xuất thấp hơn nước Nga đương thời rất nhiều. Rõ ràng, lịch sử là một quá trình tự nhiên, nếu “xét cho đến cùng”, khi lấy nhân tố kinh tế để bao quát lịch sử là hoàn toàn đúng. Song, trong nhiều trường hợp lịch sử cụ thể, như đã thấy, hoặc lúc này nhân tố kinh tế là quyết định, hay lúc khác nhân tố tư tưởng, ý chí lại đóng vai trò tiên phong. Cho nên, nếu cứ khư khư xem cái nhãn hiệu gọi là “tất yếu kinh tế” để gán cho bất cứ mọi sự vật, hiện tượng lịch sử khác nhau thì chẳng khác gì cái lối đã từng bị Ph. Ăng-ghen chỉ trích, “dùng đòn bẩy để kết cấu theo kiểu của phái Hê-ghen”, chẳng khác gì tự giam mình vào “một khuôn mẫu đúc sẵn, theo đó người ta đẽo gọt những sự kiện lịch sử tùy theo ý muốn”. Rốt cuộc, “... họ đã phạm phải những điều hết sức kỳ quái” và “rối rắm một cách lạ lùng”, như Ph. Ăng-ghen từng nói.
Các hình thái kinh tế - xã hội thông thường được xây dựng như một quá trình tiệm tiến và liên tục từ thấp đến cao, bước sau phải bao gồm các bước trước có tính chất tuần tự. Nhưng, sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại, bên cạnh đó, lại diễn ra với những bước nhảy vọt. Chẳng hạn, người Giéc-manh từ xã hội thị tộc chuyển thẳng lên xã hội phong kiến, không qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp, La Mã cổ đại tạo ra chế độ chiếm hữu nô lệ điển hình, nhưng không xây dựng xã hội phong kiến. Và người Giéc-manh lại không phải là người tiên phong “tiến lên” chế độ tư bản mà đó lại là người Ăng-lô Sắc-xông... Còn hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh đều không trải qua các hình thái kinh tế - xã hội phát triển. Cụ thể là, không có nước nào lúc đó tiến lên chủ nghĩa tư bản. Cơ sở của đại đa số các xã hội này vẫn là các công xã nông thôn tồn tại trong lịch sử cho tới thế kỷ XIX và một phần còn kéo sang thế kỷ XX.
Rõ ràng, một chế độ xã hội cụ thể khi đã suy tàn, xét trong tiến trình phát triển tự nhiên, có thể tiến lên hai hoặc thậm chí ba hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, chứ nhất thiết không phải chỉ tiến lên một hình thái cao hơn liền kề với nó. Nghĩa là, không nhất thiết tiến lên một cách tuần tự, mà tiến lên với bước nhảy vọt. Từ chế độ xã hội nguyên thủy, nước này có thể tiến lên xã hội theo kiểu “phương thức sản xuất châu Á”, như Ấn Độ, Ai Cập; nước khác bước sang chế độ chiếm hữu nô lệ, như trường hợp Hy Lạp; nước khác nữa lại nhảy vọt lên chế độ phong kiến, như Giéc-manh... Cùng xuất phát từ chế độ phong kiến nửa thuộc địa như Trung Quốc hoặc thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, nhưng các nước này không tiến lên chủ nghĩa tư bản mà đều tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điển hình là, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào vượt qua hai nấc thang trong tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên để đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy rằng, cùng với hiện tượng tuần tự của lịch sử còn nổi bật lên hiện tượng lịch sử nhảy vọt, như chúng ta đã thấy. Nói cách khác, đó là sự phát triển đứt đoạn trong liên tục, tuần tự kết hợp với nhảy vọt biện chứng của lịch sử(1).
Cho nên, tiến hóa là cái bên trong (giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất) cộng với thời cơ phát triển bứt phá. Do đó, việc “bỏ qua” một hay nhiều giai đoạn là vấn đề mang tính quy luật và là hiện thực, chỉ có điều còn tùy thuộc vào khả năng hiện thực bên trong với sự liên kết nguồn động lực với bên ngoài và chớp đúng thời cơ phát triển mà thôi. Một quốc gia còn ở trình độ tiền tư bản chủ nghĩa vẫn có thể tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không nhất thiết phải kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa một cách tuần tự cứng nhắc hay nhất thành bất biến nào đó, như mấy ai vẫn khư khư nghĩ. Nước Việt Nam trong tiến trình phát triển của mình cũng không nằm ngoài tính quy luật và thực tiễn lịch sử có tính phổ biến ấy. Đó là biện chứng của lịch sử.
Cách đây tròn 99 năm, chung quanh vấn đề “bỏ qua” này, tại diễn đàn Đại hội lần thứ II của Quốc tế cộng sản, V.I. Lê-nin đã luận chứng rất rõ ràng: Đối với dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng. Và trên thực tế, các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào... đã chuẩn bị toàn diện cho mình những điều kiện cần và đủ để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo phương thức “bỏ qua” đầy thuyết phục này.
Đó là tất yếu lịch sử.
Vậy là, không chỉ trên phương diện lý luận, mà rõ ràng cả trên bình diện lịch sử đã chứng minh hết sức chắc chắn và phong phú, chỉ có điều trái với những suy nghĩ đầy kỳ quặc và thiếu thiện ý của những ai đó về vấn đề “bỏ qua” này ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thôi. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chứ không bỏ qua những thành quả văn minh của loài người (kinh tế, khoa học công nghệ...) được tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba là vấn đề Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cách nay hơn ba năm (tháng 1-2016), có vị khăng khăng rằng: “Làm gì có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà tìm” (!)
Xin được nói ngay, cách nay hơn 18 năm, tức là sau 15 năm đổi mới và thực thi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ thực tiễn, đồng chí U. Côi-chi-ô, Trưởng Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản, tham dự Đại hội IX của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận định: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử. Chúng tôi hy vọng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”(2), thì há còn gì để nghi ngờ nữa?
Vả nữa, hiện nay, ai cũng biết, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước... Đặc biệt, đối ngoại đa phương được nâng tầm, Việt Nam chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của quốc tế theo phương châm chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo đảm được các lợi ích thiết thân của Việt Nam tại các diễn đàn quan trọng, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Việt Nam đã thực sự là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trên cả ba cấp độ: song phương, khu vực và toàn cầu. Việc tổ chức thành công Năm APEC 2017 là minh chứng sống động cho thấy hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới, qua đó bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần của “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Việc Việt Nam được bầu với số phiếu rất cao vào Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế - xã hội, Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO... cho thấy mức độ tin cậy của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam trong việc gánh vác trách nhiệm chung.
Hoạt động đối ngoại được triển khai mạnh mẽ và sâu rộng theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Việt Nam cùng các nước thành viên kiên trì nền tảng hướng tới một Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam cũng đang cùng các nước tích cực thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao vận động và thúc đẩy Liên minh châu Âu sớm ký kết, phê chuẩn và triển khai thực hiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Lãnh đạo các nước đối tác cũng nhất trí cùng Việt Nam triển khai một cách hiệu quả Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu. Nên nhớ, ngay từ năm 2015, Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục, há chẳng đủ để thấy thực lực và sức mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam sao hay còn cần gì nữa!?
Mười một nước thành viên CPTPP chụp ảnh chung sau khi ký hiệp định CPTPP tại Chile (năm 2018) _Nguồn: Reuters
Thị trường và kinh tế thị trường ra đời cách đây hơn 1.300 năm. Từ thế kỷ XVI trở đi, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật mạnh mẽ chưa từng thấy và với tốc độ ngày càng lớn. Giai cấp tư sản tìm mọi cách tận dụng nó để đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, nói như C. Mác, điên cuồng thực hiện mưu đồ “xâm lấn khắp hoàn cầu”, điên cuồng mở rộng và chiếm đoạt thị trường thế giới nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa cho mình. Qua năm thế kỷ, sau bốn cuộc cách mạng kỹ thuật, sự mở rộng và chiếm đoạt thị trường và đẩy nhanh kinh tế thị trường được giai cấp tư sản coi như một mục đích sống còn của nó, đến mức nhắc đến kinh tế thị trường là không ít người nhầm lẫn và ngỡ tưởng nó là thứ của riêng chủ nghĩa tư bản, thậm chí đồng nhất nó với chính chủ nghĩa tư bản, chứ không hiểu một cách rành rẽ và tường tận rằng, nó chỉ là một thành tựu của nền văn minh nhân loại mà giai cấp tư sản đang nắm lấy, nhằm áp đặt những giá trị của thể chế tư bản chủ nghĩa, tức kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lên toàn nhân loại.
Tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự phát triển tột bậc của quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất chuyển thành toàn cầu hóa kinh tế và giai cấp tư sản vẫn đang nắm quyền thao túng. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ với quy mô, tính chất và phát huy tác dụng chưa từng thấy, tới mức có thể hình dung toàn cầu là một thị trường khổng lồ, dưới sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản. Theo đó, hơn bao giờ hết, phát triển kinh tế thị trường một cách ồ ạt, tự do, tức là kinh tế thị trường tự do... để chiếm đoạt lấy càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Và, hơn bao giờ hết, vai trò và sự tác yêu tác quái của chủ nghĩa tư bản trong cơn lốc toàn cầu hóa thông qua kinh tế cũng khủng khiếp và tàn bạo chưa từng thấy, đang trở thành “cái thòng lọng” hữu hình hoặc vô hình đe dọa đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trong thời đại ngày nay, tất cả nhằm bành trướng trật tự tư sản: tự do chiếm đoạt, tự do bóc lột, tự do xâm lược, tự do khủng bố, tự do gian lận trong bầu cử, tự do phân biệt chủng tộc,... Giai cấp tư sản đang cố sức bảo vệ những thứ quyền đó và chừng nào những tai họa đó chưa bị đập tan, chưa bị thay thế thì chừng đó giai cấp tư sản vẫn áp đặt sự thống trị lên đông đảo nhân dân lao động, nô dịch các quốc gia, dân tộc khác bởi những thứ “tự do”: tự do thất nghiệp, tự do bị bóc lột, tự do bị chết đói, bị chà đạp một cách tự do, bị xâm lược một cách trắng trợn và vô cớ,... Điều đó giải thích vì sao, tại các nước tư bản chủ nghĩa, dù chỉ chiếm hơn 1% số dân nhưng những người giàu - những nhà tư sản đã sở hữu hơn 62% tổng số của cải xã hội. Đó cũng chính là hệ quả tự nhiên của nền chính trị tư sản trên chính lãnh địa của nó và đối với các quốc gia, dân tộc khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Vậy là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó đã từng tồn tại và phát triển qua các phương thức sản xuất khác nhau. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại là tất yếu. Trung Quốc đang xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đang hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Nói giản lược, nó là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật vận động của kinh tế thị trường, vừa dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và tính chất xã hội chủ nghĩa, thể hiện một cách toàn vẹn và tập trung trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Theo đó, Việt Nam đã và đang thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giải phóng tối đa sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) nhằm mục tiêu hàng đầu là nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện không ngừng đời sống mọi mặt của nhân dân; chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tư nhân vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là động lực, kinh tế hợp tác trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; tạo dựng khung pháp lý thuận lợi và môi trường chính trị - xã hội ổn định và môi trường sản xuất, kinh doanh tự do, bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế, để tất cả các thành phần kinh tế hoạt động tốt nhất; tiếp tục xác lập, củng cố và không ngừng nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,...; thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh, phân phối và phân phối lại một cách hợp lý các nguồn thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước; giữ vững độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;...
Nghĩa là chúng ta chỉ coi kinh tế thị trường là phương tiện, là cách thức để xây dựng những cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội gắn chặt với việc không ngừng nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân, chứ tuyệt nhiên không phải là mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như chủ nghĩa tư bản đã và cố sức làm. Nói cách khác, cụ thể hơn, dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường tồn tại như một thể chế được bảo đảm bởi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, được đẩy nhanh bằng tốc độ hàng hóa hóa, tiền tệ hóa mọi thứ, kể cả nhân phẩm, đạo đức con người, đồng tiền giữ ngôi chúa tể chế ngự và chi phối hết thảy nhằm sinh lợi tối đa cho giai cấp tư sản, thì dưới chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường được sử dụng như một phương tiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế nhằm phục vụ toàn thể nhân dân lao động trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Điều cần nhấn mạnh là, ai đó còn băn khoăn về vấn đề bóc lột trong lộ trình chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đúng. Chúng ta hiểu rằng, tiến hành phát triển kinh tế thị trường, trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên không thể ảo tưởng ngay lập tức triệt để xóa bỏ bóc lột. Như thế là chủ quan. Nhưng phải nói và thực tiễn chứng minh rằng, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường, việc bóc lột được ví như một con lắc đơn có biên độ dao động khuếch đại dần, thì chúng ta nỗ lực bằng mọi phương thức làm cho con lắc đơn đó dao động với biên độ tắt dần theo quy luật: ngăn chặn mọi sự tha hóa con người, không còn tình trạng bần cùng hóa, bảo đảm sự bình đẳng các thành phần kinh tế,... Đó là con đường đi tới thủ tiêu mọi sự nô dịch dân tộc và xóa bỏ tình trạng người bóc lột người. Đó là sự khác biệt về chất giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.
Không chỉ có một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam mà về vị thế, nó tiếp tục được phát triển và không ngừng hoàn thiện với tư cách là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Và trên thực tế, nó đã đưa Việt Nam lên vị trí cao ở châu Á và thứ nhất khu vực Đông Nam Á về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế suốt nhiều năm liền cho tới nay. Năm 2018, các tổ chức kinh tế quốc tế thừa nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 7,08%, mức cao nhất trong 10 năm gần đây.
Trên nền tảng kinh tế phát triển, tháng 7-2019, HSBC Expat vừa công bố Bảng Xếp hạng tổng thể khảo sát chuyên gia nước ngoài về nơi sống và làm việc tốt nhất năm
2019, Việt Nam lọt vào top 10 quốc gia đứng đầu, từ vị trí thứ 19 vào năm 2018, với 71% số chuyên gia nước ngoài cho rằng, họ tự tin về nền kinh tế Việt Nam, đồng thời 76% số đó cho rằng, yên tâm về tình hình chính trị ổn định.
Trên hết, nhiều chuyên gia nước ngoài nhận thấy, môi trường làm việc tại Việt Nam rất thuận lợi. Việt Nam đứng thứ ba sau Thụy Sĩ và Ba Lan trong chỉ số phụ Kỳ vọng cá nhân - chỉ số tổng kết quan điểm của chuyên gia nước ngoài về nền kinh tế thị trường, cơ hội phát triển nghề nghiệp và mức độ ảnh hưởng đối với những người mới chuyển tới sinh sống và làm việc. Việt Nam cũng đứng thứ tư trong danh sách các nước có số chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm đến làm việc nhiều nhất, sau Ấn Độ, Trung Quốc và In-đô-nê-xi-a.Và, mới đây, ngày 7-6-2019, với số phiếu 192/193 phiếu, Việt Nam đã chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Đây là số phiếu cao kỷ lục, chưa từng có trong lịch sử 75 năm phát triển của Liên hợp quốc.
Nếu kinh tế thị trường là thành quả của chung nhân loại, phát triển mạnh mẽ dưới chủ nghĩa tư bản và đem lại tiềm lực rất lớn cho chính chế độ tư bản chủ nghĩa (mà người ta thường gọi là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa), thì trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều hết sức bình thường, rõ ràngĐiều quyết định cơ bản là, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường được xem là mục tiêu, thì dưới thể chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta nó chỉ là công cụ, là phương tiện để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà thôi. Để làm phản đề cho sự bôi nhọ hoặc bác bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tối thiểu xin được dẫn lời bình của bộ phim dài 30 phút, với nhan đề “Chào buổi sáng, Việt Nam” (Guten Morgen, Vietnam) của Đài Truyền hình Đức 3 Sat, ngày 18-11-2011: Với mức tăng trưởng kinh tế từ 5% đến 9% trong suốt thập niên qua và thu nhập bình quân đầu người tăng gấp đôi trong khoảng thời gian này, Việt Nam là một trong những nước có sự phát triển kinh tế kỳ diệu ở châu Á; là quốc gia thành công nhất trên thế giới trong cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa để Việt Nam không rơi vào quyết định luận kinh tế, kinh tế vị kinh tế, tiền vì tiền, điều mà các thể chế tư sản đang sử dụng kinh tế thị trường nhằm chiếm đoạt ngày càng nhiều lợi nhuận cá nhân nhưng không bao giờ thỏa lòng tham. Nếu vứt bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nguyên vẹn chỉ là thứ kinh tế thị trường hoang dã hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, như bất cứ ai đều thấy, và như vậy Việt Nam càng không xác quyết và theo đuổi. Điều đó cũng càng không phải là chuyện “Việt Nam phát triển kinh tế thị trường là quyết tâm trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa”(!), như ai đó lo ngại và bài xích, cách đây hơn ba mươi năm.
Do đó, Việt Nam phát triển kinh tế thị trường tất yếu phải bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, tức kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó vừa là yêu cầu, là nhu cầu, vừa là tất yếu, là thời cơ gắn liền với thách thức đối với Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về điều này, Đảng Cộng sản Nhật Bản cho rằng: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường là phương hướng phát triển có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội”; “Quá trình tìm tòi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường ở Việt Nam và Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI”(3)./.
---------------------------
(1) Xem: Nhị Lê: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015...
(2) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 57
(3) Báo cáo của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về Đại hội lần thứ XXVIII của Đảng Cộng sản Nhật Bản, ngày 1-2-2004

HỘI NHẬP QUỐC TẾ CÓ LÀM MẤT ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ BẢN SẮC DÂN TỘC?



Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam nhất quán đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 73 với chủ đề “Vì một thế giới hòa bình, công bằng và phát triển bền vững” _Ảnh: TTXVN
Thực chất của luận điệu “hội nhập quốc tế sẽ làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc”
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm(1). Về bản chất, hội nhập quốc tế là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và lợi ích chung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời đại toàn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế là tất yếu, là nhu cầu tồn tại và phát triển của các nước. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ khi tham gia hội nhập quốc tế, chúng ta đã tạo lập, củng cố môi trường hòa bình, hợp tác, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi, “góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”(2).
Song hiện nay, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị không ngừng lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế, coi đó là tâm điểm để ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.
Trước hết, thông qua tiến trình hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Lợi dụng Việt Nam tiến hành hội nhập quốc tế mà bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, các thế lực thù địch thúc đẩy hình thành những yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, gia tăng mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho Nhà nước mất khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế, từ khống chế về kinh tế để chuyển hóa và gây sức ép về chính trị. Chúng ngầm thâm nhập, móc nối với các đối tượng phản động, gây dựng lực lượng đối lập, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên, quần chúng thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, triệt để lợi dụng sơ hở của chính sách, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ bên trong. Chúng đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý, như đặt điều kiện để có “thỏa thuận”, “hợp tác” thì ta phải “cải cách”, “đổi mới” về tư tưởng, chính trị, pháp luật; phải thay thế chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi Nhà nước xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp và một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành; đòi thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, mất độc lập, tự chủ của đất nước.
Tuyên truyền các luận điệu trái chiều, xuyên tạc với nội dung “hội nhập quốc tế sẽ làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc”. Thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội, facebook, website cá nhân xuất hiện ngày càng nhiều những luận điệu suy diễn của một số đối tượng tự xưng là “yêu nước”, “nhà dân chủ”, “trí thức”, “học giả” dưới các hình thức “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “phản biện”, “kiến nghị”, “góp ý”... nhằm bác bỏ, phủ nhận đường lối, quan điểm hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Từ việc tuyệt đối hóa và cho rằng độc lập, tự chủ là một “hằng số bất biến”, là không thể tương tác, dung hợp với hội nhập quốc tế, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước nên đã hội nhập quốc tế là không thể giữ được độc lập, tự chủ; muốn có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế; càng hội nhập quốc tế một cách sâu rộng sẽ càng bị lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển và không sớm thì muộn sẽ bị đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Có người đã ví hội nhập quốc tế là vô cùng nguy hiểm như “bơi ra biển lớn”, như bước vào “vòng xoáy thời cuộc”, cho nên đất nước sẽ bị “lạc phương hướng, mất tự chủ, không có đường thoát”. Hoặc họ “biện giải” rằng Việt Nam chưa có đủ các điều kiện nên khi hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước ta đã “nhập khẩu nguy cơ”; thậm chí, cực đoan hơn, xem thế giới như một phức thể quá khó lường, cần “đề cao cảnh giác”, “khuyến cáo” nên đóng cửa khép kín, không cần hội nhập quốc tế. Lại có những người “tư vấn” với Đảng, Nhà nước hãy “vứt bỏ quan điểm” đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vì nếu còn cảnh giác và chống “diễn biến hòa bình”, thì các nước phát triển  phương Tây sẽ không muốn và không dám hợp tác với Việt Nam...
Bằng những “lý sự” đó, những đối tượng này đưa ra “kết luận” rằng: Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không cần thiết và cũng không thể giữ vững được độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Cái “cớ” cho những luận điệu này là họ vin vào tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế. Do đó, không ít người nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, đã vội vã cổ xúy cho những luận điệu này. Sự suy diễn đó thực chất là cố tình nhìn nhận phiến diện, một chiều, ngụy biện, tuyệt đối hóa mặt trái, tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế; là cách nhìn thiển cận, “thấy cây mà không thấy rừng”, không thấy rõ tính chất hai mặt, đan xen nhau cùng tồn tại giữa thời cơ và thách thức trong hội nhập quốc tế. Mục đích của họ là nhằm phá vỡ sự đồng thuận, dẫn đến hoài nghi, dao động, thiếu tin tưởng, cản trở không nhỏ đến tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc của nước ta.
Nắm vững bản chất, nội hàm, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ gìn bản sắc dân tộc. Đây là mối quan hệ biện chứng khách quan, có sự tác động qua lại lẫn nhau, nảy sinh và ngày càng sâu sắc trong tiến trình hội nhập quốc tế, được Đảng xác định rõ trong hệ thống cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết. Trong đó, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc giữ vai trò quyết định tiến trình hội nhập quốc tế; ngược lại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có sự tác động trở lại đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy bản sắc dân tộc. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ này ngày càng được Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhận thức sâu sắc hơn, thực hiện tốt hơn trên thực tế, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở nền tảng, giữ vai trò quyết định tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc xuyên suốt, nhất quán, mang tính sống còn đối với mọi quốc gia trên thế giới, là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Hiện nay, độc lập, tự chủ được hiểu không phải là biệt lập với thế giới, đứng ngoài tiến trình hội nhập quốc tế. Độc lập là quyền dân tộc tự quyết và tự chủ là năng lực thực hiện quyền tự quyết ấy trên thực tế. Đó là tự mình xác định mục tiêu, hoạch định con đường, chiến lược phát triển, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp, sắp đặt nào từ bên ngoài và điều này phải được thực thi trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Trong giai đoạn hiện nay, tất yếu các quốc gia, dân tộc đều tham gia quá trình hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Nhưng nếu không có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế. Bởi để tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi quốc gia, dân tộc phải thực sự là một chủ thể trong quan hệ quốc tế, tức là phải có độc lập, tự chủ. Một quốc gia có độc lập, tự chủ thì mới quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, phát huy được những lợi thế, hạn chế những tác động tiêu cực từ hội nhập quốc tế.
Thứ hai, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tác động trở lại đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước trên hai góc độ tích cực và tiêu cực. Dưới góc độ tích cực, hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc huy động các nguồn lực bên ngoài, tận dụng cơ hội để “đi trước, đón đầu”, ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, mở rộng thị trường, phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh. Đây là những điều kiện thuận lợi có ý nghĩa quyết định để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trên cơ sở đó, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mở ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các nước, các vùng lãnh thổ; hạn chế và đẩy lùi các nguy cơ khủng bố, xung đột, ly khai; giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu đã, đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của từng quốc gia, khu vực và thế giới; qua đó, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta nhận thức được lợi ích chung để thúc đẩy hợp tác với các nước, cũng như thấy rõ mặt mâu thuẫn, khác biệt để có đối sách xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa hợp tác với đấu tranh, giữa đối tác với đối tượng; tạo ra sự đan xen lợi ích sâu rộng với những quan hệ cân bằng có lợi cho đất nước. Tất nhiên, để làm được điều đó, chúng ta phải có năng lực tiếp nhận, biến cơ hội thành hiện thực và có các giải pháp khắc phục những tác động trái chiều của tiến trình hội nhập quốc tế, vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm cho đất nước phát triển. Qua hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, chúng ta đã phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là tác động tích cực, sự thống nhất giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Do đó, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là động lực, vừa là phương thức, là giải pháp tối ưu để giữ vững mục tiêu, nguyên tắc độc lập, tự chủ của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, hội nhập quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đối với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.
Một là, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, gây khó khăn trong giữ vững độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ có tiềm lực yếu trước các nước lớn có tiềm lực mạnh; trước hết là phụ thuộc về kinh tế do sự chi phối, áp đặt từ bên ngoài. Thực tiễn cho thấy, khi tham gia hội nhập quốc tế, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc của một số nước nghèo, kém phát triển vào nước lớn, có tiềm lực mạnh. Thêm vào đó, khi các nước lớn “ngầm bắt tay”, thỏa hiệp về lợi ích sẽ tác động không nhỏ đến vấn đề độc lập, chủ quyền của các nước nhỏ. Ngoài ra, trong hội nhập quốc tế, nếu không tỉnh táo, các nước chậm phát triển rất dễ “sập bẫy” nhập khẩu công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển nhanh và bền vững. Đây là tác động tiêu cực, những mâu thuẫn cần giải quyết giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.
Hai là, hội nhập quốc tế tác động sâu sắc tới giữ gìn bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa, cốt cách, giá trị bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọn nghĩa vẹn tình; đức tính cần cù, sáng tạo, vượt khó, sự giản dị, tinh tế trong lối sống, ứng xử... Bản sắc đó là điều kiện tiền đề để Việt Nam hội nhập với thế giới. Giữ gìn bản sắc dân tộc là cơ sở để củng cố ý thức tự tôn dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển bền vững và phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế là thời cơ, đồng thời cũng là những thách thức to lớn đối với bảo vệ, giữ gìn, phát huy, phát triển các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc. Sự tác động này rất phức tạp. Một mặt, khi hội nhập quốc tế, nhân dân ta có cơ hội tiếp cận, giao lưu với những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, tiếp thu tinh hoa, trí tuệ, tiến bộ của nhân loại, từ đó có sự tiếp biến, kế thừa và phát huy những truyền thống cao quý, tốt đẹp của dân tộc, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo trong nước, làm phong phú, sâu sắc thêm bản sắc dân tộc; mặt khác, quá trình này dễ dẫn đến tình trạng bị lai căng, đồng hóa, chứa đựng nguy cơ băng hoại những giá trị truyền thống, làm mất cốt cách và diện mạo tinh thần của quốc gia, xói mòn bản sắc dân tộc, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nhưng với tinh thần “gạn đục khơi trong”, chúng ta chủ động tiếp thu có chọn lọc những giá trị chân - thiện - mỹ, những nhân tố phù hợp với đời sống văn hóa - tinh thần của dân tộc; qua đó giữ gìn, bảo vệ, phát huy và làm phong phú thêm bản sắc của dân tộc, không chấp nhận mưu đồ lợi dụng hội nhập quốc tế để áp đặt giá trị của các nước lớn.
Nhất quán chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc
Hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp, một “sân chơi” với những tác động thuận - nghịch trong cục diện thế giới mới đang định hình. Tham gia hội nhập quốc tế, Việt Nam chấp nhận tham gia môi trường cạnh tranh gay gắt về lợi ích, ảnh hưởng, có sự chi phối của các nước lớn trong tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; tham gia cuộc đấu trí, đấu mưu, đấu pháp, đấu lực để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quá trình này luôn tồn tại hai mặt đan xen nhau giữa thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, đồng thời chứa đựng nhiều mâu thuẫn. “Chìa khóa” để Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc là phải bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc gắn với lợi ích của các nước đối tác. Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chủ động tham gia “luật chơi” chung; tập trung giải quyết mâu thuẫn, bất đồng trên cơ sở luật pháp quốc tế với tinh thần mềm dẻo, linh hoạt, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Một mặt, thúc đẩy hợp tác, mở rộng và lấy hợp tác là chủ đạo để phát huy mặt tác động tích cực, sự thống nhất giữa hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Mặt khác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, giải quyết mâu thuẫn và thu hẹp bất đồng. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam vừa tìm kiếm cơ hội, tham khảo kinh nghiệm các nước để xây dựng những nhân tố mới phù hợp với đất nước, vừa bảo vệ, phát huy các thành quả, giá trị đã đạt được và đấu tranh loại bỏ các vật cản trên bước đường phát triển. Chúng ta chủ động, tích cực hội nhập quốc tế nhưng không để lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền bị xâm hại; đổi mới chứ không đổi hướng, đổi đường. Quá trình này, Đảng ta luôn kiên định và vững vàng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững các nguyên tắc đổi mới, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội. Thực hiện những bước đi thận trọng với đối sách mềm dẻo, khôn khéo, tránh bị rơi vào thế đối đầu hay bị cô lập, lệ thuộc. Chống cả hai khuynh hướng chủ quan, nóng vội hoặc dè dặt, cầm chừng trong hội nhập quốc tế. Không tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ là “nhất thành bất biến”; ngược lại, cũng không đề cao thái quá cho rằng hội nhập quốc tế là “phương thuốc trị bách bệnh” để đất nước phát triển trong thời đại toàn cầu hóa.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với các trưởng đoàn tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) tại Osaka của Nhật Bản _Ảnh: TTXVN
Trên thực tế, những năm qua Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc, thu nhiều kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hội nhập quốc tế thực sự trở thành “động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”(3). Tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, hợp tác, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; quảng bá sâu rộng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tăng cường thế, lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta đã mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế cân bằng chiến lược và đan xen lợi ích, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới; là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế thương mại với trên 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức quốc tế, khu vực với trên 100 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục; đã ký kết 16 hiệp định thương mại song phương, đa phương, trong đó có các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới; hoàn tất ký kết các hiệp định quản lý, bảo vệ biên giới trên bộ với các nước láng giềng. Việt Nam chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế, diễn đàn, hợp tác song phương, đa phương, nhất là tại Cộng đồng ASEAN và Liên hợp quốc; trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế; là nhân tố tích cực, chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết, tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu. Việc Việt Nam chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 cho thấy sự tin tưởng, tín nhiệm và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế trước những đóng góp tích cực, thực chất, có trách nhiệm của Việt Nam đối với tổ chức Liên hợp quốc nói chung và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nói riêng trong suốt thời gian qua.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục nhất quán triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”(4). Ngay trong quá trình này, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện chiến lược, lộ trình, bước đi, xác định đồng bộ, hệ thống hóa mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ trương chiến lược, giải pháp cụ thể để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam nhất quán nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; kiên định lợi ích quốc gia là giá trị cốt lõi, là mục tiêu cao nhất trong quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế luôn được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược tổng thể, có lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng của đất nước, theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Giữ vững và thực hiện tốt phương châm đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đổi mới tư duy, chuyển mạnh từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và coi đây là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế, đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam, sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ; kiên định giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Nhạy bén trong nghiên cứu nắm chắc tình hình, nâng cao năng lực dự báo, phục vụ đắc lực tiến trình hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Như vậy, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện của Đảng ta với nguyên tắc cơ bản và bao trùm là giữ vững độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ, thực hiện tốt trên thực tiễn, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức, hành động và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa giữ vai trò quyết định đến tiến trình hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả là phương thức, giải pháp phù hợp nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực nhằm phát triển đất nước, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Với những kết quả đạt được và kinh nghiệm trong nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, chúng ta tin tưởng và khẳng định bằng đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đất nước có thêm nguồn lực to lớn phục vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, củng cố niềm tin của nhân dân, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định chính trị, phát triển văn hóa - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
------------------------------
(1) Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế” ban hành kèm theo Hướng dẫn số 42-HD/BTGTW, ngày 1-9-2017, của Ban Tuyên giáo Trung ương
(2) Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, Về hội nhập quốc tế
(3) Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 154 - 155

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...