QĐND - Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, sau này đã viết: “Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử”. Thế mà đáng tiếc, 44 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, vẫn còn có những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử. Họ chẳng những đi ngược tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai mà còn khoét sâu những vết thương bởi mù quáng và bạo tàn. Hành động của họ xét cho cùng cũng chính là sự phá hoại tương lai…
Xuyên
tạc, đánh tráo, xóa nhòa lịch sử
Cứ đến dịp kỷ niệm 30-4 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ
rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng
là của cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như “tháng
Tư là tháng "vo gạo bằng nước mắt”, “mùa quốc hận-tháng tư đen”. Nhiều
trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh
ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào. Một số ít
người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày
chiến thắng không phải là một việc “tử tế”.
Cù Huy Hà Vũ, kẻ sinh ra trong một gia đình cách mạng, từng bị
tòa án tuyên án khi bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, gây
chia rẽ, thù hằn dân tộc. Gần đây, khi sang Mỹ, Vũ phát ngôn cho rằng, hòa hợp
dân tộc không dừng ở hòa hợp giữa hai bên “thắng cuộc” và "thua cuộc"
mà còn là hòa hợp giữa những nhà dân chủ với chính quyền hiện nay. Chỉ khi nào
“chế độ cộng sản sụp đổ, người Việt mới có hòa hợp, hòa giải”. Nguyễn Lân
Thắng, "kẻ đốt đền" trong một gia đình khoa học thì lại muốn nổi tiếng
bằng những lời xảo ngôn: "Mình mong ngày 30-4 sẽ chuyển thành ngày tưởng
niệm những mất mát của dân tộc, đừng nói chuyện ai thắng, ai
thua". Lý Thái Hùng, kẻ tự xưng là "tổng bí thư" của tổ
chức khủng bố Việt Tân gần đây đã hô hào biến ngày 30-4 từ "quốc hận"
trở thành “tinh thần quốc kháng” để chống lại chế độ cộng sản.
Tháng 9-2018, tại Washington (Mỹ), cái gọi là “tập hợp
vì dân chủ cho Việt Nam” đã tổ chức hội thảo có chủ đề “Nhìn lại chiến tranh
Việt Nam” và đưa ra một số luận điểm bịa đặt, biện hộ cho cuộc chiến tranh phi
nghĩa. Họ kêu gọi: “43 năm qua, Việt Nam vẫn chưa có tự do, vẫn chưa có dân
chủ. Thành ra sứ mệnh của người trẻ tại hải ngoại sẽ phải tiếp tục đồng hành,
tiếp tục tranh đấu cho tự do và dân chủ”.
Xung quanh bộ phim tài liệu 10 tập The Vietnam
War (Chiến tranh Việt Nam) được Mỹ công chiếu, một số người trong nhóm
"Văn đoàn độc lập" đã xét lại lịch sử: “Có nhất thiết phải qua chiến
tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường khác ít
xương máu hơn cho nền độc lập của đất nước thì quý biết nhường nào?”. "Nếu
không cần chống Mỹ, miền Nam có giàu như Hàn Quốc không?".
Không
thể phủ nhận sự thật và đảo ngược chân lý
Để xem xét lịch sử thì cần phải có cái nhìn toàn diện, khách
quan, tôn trọng sự thật. Cho dù cuộc kháng chiến đã lùi xa 44 năm hay lâu
dài hơn nữa thì lịch sử dân tộc và thế giới đều ghi nhận và chúng ta phải luôn
khẳng định, tự hào về thắng lợi của một cuộc kháng chiến chính nghĩa, trường
kỳ, vĩ đại vì nền hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc. Đúng như Báo cáo chính
trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất
đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta
như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Nhà sử học người Pháp, kiêm chuyên gia nghiên cứu về lịch sử
Đông Dương Alain Rusco cho rằng, sự kiện 30-4 “gây tiếng vang lớn trên trường
quốc tế về một dân tộc không chịu khuất phục trước quân thù… để có được chiến
thắng này hàng triệu người dân Việt Nam đã ngã xuống trong nhiều thập kỷ đầy
cam go, quyết liệt”.
Gần đây,
trả lời báo chí về bộ phim tài liệu The Vietnam War, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân Việt Nam mang tính chính nghĩa, phát huy được truyền thống sức mạnh
đoàn kết của cả dân tộc, được bạn bè và nhân dân thế giới hết sức ủng hộ. Chính
vì thế đã đi đến thắng lợi cuối cùng và thống nhất đất nước".
Trong cuốn hồi ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đúc kết một trong những đặc điểm nổi bật về cuộc
kháng chiến là: “Cả nước đánh Pháp, đánh Mỹ, không phân biệt tiền tuyến, hậu
phương. Ý chí thống nhất Tổ quốc là thế và lực mạnh trong chiến tranh. Nước
Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Chiến trường Việt Nam là một. Cả dân
tộc kết thành một khối trong tình đồng bào cùng chung giống nòi Hồng Lạc, không
thể cắt chia. Thù nhà nợ nước là chung của cả dân tộc…”. Những kẻ ngày nay
xuyên tạc cho rằng bên này, bên kia mới là thắng cuộc, bên này mới là giải
phóng bên kia… chẳng những không hiểu cội nguồn lịch sử mà còn xúc phạm xương
máu cha ông.
Trên thực tế, chính những người trong cuộc là Mỹ và chính quyền
Sài Gòn cũng đều đã thừa nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc
Việt Nam; chỉ một bộ phận chống cộng, mang nặng hận thù và những kẻ "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" ngày nay mới tin vào những luận điệu
như chiến tranh ý thức hệ, nội chiến hay quan điểm lập lờ “bên nào thắng thì
nhân dân đều bại”(!).
Chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người
được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã rút ra 11
“sai lầm một cách tồi tệ”, đáng chú ý nhất là đã lẫn lộn cuộc đấu tranh ý thức
hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của cả một dân tộc. Ông viết: "Chúng
ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị
của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng
đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ”.
Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ viết: "Hà Nội chỉ
chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam
thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào
năm 1975…”.
Theo các tài liệu mới được giải mật của chính quyền Mỹ, ngày
27-9-1948, trong một văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ xác định mục tiêu lâu dài
của Mỹ là “thủ tiêu ở mức tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở Đông
Dương, Mỹ muốn thấy Việt Nam và Đông Dương có một nhà nước dân tộc chủ nghĩa tự
trị thân Mỹ”. Ngày 30-12-1949, Tổng thống Mỹ S.Truman phê chuẩn một
văn kiện của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, trong đó nêu rõ: “Mục tiêu lâu
dài của Mỹ là thủ tiêu ở mức độ tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở
Việt Nam và Đông Dương... Mỹ muốn thấy ở Việt Nam và Đông Dương có các nhà nước
chống cộng, thân Mỹ”. Điều này cũng được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc lại
nhân kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: "Bác Hồ
đã sớm nhìn thấy âm mưu đen tối của Mỹ. Từ 1950, Bác đã chỉ ra sự dính líu và
can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Ðông Dương. Ðể tranh thủ hòa bình, Bác đã 11
lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ S.Truman...” nhưng không có phản hồi.
Giáo sư Trần Chung Ngọc, một người Mỹ gốc Việt, một cựu quân
nhân trong quân lực Việt Nam cộng hòa từng có nhiều bài viết phân tích sâu sắc
về cuộc chiến tranh. Ông viết: “Mỹ không có lý do nào chính đáng để can
thiệp vào Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc
tế, không dựa trên pháp lý mà dựa trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công
lý” để can thiệp vào Việt Nam với ý đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên
toàn khu vực”…
Quá
khứ - dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách
Một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII chỉ ra là: “Hạ thấp, phủ nhận những
thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch
sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”. Mỗi cán
bộ, đảng viên và người dân cần hết sức tỉnh táo để phát hiện, ngăn chặn.
Không chỉ cán bộ, đảng viên mà mỗi người dân yêu nước Việt Nam
cũng cần phải có tiếng nói đúng với lương tâm và lẽ phải. Quá khứ không chỉ là
lịch sử mà còn là hành trang, là sức mạnh tinh thần, là dòng máu Lạc Hồng tạo
nên nhân cách của mỗi người dân đất Việt. Nếu quên tổ tiên, quên công lao của
thế hệ đi trước, quên những hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của dân tộc thì
không thể là người Việt Nam chân chính. Phẫn nộ với ý kiến cho rằng "không
cần chiến tranh sau này đất nước vẫn giàu mạnh", nhà sử học người Mỹ gốc
Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết: “Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc,
khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế
nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình
cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh của
hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của
nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến 1954
đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc
chiến 1954-1975 để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất
nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu
anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc Việt Nam được trường tồn”.
Trên thực tế, đã có rất nhiều tiếng nói từ những người ở phía
bên kia chiến tuyến sau này thừa nhận sai lầm của họ và ghi nhận chiến thắng vĩ
đại của cả dân tộc cũng như chiến công của những người cộng sản. Tướng Nguyễn
Hữu Có, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng Việt Nam cộng hòa, sau
này trả lời phóng vấn Báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh, nói: “Chiến thắng
30-4 rất vĩ đại, là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam... Không còn
chiến tranh, không còn bom rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà
việc kết thúc chiến tranh mang lại". Cựu thủ tướng Việt Nam cộng hòa
Nguyễn Cao Kỳ nhận xét về việc gọi ngày 30-4 là "quốc hận" và
đòi "phục quốc": "Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi
một người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Những người anh em phía
bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống
nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây... đâu
mà phục quốc?".
Bài
học cho tương lai
Ngay cả những người Mỹ đương đại cũng luôn nhìn lịch sử với sự
tôn trọng để rút ra bài học cho tương lai. Trong bài thuyết trình "Cuộc
chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử" trình bày tại Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh năm 2018, Giáo sư D.G.Faust,
Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard nói: “Lịch sử soi rọi những sự mù quáng
và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho
hòa bình”.
Chúng ta cũng có thể tham khảo được nhiều bài học từ nước Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã, đã xuất hiện nhiều tiếng nói phủ nhận những thành tựu
thời Xô viết, xét lại Cách mạng Tháng Mười, coi đó như một cuộc đảo chính man
rợ, coi chế độ Xô viết như chủ nghĩa phát xít… Thế nhưng sau đó, chính quyền từ
thời Tổng thống Nga Putin đã nhanh chóng bác bỏ những quan điểm sai trái trên,
tiếp tục đề cao các giá trị truyền thống tốt đẹp thời Xô viết, coi đó là niềm
tự hào chung để cố kết dân tộc Nga, tăng thêm sức mạnh. Phê phán những quan
điểm sai trái, một bài báo từ hãng thông tấn Sputnik của Nga
khẳng định: Không có chính quyền dân chủ nào được lập nên trên đầu mũi súng và
không có nền dân chủ nào lại xúi giục những người anh em trong cùng một đất nước
bắn giết lẫn nhau, dối trá và phỉ báng lịch sử của mình.
Sự dối trá, hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại
sai lầm, kích động mâu thuẫn… không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền
nhân, với người hy sinh vì hòa bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại
tương lai của dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết lên án, xóa bỏ những tư tưởng
ấy để “mở nền thái bình muôn thuở", "dập tắt chiến
tranh muôn đời”.