Thứ Ba, 28 tháng 5, 2019

ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, XIN HÃY THẬN TRỌNG KHI TRÍCH DẪN HÌNH ẢNH, LỜI NÓI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH



Đại biểu Bùi Văn Xuyền cho rằng, ông có cảm giác như các đại biểu phát biểu coi ngành sản xuất rượu, bia như một tội đồ và như thế ông thấy không công bằng vì ngành sản xuất rượu, bia hàng năm tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, hàng chục nghìn tỷ đồng cho ngân sách, đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ông Xuyền đã trích dẫn:…" Bác Hồ năm 1960 khi thăm nhà máy bia Trúc Bạch, Bác đã khuyến khích ngành sản xuất…
Đại biểu Bùi Văn Xuyền cho rằng, ông có cảm giác như các đại biểu phát biểu coi ngành sản xuất rượu, bia như một tội đồ và như thế ông thấy không công bằng vì ngành sản xuất rượu, bia hàng năm tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, hàng chục nghìn tỷ đồng cho ngân sách, đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ông Xuyền đã trích dẫn:…" Bác Hồ năm 1960 khi thăm nhà máy bia Trúc Bạch, Bác đã khuyến khích ngành sản xuất…
Trên thực tế, những năm 60 của thế kỷ trước, Việt Nam không có nhà máy bia Trúc Bạch. Trúc Bạch chỉ là nhãn hiệu bia đầu tiên của Nhà máy Bia – Nước ngọt mà người dân vẫn quen gọi là Nhà máy Bia Hà Nội, trên đường Hoàng Hoa Thám (nay thuộc công ty cổ phần Bia, Rượu và Nước giải khát Hà Nội - Habeco). Trang web của công ty Habeco, phần giới thiệu về lịch sử không thấy nhắc chuyến thăm nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà máy này.
Theo các trang web của Công ty cổ phần Cồn, Rượu Hà Nội (Halico) và Trang  tin Điện tử của Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đến thăm cán bộ, công nhân viên ngành sản xuất bia rượu, nhưng là đến Nhà máy rượu Hà Nội (nay thuộc công ty cổ phần Cồn, Rượu Hà Nội - Halico), trên đường Lò Đúc, vào năm 1959 và năm 1961.
Nhà máy này được khôi phục vào năm 1955, từ một nhà máy sản xuất rượu từ thời Pháp thuộc. Cần nhấn mạnh rằng, lúc đó, nhiệm vụ chủ yếu của nó không phải là sản xuất rượu mà mảng quan trọng hơn là sản xuất cồn phục vụ y tế, quốc phòng và dân sinh.
Năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm nhà máy, Người không chỉ động viên cán bộ, công nhân nhà máy tích cực sản xuất mà còn động viên tích cực nghiên cứu, áp dụng kỹ thuật mới, đặc biệt là tìm nguyên liệu thay thế để tiết kiệm gạo cho dân đủ ăn, giảm độc tố để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Trên cơ sở chỉ đạo này của Bác, năm 1960-1961, nhà máy thực hiện "cuộc cách mạng kỹ thuật" với sự hỗ trợ của các chuyên gia đầu ngành sinh học người Đức, Trung Quốc; thay thế việc sản xuất rượu từ phương pháp Amyloza sang phương pháp Mycomalt để tăng hiệu suất thu hồi sản phẩm và đa dạng nguồn nguyên liệu.
Tết Tân Sửu, năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thăm, chúc Tết công nhân, chiến sỹ ở nhiều đơn vị, trong đó có nhà máy Rượu Hà Nội, Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà và một đơn vị công an vũ trang…
Có thể thấy, các cuộc Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm ngành rượu, bia không thể hiện "tư tưởng" gì của Người về rượu bia. Ý nghĩa lớn nhất là động viên sản xuất (nhiệm vụ chủ yếu lúc đó là sản xuất cồn cho y tế, quốc phòng và dân sinh), tiết kiệm lương thực và an toàn thực phẩm cho người dân.
Vào giai đoạn những năm 1960, đất nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước, mỗi gia đình, một năm, may ra được mua một, hai chai rượu dùng vào dịp Tết, bia thì phân phối từng ca, vấn đề tác hại của rượu bia đến sức khỏe con người, trên thực tế, gần như không đặt ra. Tuy nhiên, Bác Hồ đã ý thức rõ tác hại đó, yêu cầu nghiên cứu tìm nguyên liệu thay thế để tiết kiệm gạo cho dân đủ ăn, giảm độc tố để bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Như vậy, ý nghĩa các chuyến thăm đó không mâu thuẫn, thậm chí là tương đồng với nhiều nội dung quy định của dự thảo Luật Phòng, chống tác hại rượu bia hiện nay.
Chính vì vậy, nếu đại biểu Bùi văn Xuyến "cảm giác" các ý kiến các đại biểu khác coi ngành rượu bia như " tội đồ" thì việc viện dẫn các chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới một nhà máy trong ngành rượu bia những năm 1960 cũng không thể thanh minh được gì. Thời điểm đó, nhà máy rượu Hà Nội khác hiện nay rất nhiều, cả về mặt hàng cung ứng và năng lực cung ứng.
Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, một người chuyên nghiên cứu lịch sử, lại trích dẫn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chứng minh rằng, cách tiếp cận của các đại biểu khác về phòng chống tác hại rượu bia đã sai. Ông nói: "Ai cũng nhớ nằm lòng câu thơ của Bác Hồ "Trong tù không rượu, cũng không hoa", để nói con người bị tước đoạt tự do là không được ngắm hoa, không được uống rượu. Trong di cảo của Bác Hồ có rất nhiều bài thơ rất hay về rượu, "khi nghe tin thắng trận lâng lâng như được uống mấy chén rượu", nó là văn hóa của cả nhân loại rồi, tại sao ta đưa nó lên đoạn đầu đài như thế này…"
Về hiện tượng, khi Bác Hồ bị tù đày, không có rượu, không có hoa thì đúng. Nhưng Bác Hồ không viết thơ để đánh đồng tự do với việc có rượu, hoa.
Xưa nay, các nhà thơ vẫn lấy cảm hứng từ cái đẹp và sự thăng hoa cảm xúc. Hoa là hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp. Và rượu là hình ảnh tượng trưng cho sự thăng hoa cảm xúc.  "Bầu rượu – túi thơ" là như thế.
Bác Hồ của chúng ta, trong bài thơ này, tự nhận mình là nhà thơ. Nhưng khác với các thi sĩ bình thường, Người không phụ thuộc vào rượu, vào hoa.  Tự do của "trăng treo ngoài cửa sổ" mới là cảm hứng của nhà thơ, nhà Cách mạng Hồ Chí Minh. Không song sắt nào ngăn cản được nguồn cảm hứng đó. Và "Người ngắm trăng treo ngoài cửa sổ - Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ" chính là sự tương tác của tâm hồn nhà thơ, nhà Cách mạng với nguồn cảm hứng. Đó thực sự là hình ảnh hiện hữu của một tư tưởng tự tại và tự do trong một cơ thể tù đầy.
Như vậy, việc viện dẫn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đặt vấn đề "uống rượu là văn hóa của cả nhân loại" và "tại sao ta đưa nó lên đoạn đầu đài như thế này" là không phù hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam. Việc viện dẫn và suy diễn không phù hợp  hình ảnh, lời nói của Người dễ làm người dân hiểu không đúng về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, khi người trích dẫn lại là những nhân vật có tầm ảnh hưởng tới rộng rãi dân chúng như đại biểu quốc hội, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử.
Trở lại với phát biểu của các đại biểu  Bùi Văn Xuyền và Dương Trung Quốc, có thể hiểu rằng, ý của các đại biểu là cần thận trọng trong việc xây dựng luật Phòng chống tác hại rượu bia, làm sao vừa phòng chống được tác hại của rượu bia, ngăn chặn sự lạm dụng rượu bia, vừa không đẩy ngành sản xuất rượu bia đến chỗ phá sản; đồng thời hướng người dân tới việc sử dụng rượu, bia một cách có văn hóa. Đó là những ý kiến đóng góp mang tính xây dựng. Tuy nhiên, cách trích dẫn và biểu đạt đã ít nhiều khiến nhân dân hiểu không đúng về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và cách rút tít của một số báo cho thấy sự hiểu lầm đó trong dư luận.
Vì vậy, kính thưa các đại biểu Quốc hội, xin hãy thận trọng khi trích dẫn hình ảnh, lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài viết: 
Quốc Thắng
Thiết kế: 
Duy Nguyễn

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2019

KHÔNG ĐƯỢC DIỄN GIẢI LỊCH SỬ MỘT CÁCH TÙY TIỆN



Thời gian gần đây, trên một số diễn đàn, tình trạng diễn giải, suy đoán lịch sử một cách tùy tiện, vô căn cứ đang diễn ra với mức độ ngày càng tăng, gây bức xúc trong dư luận, tạo nhiều nguy cơ với hệ lụy khó lường. Đây là hiện tượng tiêu cực cần phải kịp thời ngăn chặn để bảo đảm niềm tin trong xã hội, lấy lại sự lành mạnh cho môi trường nghiên cứu học thuật và niềm tin của cộng đồng.
Nhân dịp Giỗ Tổ Hùng Vương vừa qua, một báo điện tử đã đăng bài: “Truyền thuyết 18 vị vua Hùng và ngày Giỗ Tổ Hùng Vương” của P.T.H. Trong bài viết, tác giả liệt kê (không dẫn nguồn) thông tin về “18 đời vua Hùng” với tên hiệu, tên húy, năm sinh (cả năm dương lịch và năm can chi), số năm tại vị của từng người. Chẳng hạn: “Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL)” (?).
Khi được độc giả hỏi về nguồn tư liệu, ông P.T.H viện dẫn bài viết “Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng” của tác giả BTV/Sức Khỏe Cộng Đồng đăng trên tintucvietnam.vn có nội dung hầu như giống hoàn toàn. Đáng nói là ở bài viết “Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng”, tác giả cho biết dẫn lại tư liệu từ cuốn sách Thế thứ các triều vua Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần (NXB Giáo dục, H.1995) nhưng tìm đọc sẽ thấy, trong cuốn sách của mình, Nguyễn Khắc Thuần chỉ viết ngắn gọn: “1 - Hùng Dương (tức Lộc Tục). 2 - Hùng Hiền (tức Sùng Lãm). 3 - Hùng Lân. 4 - Hùng Việp. 5 - Hùng Hy. 6 - Hùng Huy. 7 - Hùng Chiêu. 8 - Hùng Vỹ. 9 - Hùng Định. 10 - Hùng Hy (3). 11 - Hùng Trinh. 12 - Hùng Võ. 13 - Hùng Việt. 14 - Hùng Anh. 15 - Hùng Triều. 16 - Hùng Tạo. 17 - Hùng Nghị. 18 - Hùng Duệ. 18 đời nối nhau trị vì 2622 năm (từ năm 2879 trước Công nguyên đến năm 258 trước Công nguyên). Đó là những con số rất khó thuyết phục người đọc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, với người Việt, số 9 là số thiêng, các bội số của số 9 (như 18, 36, 72, 99…) cũng là những số thiêng tương tự. Cho nên, con số 18 đời Hùng Vương mà Hùng triều ngọc phả nói tới cũng chỉ là con số ước lệ, biểu tượng của một ý niệm thiêng liêng nào đó. Cũng trong cuốn sách, Nguyễn Khắc Thuần viết: “Tóm lại, nước Văn Lang là một thực thể có thật của lịch sử nước ta, nhưng Văn Lang chỉ tồn tại trước sau trong khoảng ba trăm năm và con số 18 đời Hùng Vương cho đến nay vẫn là con số của huyền sử”. Như vậy, dù tác giả trên trang tintucvietnam.vn có bảo lưu rằng: “Con số 18 chỉ mang tính tượng trưng” thì vẫn có thể thấy hai tác giả P.T.H và BTV/Sức Khỏe Cộng Đồng đã “sáng tác” cho các vua Hùng tên húy, thứ tự chi theo bát quái, chua thêm năm can chi vào “năm sinh”, năm đầu và năm cuối “thời gian ở ngôi”. Thoạt nhìn có vẻ chính xác, tuy nhiên hai bài viết đều sai vì những chi tiết về các vua Hùng được nêu ra không hề có căn cứ kiểm chứng. Chưa kể, nếu đối chiếu lịch can chi với năm dương lịch sẽ thấy năm can chi được tính tương đương với năm dương lịch. Thực tế là cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn chưa tìm thấy tư liệu chữ viết thời Hùng Vương. Không biết hai tác giả nêu trên đã căn cứ vào đâu để khai thác những chi tiết rất cụ thể về năm sinh năm mất, năm ở ngôi, tên húy, tên hiệu, số đời truyền làm vua... của các vua Hùng độ xác tín ra sao?
Hiện tượng “cụ thể hóa”, thậm chí dung tục hóa những điều chép trong sử sách hay các thông tin lưu truyền trong huyền thoại gần đây cũng có chiều hướng xuất hiện ngày một gia tăng trên nhiều diễn đàn, báo chí, nhất là vào những dịp kỷ niệm, tưởng niệm các sự kiện, nhân vật lịch sử. Ngày 4-4 vừa qua, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, người gắn liền với con đường Hồ Chí Minh huyền thoại đã ra đi. Đồng đội và nhân dân tiếc thương ông, tưởng nhớ về ông với những kỷ niệm sâu sắc. Thế nhưng, nhân sự kiện này, blogger (người viết blog) D.P có số người theo dõi khá đông (từng được tung hô như một “hiện tượng viết sử trẻ” hay như là một người đã chuyển tải lịch sử đến giới trẻ bằng một góc nhìn mới mẻ và khác biệt (!) đã tranh thủ “múa bút” bất kể lô-gich, đúng - sai. Như người này tưởng tượng ra việc tướng Đồng Sỹ Nguyên “chỉ huy một đoàn quân với bom lượn ở trên đầu, xây nên một con đường mà Mỹ nhận định là không thể xây được, và tạo nên một con đường cứ bị san phẳng hôm qua thì vài ngày sau bỗng trở lại”. Cũng trong bài viết đó, người này còn đưa ra những nhận định ngô nghê và hồ đồ: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp có bên mình hai cánh tay trái và phải. Cánh tay phải của ông là tướng Hoàng Văn Thái, người đã ở cạnh ông và cùng ông lập nên các chiến lược quân sự lớn. Còn cánh tay trái của ông là tướng Lê Trọng Tấn, người sẽ ở trận tiền, thực hiện các chiến lược mà tướng Giáp đề ra”. Chưa kể trong bài viết còn có một số câu văn bị nhiều độc giả đánh giá là thiếu sự tôn trọng đúng mức với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí, đồng đội của ông. Lối “kể chuyện” sử như không hề đọc sử của người này còn có thể làm người chưa biết về Đại tướng Lê Trọng Tấn sẽ tiếp nhận thông tin không chính xác về ông, như D.P cho rằng ông là người “đã bắt”, “áp giải” các tướng De Castri (Đờ Cát-xtơ-ri) và Dương Văn Minh. Đọc bài viết nhiều người yêu thích, am hiểu lịch sử thực sự phẫn nộ vì cách viết bịa tạc, đầy xúc phạm như vậy.
Việc “cụ thể hóa” tới mức dung tục các huyền sử không phải là cách tôn vinh tiền nhân mà trái lại, là hạ thấp giá trị của niềm tin trong xã hội, thậm chí là cả tín ngưỡng thiêng liêng của dân tộc. Vì thế, người viết cần luôn ý thức không thể viết một cách tùy hứng và tùy tiện về lịch sử, bởi sẽ gây hệ lụy khôn lường. Thế nhưng, hiện tượng đi ngược với yêu cầu này đang ngày càng nhiều, thậm chí ngang nhiên xuất hiện ở ngay cả những diễn đàn, những hội thảo khoa học. Như tại hội thảo khoa học quốc gia “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với văn hóa dân tộc” (12-2018) một tác giả đã hồn nhiên trình bày quan điểm tối nghĩa khiến người nghe không thể hiểu nổi: “Thì ra sự chịu đựng bình đẳng cả địch và ta, cả chính nghĩa và phi nghĩa, cả thấp hèn và cao thượng”; “Đại tướng Võ Nguyên Giáp chịu đựng cả sự chịu đựng của dân tộc”, “chỉ có nhân loại là không chịu đựng vì đã thấy được một con người có mức độ” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn hóa dân tộc” - Hà Nội, 12-2018). Blogger D.P cũng xuất hiện tại hội thảo này, để đưa ra khái niệm “văn hóa quân sự “bóc múi bưởi”...”, rồi nhận định “có một trận Điện Biên Phủ năm 1975” khiến các chuyên gia nghiên cứu lịch sử và nghệ thuật quân sự lắc đầu ngao ngán.
Những thí dụ đã nêu chỉ là vài minh họa cho một xu hướng đáng báo động về tình trạng diễn đạt, xuyên tạc lịch sử sai lệch và tùy tiện đang diễn ra ở nhiều nơi. Điều đáng lo ngại là ở đây không chỉ còn là những ý kiến cá nhân trong một cộng đồng hẹp, mà những quan điểm lệch lạc như vậy đang được trình bày trên một số trang báo chính thống, tại một số hội thảo khoa học, được phát tán trên mạng xã hội với độ lan truyền nhanh chóng. Có thể thấy, nếu không kịp thời có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả, những “tri thức” méo mó về lịch sử như vậy sẽ có nguy cơ “đầu độc” công chúng, nhất là giới trẻ.
Lịch sử là câu chuyện của quá khứ, đòi hỏi việc xem xét, đánh giá chuẩn xác. Những người làm công tác nghiên cứu hoặc viết về lịch sử vì vậy cần phải được trang bị kiến thức đầy đủ cùng khả năng diễn đạt chính xác, khoa học. Bất cứ luận điểm nào về một vấn đề, một sự kiện, một nhân vật lịch sử… đều cần chứng minh bằng sử liệu. Chỉ với sự tuân thủ các nguyên tắc đó, nội dung viết về lịch sử mới thuyết phục được người đọc, mang lại tri thức lịch sử lành mạnh và hữu ích cho công chúng. Tất nhiên, theo dòng thời gian, lịch sử có thể được điều chỉnh hoặc bổ sung thông tin nếu có thêm tư liệu mới dẫn đến nhận thức mới. Song dẫu vậy, không thể chấp nhận và đồng tình với cách “viết lại” lịch sử tùy tiện thiếu phương pháp nghiên cứu, phản khoa học và sự thật lịch sử như trên.
Chưa kể cách thức làm việc cẩu thả, vô trách nhiệm cùng động cơ không trong sáng của một số cá nhân trong việc lợi dụng lịch sử để đánh bóng tên tuổi và để “câu like” đã dẫn đến tình trạng nhiễu loạn, dung tục hóa lịch sử gây hoang mang, mất lòng tin ở nhiều người. Để những hiện tượng này xuất hiện trên các diễn đàn chính thống, trước hết có phần trách nhiệm của những “người gác cổng” là biên tập, chuyên gia thẩm định ở các cơ quan báo chí, hội nghị, hội thảo. Người đọc duyệt, xử lý tin, bài cần phải không ngừng nâng cao tri thức, trình độ chuyên môn, tỉnh táo trước quan điểm, ý kiến “khác lạ”, chủ động sàng lọc ngay từ đầu vào các thông tin thiếu cơ sở, chưa được kiểm chứng, thậm chí bắt nguồn từ động cơ xấu. Trước vấn đề liên quan đến lịch sử còn nhiều tranh cãi, người có trách nhiệm cần kiểm tra nguồn tư liệu được dẫn ra, xem xét kỹ các quan điểm đánh giá,… để bảo đảm tính chân thực của các chi tiết, tính chính xác, khoa học của các nhận định. Nếu còn vấn đề chưa sáng tỏ có thể tham khảo ý kiến thẩm định của các chuyên gia. Đối với các trang mạng xã hội, sự tự do trên mạng có thể dẫn đến sự tùy tiện, dễ dãi trong việc phát ngôn, nêu quan điểm, nhưng hiện nay chúng ta đã có khung pháp luật để xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức đưa thông tin sai trái, trong đó bao gồm cả hành vi xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ nhân vật lịch sử. Chúng ta tôn trọng quyền bày tỏ ý kiến chính đáng của mỗi cá nhân nhưng cần phải coi việc đưa các thông tin xuyên tạc lịch sử, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoài nghi và muốn xét lại lịch sử là một xu hướng tiêu cực, không bao giờ được cộng đồng nghề nghiệp và công chúng chấp nhận.
Để đề phòng, ngăn chặn thông tin sai lạc và đánh giá tiêu cực, xuyên tạc về lịch sử, đã đến lúc cần có sự phối hợp vào cuộc của các cấp, các ngành liên quan trong công tác tuyên truyền, như: tích cực truyền bá thông tin chính xác, không ngừng nâng cao hiểu biết của công chúng về truyền thống dân tộc, về sự kiện, nhân vật lịch sử để mỗi người tự nâng cao “sức đề kháng”, tham gia bảo vệ sự thật lịch sử, bài trừ những xu hướng, quan điểm sai trái. Đó là cách thức quan trọng giúp bảo vệ sự lành mạnh của môi trường thông tin cũng như sự chính xác của lịch sử.
THIÊN PHƯƠNG

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2019

ĐẢNG PHẢI LUÔN PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH!


(TG)- Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và di huấn của Người về xây dựng một Đảng cách mạng luôn phụng sự và liêm chính, luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” không chỉ là tất yếu khách quan, là yêu cầu và nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền mà còn là trách nhiệm của những người cộng sản Việt Nam trước lịch sử, nhân dân và dân tộc, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, trách nhiệm và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước Tổ quốc và Nhân dân.
Luôn chú trọng xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng cách mạng phụng sự và liêm chính, được nhân dân tin yêu và ủy thác, vì thế, trước khi đi xa, Hồ Chí Minh dặn lại trong Di chúc: “Đảng là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Phải thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1].
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH
Ngay từ khi chuẩn bị chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định trong tác phẩm Đường Cách mệnh (xuất bản năm 1927): “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng công nông làm gốc”[2]. Sau này, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[3].
Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh rằng, cùng với mỗi bước ngoặt của cách mạng, tình hình và nhiệm vụ của Đảng cũng có sự thay đổi. Song, ở đâu và lúc nào, dù hoạt động bí mật hay đã cầm quyền, thì Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng cũng luôn thấu triệt rằng: Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ, quyền là do nhân dân ủy nhiệm, nên đó phải là một Đảng luôn phụng sự (dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ: phục vụ Tổ quốc[4]) và liêm chính (trong sạch, ngay thẳng: người liêm chính không có lòng tư túi[5]), để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong di sản để lại, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm của Người về yêu cầu xây dựng một Đảng phụng sự và liêm chính qua các tác phẩm: Chính phủ là công bộc của dân (19/9/1945); Sao cho được lòng dân (12/10/1945); Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945); Sửa đổi lối làm việc (10/1947); Dân vận (15/10/1949); Tinh thần và trách nhiệm (13/12/1951); Tự phê bình và phê bình (14/2/1952); Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (3/1952); Phải xem trọng ý kiến của quần chúng (21/8/1956); Đạo đức cách mạng (12/1958); Nói chuyện tại hội nghị thanh tra (5/3/1960); Một lòng một dạ phục vụ nhân dân (18/1/1961); Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3/2/1969); Di chúc (1969),v.v..
Một Đảng cách mạng chân chính luôn phụng sự Tổ quốc và nhân dân theo Hồ Chí Minh phải tuân thủ 12 điều sau:
“1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng. Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát. Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[6].
Vì, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”[7] và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[8], nên Hồ Chí Minh xác định Đảng Cộng sản Việt Nam phải là một Đảng liêm chính. Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, nhất là phải có và thường xuyên rèn luyện 5 đức tính tốt: “a) NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân, vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. b) NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng, ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất cứ  to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng đúng đắn. c) TRÍ là vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian. d) DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc là phải có gan làm. Thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc. đ) LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ”[9]. Mỗi cán bộ, đảng viên phải là vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ, công bộc của nhân dân nên phải luôn “đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo. Cán bộ Đảng và chính quyền ta đều sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”[10], để được nhân dân tin yêu và gắn bó.
Đồng thời, để phụng sự và liêm chính được tốt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện tinh thần, ý chí: “Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, “ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng”; “là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”; “vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết” và “hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng”[11]; “vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”…
Tuy nhiên, sớm tiên lượng nguy cơ suy thoái của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi được trao/ủy quyền, Hồ Chí Minh chỉ rõ, “những người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân”. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng “tư túi”, không “dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ” Tổ quốc và nhân dân, Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[12]. Cụ thể, theo Hồ Chí Minh: Muốn liêm chính, “những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu… Mình là người làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người tài năng, làm được việc… Chớ lên mặt làm quan cách mệnh”[13]… Đồng thời, để phụng sự tốt, mỗi cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”[14] để không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội mà còn phải “luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện theo những chỉ dẫn của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh về mọi mặt; xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên vừa hồng, vừa chuyên, có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo, xứng tầm với nhiệm vụ được giao. Trong mọi thời điểm, Đảng đều tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng Đảng: Tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất; gắn bó mật thiết với nhân dân, v.v.. Đồng thời, mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đã luôn kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động; truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất và giữ kỷ luật nghiêm minh; tính tiền phong gương mẫu, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, chịu đựng hy sinh, phấn đấu vì mục đích, lý tư­­ởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, v.v.. để xứng đáng với vai trò tiền phong, để làm tròn bổn phận phụng sự và giữ nghiêm tính liêm chính.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG ĐẢNG PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng: “Tất cả các đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo ra sức mạnh của mình, vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”[15], nên nhấn mạnh thang thuốc đặc hiệu để nhìn nhận, đánh giá khuyết điểm, sửa chữa sai lầm chính là phải hằng ngày, liên tục tự phê bình và phê bình gắn với việc kiểm tra và giám sát chặt chẽ từ chương trình hành động, kế hoạch của cấp ủy đến của mỗi cán bộ, đảng viên. Thông qua đó, củng cố và tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, nhất là ở bộ chỉ huy tối cao (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư).
Cũng trên cơ sở nhận thức sâu sắc rằng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, dạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, ở cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao sẽ làm cho sức chiến đấu của Đảng bị tê liệt, nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân cũng vì thế mà suy kiệt, nên trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn“trước hết nói về Đảng” và chỉ rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng[16].
Không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh còn từ sự tiên liệu về sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình và căn dặn trong Di chúc việc phải làm trước tiên là về Đảng. Thực tế, “chỉnh đốn lại Đảng” là yêu cầu khách quan, tất yếu, là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[17]. Hơn nữa, vì “Đảng ta một đảng cầm quyền”, nên muốn ra sức làm tròn nhiệm vụ trước Tổ quốc và nhân dân, muốn liêm chínhphụng sự trong tư tưởng và hành động, Đảng phải tập trung thực hiện 3 nội dung chính: 1) “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. 2) “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[18]. 3) “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [19]. Đây chính là những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng một Đảng phụng sự và liêm chính; là văn hoá Đảng, là bản chất tâm hồn và đạo đức dân tộc Việt mà Đảng là đại diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của một Đảng cách mạng chân chính.
Từ thực tiễn cách mạng; từ tấm gương cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cùng những lời căn dặn đầy tâm huyết của Người trong các trước tác, đặc biệt là bản Di chúc lịch sử về công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn tự chỉnh đốn, đổi mới để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đã tránh được những sai lầm cố hữu và những tổn thất do chủ quan duy ý chí, để đưa đất nước ngày một phát triển. Sau 50 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được khẳng định. Vai trò đó thể hiện rõ ở đường lối chính trị đúng đắn, ở sự kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ở bản lĩnh chính trị vững vàng của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; ở tinh thần chủ động đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Vai trò đó còn thể hiện ở quá trình Đảng lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, nhất là ở vào những thời điểm cam go, bước ngoặt khó khăn, thử thách của cách mạng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng một Đảng cách mạng phụng sự và liêm chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là: 1) Sự dao động chính trị, tha hóa đạo đức, sự mất ổn định vững chắc về tư tưởng, tinh thần và sự nao núng, ngả nghiêng của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong tư tưởng và hành động trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Từ sự giảm sút niềm tin xã hội chủ nghĩa, “nhạt Đảng”, “nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội, về đường lối, chủ trương của Đảng,v.v.. dẫn đến không dám hoặc không dám công khai đấu tranh với các quan điểm, hành vi trái với quan điểm của Đảng. Thậm chí có người còn a dua, cổ súy cho những tư tưởng đó; mất phương hướng tư tưởng, mất khả năng chủ động kiểm soát và điều chỉnh hành động của mình dẫn đến rơi vào tình trạng khi tả khuynh khi hữu khuynh, khi tự phát manh động khi phiêu lưu chính trị... 2) Thói thực dụng trong  chính trị và đạo đức, thể hiện trong tư tưởng, hành động và lối sống. Với những người này, những gì mang lại lợi ích cho mình và phe nhóm mình là quan trọng nhất và trước hết mà không cần biết tới lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Thậm chí, họ không từ một thủ đoạn nào để chiếm đoạt cho lợi ích riêng của mình và phe nhóm mình,v.v.. 3) Tham nhũng chính trị, tha hóa quyền lực khi tự cho mình quyền “sở hữu”, “hiện thân” quyền lực chính trị mà nhân dân ủy thác, để trao đổi, ban phát, trục lợi cho mình và nhóm lợi ích của mình, dẫn đến hình thành tệ nạn gian dối trước cấp trên, cấp dưới và nhân dân; tệ ăn trộm chức quyền như lạm quyền, lợi dụng quyền; tệ nạn chạy chức quyền, tuổi tác, luân chuyển, bằng cấp; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Những thói hư, tật xấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không còn phụng sự và liêm chính như Hồ Chí Minh căn dặn này đã dẫn đến tình trạng cánh hẩu, phường hội cát cứ, phe nhóm lợi ích, địa phương chủ nghĩa theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách”, hành xử theo lối “nói một đằng, làm một nẻo” miễn là lợi ta mà không màng đến người chung quanh, xâm hại lợi ích chung, làm phân liệt ý chí và tan rã sức mạnh của từng cơ quan, địa phương, đơn vị…
Vấn đề này, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ” ngày 30/10/2016 đã chỉ rõ; đồng thời, nhận diện và chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện. Cụ thể là: “Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”; “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”… Từ đó, Nghị quyết nhấn mạnh: “Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và để xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh luôn phụng sự và liêm chính ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền và ban, ngành chức năng tại mỗi địa  phương, cơ quan, đơn vị tăng cường bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn để nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo và chỉ đạo (từ quán triệt đến đưa nghị quyết của  Đảng vào cuộc sống) trên tinh thần: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh”. Nói đi đôi với làm và phải luôn hướng về cơ sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân để không chỉ đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị mà còn củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng; gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ" với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với Quy định về những điều đảng viên không được làm, với các quy định nêu gương,v.v.. Mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải thường xuyên, liên tục rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu,v.v.. theo chương trình hằng năm và đột xuất tại mỗi tổ chức cơ sở Đảng để nâng cao tinh thần phụng sự và liêm chính.
Thứ ba, xây đi đôi với chống: tập trung xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế phòng ngừa, kiểm soát quyền lực, đảm bảo mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân gắn với chống sự tha hóa quyền lực; đảm bảo công khai và minh bạch trong thực thi chức năng, nhiệm vụ, trong thực thi quyền lực công theo phương châm cấp trên làm gương cho cấp dưới noi theo; quyết liệt và nghiêm khắc trong công tác kiểm tra, giám sát gắn với tự phê bình và phê bình, đảm bảo trên dưới phối hợp, trong ngoài đồng bộ. Thông qua đó, một mặt ngăn chặn những biểu hiện tha hóa quyền lực như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, kéo bè kết cánh, “đầu cơ chính trị”, quan hệ “lợi ích nhóm”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa đọa về đạo đức, lối sống v.v..; mặt khác, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, phòng và chống sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, ngăn ngừa sự dao động trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ tư, tiếp tục xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước, địa phương nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Không để quyền làm chủ của nhân dân chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà phải là hành động, là những việc làm cụ thể, phải tạo điều kiện và có cơ chế để thực thi định chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thật sự và hiệu quả. Coi sự đánh giá của nhân dân là thước đo, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi mặt công tác, nhất là trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ các cấp.
Thứ năm, mở rộng và đổi mới công tác truyền thông để không chỉ định hướng đúng, kịp thời, đảm bảo sức mạnh của công luận và nhân dân mà còn làm cho việc tuyên truyền các tấm gương người tốt, việc tốt, lấy cái tích cực chống cái tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu được nhân rộng trong cộng đồng bằng nhiều hình thức phong phú. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, của cả hệ thống chính trị tham gia công tác xây dựng Đảng; tham gia giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên ở mọi nơi, mọi lúc. Đẩy nhanh xét xử những vụ án tham ô, tham nhũng nghiêm trọng trên tinh thần thấu triệt nguyên tắc pháp luật là thượng tôn, kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng là tối thượng, để không chỉ kịp thời, công minh, bình đẳng, đúng đắn đưa ra khỏi Đảng những kẻ sâu mọt không còn phụng sự và liêm chính mà còn thiết thực làm trong sạch Đảng, làm cho Đảng mạnh khỏe, chắc chắn như Hồ Chí Minh mong muốn.
Trích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (bản công bố năm 1969):
TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương
 -----------
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-612.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.11 tr.607.
[4] Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr. 1275.
[5] Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr.926.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.289-290.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.7, tr.434.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.10, tr.453.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.292.
[10]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.7, tr.177.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.11, tr.603-609.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.122.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.123.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.11, tr.606.
[15] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, t.45, tr.141.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-612.
http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/dang-phai-luon-phung-su-va-liem-chinh-121296

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...