Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2019

KHÔNG ĐỂ KẺ XẤU LỢI DỤNG "BẤT TUÂN DÂN SỰ" ĐỂ KÍCH ĐỘNG, CHỐNG PHÁ QUÂN ĐỘI



 Những năm qua, nhằm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" đối với Việt Nam, các thế lực thù địch đã sử dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức chống phá trên mọi lĩnh vực xã hội, trong đó, chúng triệt để sử dụng phương thức, thủ đoạn mới là "bất tuân dân sự" nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (ANCT-TTATXH), tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Bản chất "bất tuân dân sự" là coi thường kỷ cương phép nước
Thuật ngữ "bất tuân dân sự" (hay còn gọi là chống đối chính phủ dân sự) lần đầu tiên xuất hiện trong một bài luận với nhan đề "Dân sự bất hợp tác" của nhà văn người Mỹ, Henry David Thoreau vào tháng 5-1849. Nội dung cơ bản của bài luận bàn về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước. 
Đến thế kỷ 20, quan điểm của Thoreau về "bất tuân dân sự" phát triển thành phương thức đấu tranh bất bạo động và trở thành một mũi tiến công quan trọng trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc nhằm lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó có Việt Nam và những nước không cùng phe với họ. “Phương thức hoạt động” này được áp dụng trong cuộc "cách mạng màu", "cách mạng đường phố" ở Đông Âu và Liên Xô vào những năm cuối thế kỷ 20; làn sóng "Mùa xuân Ả Rập" ở các nước Trung Đông và Bắc Phi đầu những năm 2010, phong trào biểu tình nhằm lật đổ chính phủ ở Venezuela (từ năm 2017 đến nay); phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ tại Hồng Công (Trung Quốc) năm 2019...
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, "bất tuân dân sự" có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức “xã hội dân sự”. Với lập luận, “xã hội dân sự” là “đối quyền của quyền lực nhà nước” để tập trung đòi thực hiện trách nhiệm xã hội, chia sẻ quyền lực chính trị cho “xã hội dân sự”; thực chất là cổ vũ tư tưởng coi nhà nước đối lập với “xã hội dân sự”; kích động thái độ vô chính phủ hòng từng bước đưa “xã hội dân sự” thành lực lượng đối trọng với nhà nước; chủ nghĩa đế quốc coi hình thành “xã hội dân sự” là điều kiện, tiền đề cho việc cổ xúy tự do cá nhân, lấy "bất tuân dân sự" làm phương thức cơ bản để lật đổ chính quyền nhà nước.
Bản chất và phương thức của "bất tuân dân sự"
Xét trên phương diện đó, có thể thấy "bất tuân dân sự" có một số đặc điểm cơ bản như sau: 
Là hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý các quy định của pháp luật hoặc cản trở việc thực thi chính sách, pháp luật của nhà nước; gây áp lực buộc nhà nước phải thay đổi chính sách, pháp luật. Những người tham gia “bất tuân dân sự" thể hiện sự phản kháng, không tuân thủ pháp luật thông qua hình thức đấu tranh “ôn hòa, bất bạo động”. Tuy nhiên, tính chất “bất bạo động” có thể chuyển hóa thành bạo động rất nhanh chóng trong những hoàn cảnh cụ thể; khi gặp thời cơ thuận lợi và đủ điều kiện chín muồi. 
Mục đích và hình thức thể hiện: Thông qua việc từ chối tuân theo hay cản trở việc thực thi pháp luật, gây áp lực đối với nhà nước, các đối tượng thực hiện “bất tuân dân sự" nhằm mục đích cuối cùng là vô hiệu hóa hoạt động của chính quyền, tiến tới lật đổ nhà nước, thay thế bằng một chế độ chính trị mới theo mô hình của chủ nghĩa tư bản. Để che giấu mục đích đó, các thế lực thù địch thường che đậy, ngụy trang dưới những vỏ bọc khác nhau, như: Tụ tập, tuần hành nhằm “phản kháng ôn hòa”, “phản kháng bất bạo động”, “biểu tình ôn hòa”. Đối với Việt Nam, chúng triệt để lợi dụng các vấn đề “dân chủ, nhân quyền”,“dân tộc, tôn giáo” hoặc lợi dụng các sự kiện chính trị-xã hội phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quyền và lợi ích của con người để lôi kéo, kích động, thu hút đông đảo người dân tham gia các hoạt động, như: Đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường, phản đối đặt trạm thu phí, bảo vệ chủ quyền biển, đảo... thực chất là để thực hiện “bất tuân dân sự” nhằm chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Chủ thể tiến hành là những cá nhân, tổ chức phản động như: “Việt Tân”, “Hội anh em dân chủ”, “Hội văn đoàn độc lập Việt Nam”, “Hội nhà báo độc lập Việt Nam”, “Mạng lưới Blogger Việt Nam”... giữ vai trò chỉ đạo, tài trợ kinh phí, chỉ đạo đường lối, đào tạo, huấn luyện phương thức hoạt động cho các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, đối tượng hình sự trong nước... trở thành cộm cán thu hút, lôi kéo, tập hợp người dân tham gia các hoạt động “bất tuân dân sự”. Số đối tượng trong nước ráo riết thu thập tình hình, phát triển lực lượng, hình thành các hội nhóm hoạt động “bất bạo động”. Chúng thông qua mạng xã hội, internet, rải truyền đơn, tờ rơi... để tuyên truyền, vận động thu hút, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động do chúng chỉ đạo.
Hậu quả của “bất tuân dân sự” để lại rất nặng nề, kéo dài không chỉ về kinh tế-xã hội mà còn gây ảnh hưởng đến ANCT-TTATXH, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Điển hình như vụ người dân phản đối trạm BOT Cai Lậy (Tiền Giang) năm 2017, vụ người dân tại Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai... xuống đường phản đối Dự thảo Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc và Luật An ninh mạng năm 2018... các đối tượng đã kích động người dân đập phá trụ sở chính quyền, gây cản trở giao thông, đốt phá tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, làm bị thương nhiều cán bộ thực thi nhiệm vụ, gây ngừng trệ hoạt động của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và người dân, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân và xã hội.
Thực tế ở Việt Nam những năm qua đã cho thấy, để thực hiện “bất tuân dân sự”, các thế lực thù địch ra sức cổ xúy quyền tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực xã hội và liên kết hình thành các hội, nhóm “xã hội dân sự” với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ... thu hút các tầng lớp xã hội tham gia, như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”… Chúng lợi dụng sơ hở của chính quyền trong thực thi pháp luật để lôi kéo người tham gia phát triển lực lượng hoạt động theo kiểu “bất bạo động” xâm phạm ANCT-TTATXH. Đặc biệt, các đối tượng thù địch tìm cách lôi kéo, mua chuộc cán bộ, đảng viên và người dân tích cực tham gia phản biện chính sách, phản biện xã hội, tác động và gây sức ép đòi thay đổi chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp nhằm chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Không để kẻ xấu lợi dụng, chống phá
Cần khẳng định rằng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền của người dân được bày tỏ quan điểm một cách công khai đối với các chủ thể khác mà đặc biệt là với Nhà nước trên cơ sở pháp luật; đồng thời, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm hoạt động lợi dụng quyền và tự do cơ bản của con người để gây mất ổn định. Mọi công dân đều phải chịu sự quản lý của Nhà nước, không cá nhân nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm và xử lý nghiêm bất kỳ ai tham gia “bất tuân dân sự” cản trở thực thi pháp luật, chống đối chính quyền, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân.
Để đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả với hoạt động này, cần thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng “bất tuân dân sự” xâm phạm ANCT-TTATXH nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng phương thức này chống phá Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về bản chất của “bất tuân dân sự”, về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động “bất tuân dân sự” chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội Việt Nam, coi đó là trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, phân tích, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... kích động, lôi kéo nhân dân tham gia "bất tuân dân sự" để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để tham mưu, đề xuất các cơ quan chức năng giải quyết triệt để, thỏa đáng trên cơ sở pháp luật. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu đặt ra theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không gây sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Ba là, tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... ở nước ta. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, trang bị các phương tiện thiết bị hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, kiểm duyệt, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, internet… đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động "bất tuân dân sự".
Bốn là, cần quán triệt tinh thần giải quyết vấn đề tụ tập đông người, biểu tình, đình công theo đúng cơ chế: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện; chính quyền quản lý, điều hành; lấy vận động thuyết phục là chính, kiên quyết thu hẹp vụ việc, không để lây lan, kéo dài. Khi phát hiện có tuần hành, tụ tập đông người hay biểu tình, đình công, cần nhanh chóng đánh giá đúng tính chất, mức độ, xác định rõ nguyên nhân của vụ việc; thực hiện phân hóa số đối tượng cốt cán, cầm đầu với quần chúng bị dụ dỗ, lôi kéo; tuyên truyền vận động, thuyết phục quần chúng giải tán; kiên quyết xử lý theo pháp luật số đối tượng cầm đầu, chủ mưu, cốt cán kích động, lôi kéo người dân tham gia "bất tuân dân sự".
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của người dân trên cơ sở pháp luật; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định ANCT-TTATXH. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Chính quyền các cấp phải nêu cao vai trò, trách nhiệm phục vụ nhân dân, vì nhân dân; tăng cường đối thoại, giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc của nhân dân trên cơ sở pháp luật.

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2019

BỘ TƯ LỆNH 86 VỚI VIỆC ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG



Không gian mạng đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn những thách thức to lớn đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Sự phát triển của mạng xã hội góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, song cũng tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động chống phá, chuyển hóa chính trị, khủng bố ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Các cuộc biểu tình diễn ra trong thời gian gần đây đều sử dụng không gian mạng (mạng xã hội, ứng dụng nhắn tin bí mật Telegram, diễn đàn) làm nền tảng phát tán thông tin, kêu gọi, kích động biểu tình.
Tại Việt Nam, lợi dụng sự phát triển của không gian mạng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thường xuyên phát tán thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống lãnh đạo cấp cao, v.v. Do đó, việc tuyên truyền, đấu tranh trên không gian mạng và tiến hành các giải pháp kỹ thuật để đấu tranh chống các luận điểm sai trái, thù địch là việc làm quan trọng, cần thiết.
Hiện nay, Việt Nam có đến hàng trăm loại mạng xã hội khác nhau, như: mạng xã hội học tập, mạng xã hội du lịch, mạng xã hội kết nối bạn bè... của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong đó, nổi bật nhất là mạng xã hội Facebook, Instagram, Youtube (của Google), Zalo, Mocha, Tiktok. Hầu hết các mạng xã hội lớn tại Việt Nam đều là các mạng xã hội của các công ty nước ngoài, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào nước ta (Facebook, Google, Tiktok, Youtube, Twitter, Instagram…); các mạng xã hội của nước ta (Zalo, gần đây là Lotus và Astra); bên cạnh đó còn có các ứng dụng nhắn tin có độ bảo mật cao (Telegram, Mocha, Viber, Skype, Whatsapp).
Tính đến hết Quý III/2019, Việt Nam có hơn 62 triệu tài khoản mạng xã hội, trong đó gần 61 triệu tài khoản hoạt động trên mạng xã hội Facebook (thuộc top 10 trên thế giới về số lượng tài khoản này). Có thể nói rằng, Facebook là mạng xã hội lớn nhất tại Việt Nam và các hoạt động diễn ra trên mạng xã hội Facebook rất đa dạng từ kết nối bạn bè, liên lạc, cập nhật tin tức, giải trí, học tập, buôn bán đến sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, chia sẻ kinh nghiệm, v.v. Song song với đó, các hoạt động đăng tải bài viết trên mạng xã hội rất sôi nổi tạo ra lượng thông tin khổng lồ mỗi ngày. Trong đó, có nhiều thông tin tích cực, chia sẻ thông tin tốt từ đời sống xã hội thực, nhưng cũng có không ít thông tin tiêu cực, tin giả, tin sai sự thật, tin xấu độc gây tâm lý hoang mang cho cộng đồng.
Trên không gian mạng, thông tin được chia sẻ với tốc độ “chóng mặt” tạo nên sự cộng hưởng, lan tỏa mạnh mẽ. Trung bình 01 tháng, các thế lực thù địch phát tán hơn 130.000 bài viết, video xuyên tạc lên internet, mạng xã hội (tin giả, xấu độc chiếm trên 50%). Trong đó, có hơn 80.000 bài viết được phát tán trên mạng xã hội Facebook, chiếm 67% và khoảng 40.000 bài viết, video xuyên tạc từ các kênh mạng xã hội Youtube, Blog cá nhân hoặc các kênh tin tức phản động. Hầu như các tổ chức phản động đều xây dựng tài khoản trang (FanPage) của mạng xã hội Facebook tổ chức thành các kênh truyền tải thông tin xấu độc, giao cho nhiều đối tượng quản lý thường xuyên đăng bài, cập nhật thông tin từ các tỉnh, thành trên cả nước. Nổi bật là các trang phản động, như: “Nhật ký yêu nước”, “Dân làm báo”… mỗi ngày đăng tải hàng chục bài viết xuyên tạc, có những bài viết, video thu hút hơn 500.000 lượt bày tỏ cảm xúc, hơn 5.000 lượt chia sẻ và hơn 7.000 lượt bình luận. Ngoài ra, các tổ chức phản động còn triệt để khai thác tính năng “phát trực tuyến” của Youtube và Facebook làm công cụ phát tán thông tin xấu độc. Chúng sử dụng các đối tượng phản động tại chỗ, hoặc cử người đến địa bàn có vụ việc “nóng” xảy ra, thường xuyên đăng tải video trực tiếp lên mạng xã hội với nội dung xuyên tạc thông tin, gây hoang mang trong dư luận. Chúng còn tổ chức theo dạng Group Facebook, lợi dụng các tính năng cộng đồng, tính bảo mật để xây dựng lên các diễn đàn trao đổi, phát tán thông tin phản động hay tạo các nhóm bí mật để liên lạc, lên kế hoạch biểu tình, chống phá chế độ.
Đối với mạng xã hội Twitter, thường được cộng đồng Việt kiều ở nước ngoài sử dụng. Qua phân tích cho thấy, cộng đồng kiều bào rất quan tâm đến các sự kiện chính trị trong nước, những vấn đề liên quan đến nhân quyền, tôn giáo và sự hợp tác giữa 02 quốc gia Mỹ - Việt. Các tin bài về lãnh đạo cao cấp của Đảng đa phần bị xuyên tạc tiêu cực. Qua đó cho thấy, đa số các kiều bào nước ngoài dưới sự tác động của các luồng tư tưởng xấu độc có rất nhiều thành kiến với lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Đối với các Website tin tức, kênh hoạt động mạnh mẽ nhất là báo Người Việt Online với khoảng 400 bài/tuần. Để thu hút độc giả, chúng thường xuyên đăng tải các tin tức giật gân, các vấn đề “nóng” của xã hội Việt Nam, so sánh dựa trên quan điểm tiêu cực với xã hội kiểu Mỹ. Tỷ lệ các bài viết này thường chiếm từ 25%-30% thời lượng, kết hợp xen kẽ các bài viết có nội dung sai lệch, xuyên tạc đường lối để dần dần định hướng người đọc đến những thông tin xấu độc.
Hoạt động lợi dụng không gian mạng, đặc biệt là mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Họ thường nghiên cứu và tận dụng một cách triệt để các chính sách của mạng xã hội Facebook, theo hướng bảo vệ thông tin và danh tính của các hội nhóm. Trong thời gian qua, đã có hàng nghìn hội nhóm phản động mới xuất hiện trên mạng xã hội; đáng chú ý, có trên 50 hội nhóm với hơn 100.000 thành viên hoạt động tích cực, một số hội nhóm của các thế lực thù địch tiêu biểu là: “Việt Tân” (1.300.000 thành viên), “Nhật Ký Yêu Nước: (800.000 thành viên), “Dân Luận” (155.000 thành viên), “Pháp luân công” (16.000 thành viên), “Hóng biến” (358.000 thành viên), “Việt Nam Cộng hòa” (17.000 thành viên), v.v. Đặc biệt, các hội nhóm này hoạt động có tổ chức, mục tiêu, tôn chỉ, hoạt động tuyên truyền; trong đó, có hoạt động trong mạng (online) và cả hoạt động trên thực địa (offline), tương tự như các đảng phái chính trị. Các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng các hội nhóm này để tuyên truyền chống phá, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lôi kéo kêu gọi tụ tập, biểu tình.
Các tổ chức phản động, cơ hội chính trị, chức sắc tôn giáo cực đoan lợi dụng mạng xã hội nhằm tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, vận động giáo dân chống đối chính quyền địa phương, chia rẽ mối quan hệ cộng đồng với giáo dân, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, kích động bài trừ Trung Quốc. Chúng đang đẩy mạnh hoạt động cấu kết với các đối tượng trong nước, thực hiện nhiều hoạt động vận động nghị trường, tăng cường lôi kéo, hướng dẫn người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ sử dụng mạng xã hội, tạo lập các tài khoản, kênh thông tin truyền thông để liên lạc, trao đổi với các đối tượng ở nước ngoài. Đáng chú ý, như các linh mục: Đặng Hữu Nam, Nguyễn Duy Tân, Nguyễn Đình Thục, Nguyễn Thái Hợp, Nguyễn Ngọc Nam Phong... thường xuyên tổ chức các buổi thuyết giảng tại nhà thờ để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bôi nhọ lãnh đạo cấp cao, kích động giáo dân cướp đất, xây nhà thờ.
Để gia tăng tần suất chống phá, các tổ chức phản động triệt để lợi dụng các mạng xã hội để phát động các chiến dịch “chiến tranh thông tin” một cách bài bản và “rất hiệu quả”, tác động đến các tầng lớp nhân dân một cách nhanh chóng gây hoang mang, lung lay niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Các thủ đoạn chính là “rộng khắp”, “lan tỏa nhanh”, khi bị bóc gỡ, các thông tin này nhanh chóng xuất hiện dày đặc hơn (đặc biệt trên Youtube và Facebook) với hàng loạt các kênh mới. Chúng thực hiện chiến lược 4 bước trong việc phát triển các hội nhóm trên không gian mạng:
- “Mở không gian an toàn”: Làm cho chế độ mất dần khả năng kiểm soát thông tin với người dân và quốc tế; huấn luyện cho mỗi cộng đồng mạng, mỗi hội nhóm một đội ngũ nhân sự hiểu biết về các quyền được quốc tế bảo đảm.
- “Tăng lực”: Hỗ trợ các hội nhóm phát triển nội lực trong “không gian an toàn” vừa được tạo lập; xây dựng một nhóm nhân sự cốt lõi được đào tạo về phương pháp tổ chức, điều hành; được trang bị phương tiện hoạt động và được quốc tế quan tâm bảo vệ.
- “Tăng thế”: Tạo ra mạng lưới được liên kết từ các hội nhóm để chia sẻ, phối hợp hành động, tập hợp lực lượng; giúp các mạng lưới hòa nhập với các tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài nước.
- “Tự vận hành”: Có khả năng tự vận hành, mở rộng quy mô, kết nối, tham gia các mạng lưới khác; kết nghĩa với các hội nhóm ở nước ngoài làm điểm tựa quốc tế và hỗ trợ phát triển nội lực các cộng đồng, hội nhóm trong nước.
Hai hướng chủ yếu mà các thế lực đang triển khai quyết liệt nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
Một là, tận dụng sức mạnh của không gian mạng để truyền bá quan điểm, tư tưởng, giá trị phương Tây, lối sống tự do vô tổ chức, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; với các phương thức, thủ đoạn:
- Xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an. Các đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội để đăng tải tài liệu, thông tin, bình luận xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an, v.v. Lợi dụng các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, vụ việc phức tạp về an ninh trật tự, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, sơ hở trong quản lý, điều hành, thực thi chính sách, pháp luật của chính quyền các cấp, các vụ án liên quan đến kinh tế và cán bộ cấp cao... để dẫn nguồn thông tin từ báo chí chính thống, pha trộn thông tin thật - giả; xuyên tạc tình hình chính trị trong nước và có thời điểm tổ chức hoạt động tuyên truyền chống phá thành “chiến dịch” dưới nhiều hình thức.
- Đăng tải thông tin phản động, tài liệu tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các thế lực thù địch thiết lập các trang mạng (website, blog) có máy chủ đặt tại nước ngoài hay tạo lập tài khoản mạng xã hội trên các nền tảng của các nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam (Facebook, Google, Twitter, Tiktok...) để đăng tải thông tin phản động, tài liệu tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Thành lập hội nhóm phản động, lôi kéo lực lượng tham gia. Lợi dụng chính sách hội - nhóm của mạng xã hội (Facebook), thành lập hàng nghìn hội - nhóm tổ chức chính trị phản động khác nhau, trong đó bao gồm cả các “hội - nhóm công khai” và “hội - nhóm bí mật” với số lượng thành viên tham gia lên tới hàng triệu, lôi kéo, thu hút, mời chào thành viên tham gia tăng chóng mặt, hoạt động có đường hướng, mục đích cụ thể.
- Giả mạo các tài khoản của lãnh đạo Đảng, Nhà nước để tung tin xấu độc, tạo khoảng trống niềm tin trong dư luận. Tạo lập các trang mạng, tài khoản mạng xã hội giả mạo các cơ quan của Đảng, Nhà nước, viện nghiên cứu, trường đại học, các đồng chí lãnh đạo, các cá nhân có ảnh hưởng... để tung tin giả, tin xấu độc, lập lờ đăng tải thông tin phản động. Lợi dụng sự hiếu kỳ của người dân để kích động cộng đồng mạng tham gia chia sẻ thông tin sai sự thật, đặc biệt là các tài khoản kinh doanh buôn bán trên mạng xã hội thường xuyên chia sẻ các thông tin giật gân, câu “view” để bán hàng.
Hai là, tiếp sức, hậu thuẫn cho các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị trong nước sử dụng truyền thông mạng xã hội để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Đóng vai trò chính trong hướng này là một số tổ chức phi chính phủ (NGO) và một số hãng thông tấn của Mỹ và phương Tây, như: BBC, VOA, RFA, RFI, v.v. Trong khi các hãng thông tấn tuyên truyền, quảng bá, kích động hoạt động chống phá của số đối tượng chống đối cũng như chỉ trích Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền và cái gọi là “tự do internet” thì một số tổ chức phi chính phủ cung cấp tài chính, huấn luyện, trang bị công cụ cho các đối tượng hoạt động chống phá trên mạng hoặc khuyến khích số này chống phá quyết liệt hơn bằng cách trao các giải thưởng, đề cử vinh danh hay xếp Việt Nam vào danh sách “kẻ thù của internet”, v.v. Điều này cũng gia tăng tính nguy hại khi dịch vụ mạng xã hội, blog cá nhân, thư điện tử, trò chuyện trực tuyến đến từ nền tảng công nghệ của Mỹ, như: Facebook, Youtube, Blogspot, Wordpress, Gmail, Yahoo mail, dịch vụ chat Skype, Paltalk, Whatsapp, Snapchat, FireChat… đang được các đối tượng phản động, chống đối sử dụng triệt để cho hoạt động chống phá. Sự hỗ trợ bảo mật và cung cấp các dịch vụ ẩn danh của các hãng công nghệ cũng góp phần thúc đẩy hoạt động cực đoan, xu hướng tự do vô chính phủ, thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước hay phản kháng chính quyền theo cách mà chúng gọi là “bất tuân dân sự trên mạng”. Tổ chức Việt Tân mới đây (4-2019) cũng công bố chiến lược thứ 4 của hội phản động này là tận dụng triệt để mạng xã hội Facebook tại Việt Nam với 61 triệu tài khoản để tuyên truyền, chống phá. “Pháp luân công” dù đã bị cấm, thông qua mạng xã hội Facebook hiện nay đã thu hút hơn 1.000.000 thành viên tại khắp các tỉnh, thành phố, phân hội, với mọi tầng lớp xã hội tham gia.
Hoạt động phát triển tổ chức phản động người Việt lưu vong tại nước ngoài; hình thành, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập trên không gian mạng và qua không gian mạng cũng diễn biến nguy hiểm. Các tổ chức phản động lưu vong kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền trên mạng về tổ chức và các luận điệu chiến tranh tâm lý, tác động tư tưởng để thu hút, lôi kéo người vào tổ chức; xây dựng, thâm nhập các diễn đàn, mạng xã hội dành cho giới trẻ để phát hiện, chấm chọn đầu mối hoặc chấm chọn ngay trong số những người chủ động liên lạc với tổ chức phản động lưu vong qua mạng. Đồng thời, triệt để sử dụng các hình thức liên lạc qua mạng để móc nối, huấn luyện và chỉ đạo cơ sở nội địa.
Các đối tượng cơ hội chính trị trong nước, cùng sự móc nối với thế lực thù địch bên ngoài, cũng triệt để sử dụng truyền thông mạng xã hội để tập hợp lực lượng, công khai hóa tổ chức và triển khai các mặt hoạt động, núp dưới danh nghĩa các tổ chức xã hội dân sự hay hoạt động phản biện xã hội, tiêu biểu như: Nghiệp đoàn Báo chí Việt Nam, Nghiệp đoàn Sinh viên Việt Nam, Nghiệp đoàn Luật sự Việt Nam, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, tổ chức Green Tree, v.v.
Các đối tượng là cán bộ, đảng viên, công nhân - viên chức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng có nhiều hoạt động tiêu cực trên mạng xã hội, như: cung cấp, đăng tải thông tin bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật đời tư cán bộ cấp cao; xuyên tạc lịch sử; lật lại các vụ án trong quá khứ; kích động bài Trung, thoát Hoa,... nhằm chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhân dân ta. Các hoạt động nêu trên đang diễn ra ngày càng phổ biến trên mạng xã hội và có nhiều diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi công tác đấu tranh của ta phải có những bước tiến mới, những hướng đi đột phá, mới có thể chế áp được.
Để đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng, trước hết cần theo dõi, giám sát, phân tích xu hướng dư luận, dự báo diễn biến tình hình trên không gian mạng. Tổ chức theo dõi giám sát các trang truyền thông điện tử của thế lực thù địch thường xuyên tán phát các tin bài xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Tiến hành trinh sát nắm chắc tình hình trên không gian mạng, so sánh, đối chiếu với thông tin trinh sát trên thực địa, dự báo chính xác diễn biến tình hình trên không gian mạng thời gian tới, báo cáo tham mưu cho cấp có thẩm quyền nội dung giải pháp tuyên truyền, đấu tranh phản bác trên không gian mạng. Chủ động bám nắm, chỉ thị, xác định mục tiêu, theo dõi các tài khoản mạng xã hội có hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, đề xuất nội dung đấu tranh thông tin phù hợp với từng tài khoản. Thường xuyên rà soát, theo dõi, lập danh sách các kênh thông tin, tài khoản mạng xã hội giả mạo các cơ quan của Đảng, Nhà nước, cơ quan thuộc Chính phủ; giả mạo lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương và tiến hành bóc gỡ, vô hiệu hóa các tài khoản mạng xã hội.
Cùng với đó, cần nghiên cứu, phát triển các hệ thống phần mềm, công cụ, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, đấu tranh phản bác cho các lực lượng trên không gian mạng. Xây dựng hệ thống tự động duy trì các tài khoản đấu tranh trên mạng xã hội Facebook, hỗ trợ các lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh duy trì hoạt động của mạng lưới tài khoản ảo trên không gian mạng, vượt qua các cơ chế kiểm duyệt của mạng xã hội Facebook. Triển khai hệ thống thu thập thông tin cá nhân, thông tin bí mật của đối tượng, hỗ trợ quá trình điều tra, phát hiện lực lượng của thế lực thù địch, cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ. Phát triển bộ công cụ trinh sát mạng xã hội theo địa bàn giúp các đơn vị tại ba miền Bắc, Trung, Nam chủ động phản ứng, kịp thời xử trí với các thông tin có nguy cơ ảnh hưởng hoặc tạo thành dư luận xấu trên mạng xã hội. Xây dựng hệ thống phần mềm quản lý, giám sát, phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động của các lực lượng đấu tranh trên không gian mạng, như: chất lượng hoạt động đấu tranh trên Blog, trên mạng xã hội Facebook... hỗ trợ đắc lực cho các cơ quan quản lý, cung cấp bức tranh toàn cảnh trong toàn lực lượng, giúp các đồng chí lãnh đạo có cơ sở vững chắc để ra quyết định xây dựng lực lượng hoặc tổ chức các chiến dịch đấu tranh. Phát triển các công cụ hỗ trợ nghiệp vụ cấp chiến thuật, triển khai cài đặt cho cán bộ trực tiếp tham gia đấu tranh trên không gian mạng.
Đấu tranh, ngăn chặn, bóc gỡ, vô hiệu hóa hoạt động của các tài khoản, trang mạng xã hội, kênh thông tin của các thế lực thù địch. Nắm chắc mô hình tổ chức và mạng lưới truyền thông của các tổ chức phản động, thù địch, xác định các tài khoản hạt nhân, có tầm ảnh hưởng trong hệ thống của địch từ đó làm cơ sở xây dựng giải pháp, biện pháp, chiến dịch đấu tranh hợp lý nhằm ngăn chặn, gián đoạn, phá vỡ mạng lưới tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch.  Các cơ quan nghiệp vụ cần tăng cường phối hợp ngăn chặn hoạt động phát tán thông tin giả, tin sai sự thật, tin xấu độc; chủ động triển khai các biện pháp ngăn chặn truy cập, sự phát tán của các thông tin xấu độc trên không gian mạng. Xây dựng và triển khai hệ thống tự động tăng thứ hạng của trang báo chính thống, bài viết/hình ảnh/video trên các mạng xã hội Facebook, Youtube, nhằm đẩy mạnh lượng tương tác, chia sẻ, quảng bá thông tin chính thống đến cộng đồng mạng và đông đảo quần chúng nhân dân. Phối hợp với bộ phận liên quan triển khai các lớp đào tạo, tập huấn kỹ năng, kinh nghiệm sử dụng các giải pháp kỹ thuật trong đấu tranh trên internet và mạng xã hội cho lực lượng nòng cốt trong Quân đội và các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tham gia xây dựng kênh truyền thông uy tín để tuyên truyền, định hướng thông tin dư luận trên mạng xã hội. Chủ động xây dựng các kênh truyền thông uy tín trên mạng xã hội, bao gồm các kênh: Youtube; Fanpage, Group trên mạng xã hội Facebook để thu hút cộng đồng mạng bằng những nội dung hấp dẫn, đi sát đối tượng người dùng. Tập trung nguồn lực xây dựng nội dung thông tin để tuyên truyền, dẫn dắt, định hướng dư luận trên mạng xã hội bằng nhiều hình thức từ bài viết (văn, thơ, hò, vè, ca nhạc), hình ảnh, âm thanh đến video.
Thời gian tới, tình hình diễn biến trên không gian mạng ngày càng phức tạp cùng với đấu tranh chống lại các hoạt động chống phá có tổ chức, được xây dựng và lên kế hoạch tinh vi, xảo quyệt của các thế lực phản động, thù địch, cần phát huy tối đa sức mạnh của mọi cấp, ngành, lực lượng, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là lực lượng sĩ quan trẻ. Đồng thời, tích cực đấu tranh vạch trần âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, vững bước đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM



Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam trong hơn bảy thập kỷ qua không chỉ khẳng định về sự cần thiết phải tổ chức xây dựng quân đội cách mạng-quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm đánh đuổi thực dân, đế quốc, đánh đổ phong kiến, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới mà còn khẳng định QĐND Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với Tổ quốc và chế độ xã hội mới.
Ấy vậy mà gần đây, trên một vài trang mạng lại có kẻ xuyên tạc rằng: Quân đội không vì mục đích lý tưởng mà vì miếng cơm, manh áo và lợi ích cá nhân, sẵn sàng phản bội Đảng khi không được cung cấp đủ lợi ích... Đây là một giọng điệu hết sức nguy hiểm bởi lẽ nó đã trắng trợn xuyên tạc bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
Lịch sử 75 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta đã khẳng định, QĐND Việt Nam luôn vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội (CNXH), vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội đã sẵn sàng lên đường chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp: Độc lập dân tộc và CNXH.
QĐND Việt Nam là công cụ bạo lực vũ trang, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, của Nhà nước, vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân trong thực hiện vai trò là lực lượng nòng cốt hỗ trợ cho quần chúng nhân dân đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả của cách mạng. Quân đội ta là lực lượng nòng cốt, cùng toàn dân tiến hành đấu tranh và đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và tham gia vào công cuộc kiến thiết, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Là lực lượng nòng cốt, cùng đồng bào hai miền Nam, Bắc tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên CNXH. Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN), tham gia khắc phục hậu quả sau chiến tranh, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với Tổ quốc và chế độ XHCN; SSCĐ, hy sinh vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân là vấn đề thuộc về bản chất của QĐND Việt Nam, quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Ngay trong khói lửa của những cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, biết bao cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích cao nhất là giành độc lập, tự do cho dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ quân đội đã dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để huấn luyện, SSCĐ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo; tham gia lao động sản xuất xây dựng đất nước, tham gia phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc…
Cùng với việc giáo dục, rèn luyện để QĐND Việt Nam luôn luôn là công cụ bạo lực vũ trang, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, của Nhà nước, vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân; trong điều kiện hòa bình, với sự phát triển toàn diện của đất nước do thắng lợi của công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân cũng hết sức quan tâm bảo đảm lợi ích vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ quân đội.
Bằng sự quan tâm sâu sắc, với những chủ trương đúng đắn, kịp thời, Đảng và Nhà nước thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, nhất là chế độ, chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, những người bị nhiễm chất độc da cam/dioxin… tạo việc làm cho những quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự về các cơ quan, địa phương làm việc…
Sự quan tâm đến chế độ chính sách của cán bộ, chiến sĩ quân đội trong những năm qua của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức chính trị-xã hội, của nhân dân đối với quân đội, không chỉ khẳng định sự quan tâm chăm lo của Đảng, của Nhà nước và nhân dân trong quá trình xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho QĐND Việt Nam mãi mãi là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường bản chất cách mạng của QĐND Việt Nam, mà còn là nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sĩ an tâm xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
Trong điều kiện tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được trong hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới; nhân dân ta, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, biên giới, hải đảo vẫn còn nhiều khó khăn cả về đời sống vật chất và tinh thần. Vì vậy, sự quan tâm bảo đảm về vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ quân đội cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhưng không vì thế mà cán bộ, chiến sĩ quân đội lại suy giảm bản chất của quân đội cách mạng. Ngược lại, càng trong khó khăn, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ quân đội càng sáng ngời bản chất cách mạng, sáng ngời bản chất, truyền thống của Bộ đội Cụ Hồ.
Những giọng điệu mà kẻ xấu tán phát trên mạng không phải là do nhận thức chưa đầy đủ, thiếu đúng đắn về bản chất của QĐND Việt Nam mà thực ra họ đang cố tình xuyên tạc sự thật, phủ nhận bản chất cách mạng của QĐND Việt Nam, kích động chia rẽ quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sâu xa hơn là "phi chính trị hóa" quân đội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với quân đội.
Trong thời kỳ mới, cùng với đấu tranh phản bác những giọng điệu nguy hiểm ấy, chúng ta cần tập trung xây dựng bảo đảm cho quân đội luôn luôn là công cụ bạo lực, lực lượng chính trị trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, SSCĐ, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.
Để làm được điều ấy, trước hết cần thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện, tăng cường bản chất cách mạng của quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Xây dựng lòng trung thành của quân đội trong thời kỳ mới thực chất là tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho quân đội kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Làm cho quân đội tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật Nhà nước; thấm nhuần sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với đó, cần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có trí tuệ, tinh thông kỹ, chiến thuật, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, có lòng yêu nước, yêu CNXH và tinh thần quốc tế vô sản cao cả. Mặt khác, cần thường xuyên quan tâm bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của cán bộ, chiến sĩ quân đội, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, của quân đội. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm, cống hiến với hưởng thụ, thể hiện bản chất của quân đội cách mạng trong điều kiện mới. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trong quân đội cũng phải tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống những luận điệu xuyên tạc bản chất cách mạng của QĐND Việt Nam trong tình hình mới.

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2019

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN CỦA ĐẢNG TA



Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quan điểm, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh là nội dung được Đảng ta xác định có vị trí quan trọng hàng đầu.
Tuy cách thể hiện có khác nhau, nhưng qua từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Yếu tố cốt lõi để tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc đó chính là nền QPTD vững mạnh.
Cơ sở để Đảng ta xác định và nhất quán thực hiện quan điểm, đường lối ấy chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thực tiễn từ lịch sử dựng nước, giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa giữ nước của nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
 Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”. Xuất phát từ luận điểm ấy, ngay sau cách mạng Tháng Mười Nga thành công, để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ V.I.Lê-nin đã yêu cầu: "phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chiến đấu của nhà nước"(1).
Theo tư tưởng, quan điểm của V.I. Lênin sức mạnh bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước là sức mạnh tổng hợp, trong đó vai trò của quần chúng nhân dân rất quan trọng. Trong các tác phẩm đề cập đến vấn đề này, V.I Lê nin đều thống nhất quan điểm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử”.  Sức mạnh QPTD theo tư tưởng của V.V. Lênin không phải là chiến lược chung chung, trừu tượng mà bao hàm những thành tố rất cụ thể, sức mạnh quốc phòng là sức mạnh tổng hợp, sức mạnh toàn diện trong đó quân đội giữ vai trò nòng cốt. Nói về tăng cường sức mạnh của nền QPTD, VI.Lê nin chỉ rõ rằng phải xây dựng được quân đội mạnh làm nòng cốt. VI.Lê nin khẳng định: “Muốn bảo vệ chính quyền của công nông... chúng ta phải có Hồng quân mạnh mẽ... Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch”...
Kế thừa và phát triển truyền thống mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đồng thời vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành nên tư tưởng quân sự. Chính bằng tư tưởng quân sự ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dẫn đường, chỉ lối quân và dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh chính là xây dựng nền QPTD vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn, do đó để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và duy trì, phát triển hoạt động của chính quyền chuyên chính vô sản, không có con đường nào khác là phải bằng sức mạnh tổng hợp của nền QPTD.
Ngay trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tư tưởng ấy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: " Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: chúng ta phải xây dựng nền QPTD, toàn diện. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền QPTD phải là nền quốc phòng mang tính chất nhân dân, nền quốc phòng của dân, do dân xây dựng nên, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng.
Mặt khác theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh xây dựng nền QPTD phải gắn liền với thế trận chiến tranh nhân dân phải có lực lượng vũ trang với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) làm nòng cốt, có hậu phương vững mạnh. Cùng với đó Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền quốc phòng hiện đại, xây dựng nền QPTD phải gắn liền với xây dựng nền an ninh nhân dân .
Quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng nền QPTD mà Đảng ta đã xác định những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện, thiết thực. Tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước được tăng cường, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, trên thực tế còn không ít những vấn đề đặt ra, đáng chú ý là bên cạnh sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, ngay trong nội bộ cũng có những quan điểm chưa đúng, những nhận thức lệch lạc về sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc; về đường lối xây dựng nền QPTD... Do nhận thức lệch lạc, chưa đầy đủ và hiểu chưa đúng nên quá trình thực hiện đường lối xây dựng nền QPTD còn nhiều tồn tại, hạn chế. Đáng chú ý là trong thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với xây dựng, củng cố quốc phòng – an ninh, nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương chỉ nhấn mạnh hiệu quả kinh tế mà xem nhẹ yếu tố quốc phòng – an ninh. Do quá trình triển khai cơ quan chức năng, chủ đầu tư và các tổ chức, cá nhân có liên quan không chú ý tới những tác động đến bảo đảm quốc phòng – an ninh và an toàn cộng đồng, nên không ít công trình, dự án phải đình chỉ. Đặc biệt, nhiều khu rừng, cánh rừng từng “che bộ đội”, “vây quân thù” trong kháng chiến, tạo vành đai xanh bảo vệ biên giới trong hòa bình, nay đang bị tàn phá không thương tiếc... 
Thực trạng ấy Đảng và Nhà nước ta đã thấy rõ, chỉ ra và có nhiều giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt đấu tranh ngăn chặn, khắc phục.
Đặc biệt, sau khi thẳng thắn đánh giá thực trạng, phân tích cụ thể nguyên nhân, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đã chỉ rõ những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một trong những biểu hiện được Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra là: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối QPTD và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với biểu hiện ấy, Ban Chấp hành Trung ương xác định tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả nhiều giải pháp. Một trong những giải pháp quan trọng, phải làm thường xuyên là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ về xây dựng nền QPTD.
Cùng với tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối, cần phân tích làm cho nhân dân hiểu rằng xây dựng nền QPTD vững mạnh là yêu cầu khách quan của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN chứ không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân hay tổ chức nào. Đây là một chủ trương chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do đó, cần làm cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp và một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải xây dựng nền QPTD và an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành nhận thức đúng, ý thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với việc xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân. 
Để huy động được mọi nguồn lực, phát huy trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng cùng tham gia xây dựng nền QPTD, chúng ta phải làm cho nhân dân hiểu rõ nền QPTD mà Đảng ta chủ trương xây dựng đó là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xây dựng nền QPTD gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Việc xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam không nhằm mục đích nào khác là tự vệ chính đáng, là để chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Đây chính là thể hiện sự khác biệt về bản chất trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam cũng như các quốc gia có độc lập, chủ quyền đi theo con đường XHCN với các quốc gia khác.  
Sức mạnh của nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp được tạo nên bằng nhiều yếu tố như: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học, đối ngoại, quân sự, an ninh,... cả ở trong nước, ngoài nước, cả của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Chỉ có thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục làm cho nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ những vấn đề cơ bản đó, chúng ta mới góp phần xây dựng niềm tin, nâng cao trách nhiệm và ý chí, quyết tâm trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân. Đây cũng là biện pháp quan trọng để chúng ta phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QPTD gắn với nền an ninh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

KHÔNG CÓ VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÓ “QUÂN ĐỘI TRUNG LẬP”, “ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ”



 “Quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” là một trong những thủ đoạn nham hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đây là luận điểm vô chính trị, phản khoa học, lừa bịp đã có từ lâu, nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm vô hiệu hóa và làm lạc hướng quân đội cách mạng. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của quân đội trong lịch sử đã khẳng định: Không có “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị”.
THỰC CHẤT LUẬN ĐIỂM "QUÂN ĐỘI TRUNG LẬP", "ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ"
Chính trị của quân đội, thực chất là vấn đề bản chất giai cấp của quân đội, nó trả lời cho câu hỏi: Quân đội đó do giai cấp nào tổ chức, nuôi dưỡng, sử dụng và lãnh đạo? Nó phục vụ cho giai cấp nào, bảo vệ quyền lợi của ai? Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ấy cho ai, vì ai? Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, trong xây dựng quân đội của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào, bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, vấn đề chính trị luôn được đặt lên vị trí cao nhất, chiếm “ngôi đầu”; là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển của quân đội ấy, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ chính trị - xã hội và vận mệnh của quốc gia dân tộc. Xét về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực, phục vụ cho mục đích chính trị của một giai cấp, nhà nước nhất định. Tính chất chính trị của quân đội thể hiện tập trung và rõ nét ở mục tiêu chiến đấu, tổ chức lực lượng, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của quân đội; phụ thuộc vào quan điểm, đường lối chính trị của giai cấp, nhà nước, đảng chính trị tổ chức ra quân đội.
Hiện nay, thông qua cái gọi là “bức thư tâm huyết,” “kiến nghị của công dân”,… một số người đã lên tiếng “kiến nghị” rằng “các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức chính trị nào, đảng phái nào”, “quân đội chỉ cần tuân theo pháp luật”, “quân đội cần đứng ngoài chính trị”... Trắng trợn hơn, có kẻ còn viết bài đặt câu hỏi với cán bộ, chiến sĩ quân đội rằng: “Các anh còn ngủ đến bao giờ?”… Bản chất của những luận điệu trên là nhằm “phi đảng hóa”, “phi chính trị hóa”, tách quân đội ta ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội nhân dân.
Trong thế giới đương đại, quan điểm “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” thường xuất hiện ở các nước có cấu trúc đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, nhất là khi sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị.
Ở Thái Lan, chính phủ và các đảng phái chính trị đều ra sức tranh thủ sự ủng hộ, hậu thuẫn về chính trị của quân đội. Trong nền chính trị với cấu trúc lưỡng đảng ở Mỹ, quân đội Mỹ không hề đứng ngoài chính trị. Chỉ tính từ năm 1990 đến nay, quân đội Mỹ đã liên tục can dự vào đời sống chính trị của nhiều nước, ở  nhiều khu vực, kể cả tiến hành chiến tranh để can thiệp vào tình hình chính trị, kích động làn sóng “Mùa xuân Ả Rập”…
Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do việc xóa bỏ quy định của Hiến pháp về vai trò lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo quân đội của Đảng Cộng sản.
Thực tiễn cho thấy, ở những nước có sự tồn tại của nhiều đảng phái chính trị, việc thực hiện cái gọi là “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” đã dẫn tới tình trạng mâu thuẫn, xung đột, mất đoàn kết nội bộ và bất ổn chính trị - xã hội.
SỰ PHI LÝ CỦA LUẬN ĐIỂM "QUÂN ĐỘI TRUNG LẬP", "ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ"
K.Clausewitz - nhà lý luận quân sự tư sản của nước Phổ đã khái quát luận điểm: Chiến tranh là sự kế tục của chính trị, được thừa nhận như là một chân lý cả trong khoa học quân sự tư sản lẫn trong khoa học quân sự vô sản. Một khi đã thừa nhận “chiến tranh là sự kế tục của chính trị” thì tất yếu phải thừa nhận: không bao giờ và không ở đâu có thứ quân đội “đứng ngoài chính trị”, hoặc “không dính đến chính trị”. Bởi vì, bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có mục tiêu chính trị, thể hiện lập trường chính trị của các bên tham chiến, quân đội của các bên tham chiến đều được lực lượng chính trị cầm quyền tổ chức, giáo dục để thực hiện mục tiêu chính trị đó. Do vậy, bất cứ quân đội nào cũng đều được chú ý xây dựng về chính trị.
Vấn đề khác nhau là ở chỗ, một mặt, vấn đề xây dựng về chính trị được đặt ở vị trí nào trong quá trình xây dựng quân đội, nhất là so với quá trình hiện đại hóa vũ khí trang bị của mỗi quân đội; mặt khác, là ở mức độ công khai hóa bản chất chính trị, cũng như nội dung xây dựng về chính trị trong mỗi loại hình quân đội.
Đối với quân đội do giai cấp tư sản chi phối, do được xây dựng trên nền tảng thuyết “vũ khí luận”, vấn đề xây dựng về chính trị xếp sau việc không ngừng hiện đại hóa vũ khí trang bị. Nhưng không vì thế mà họ không chú ý đến xây dựng về chính trị cho quân đội. Chính trị được truyền bá vào quân đội của họ là hệ tư tưởng tư sản, là công tác tổ chức và lối sống, đạo đức theo quan điểm của giai cấp tư sản.
Đối với quân đội do giai cấp công nhân xây dựng, lãnh đạo và giáo dục, vấn đề chăm lo xây dựng về chính trị cho quân đội được đặt ở vị trí quan trọng bậc nhất. Điều đó xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn về tính chất giai cấp của quân đội và mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố con người với vũ khí trang bị. Những người cộng sản chưa bao giờ xem nhẹ vai trò của vũ khí trang bị, nhưng luôn coi con người là yếu tố quyết định thắng lợi: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”(1). Đây là nội dung then chốt, căn bản nhất thể hiện nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới về chính trị của giai cấp công nhân.
Trong bất cứ xã hội nào, với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một tổ chức của nhà nước, quân đội đều phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền: “Bản chất giai cấp và nội dung của nhà nước như thế nào thì quân đội - người bảo vệ lợi ích của nó như thế ấy”(2). Đồng thời, các lực lượng chính trị cầm quyền luôn tìm mọi cách để nắm chắc quân đội thông qua nhiều biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách đãi ngộ. Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định. Do đó, bản chất giai cấp của quân đội là bản chất của giai cấp, nhà nước tổ chức ra nó: “Hiện nay, cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được”(3). Quân đội chỉ mang bản chất của một giai cấp - giai cấp thống trị chi phối quyền lực nhà nước và tổ chức, nuôi dưỡng sử dụng quân đội đó. V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc căn bản về xây dựng quân đội kiểu mới, trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất và quyết định: “Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình”(4).
Vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra quân đội kiểu mới của dân tộc Việt Nam. Người đặc biệt coi trọng nhân tố chính trị trong xây dựng quân đội: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”(5). Người đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng quân đội về chính trị: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(6). Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(7). Sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là sức mạnh tổng hợp, trong đó, yếu tố con người với trình độ giác ngộ chính trị cao giữ vai trò quyết định. Chính trị có vai trò định hướng toàn bộ hoạt động của quân đội phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử. Chính trị còn có khả năng thẩm thấu, liên kết chặt chẽ các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội ta.
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ
Hiện nay, “tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”(8). Trong tình hình đó, các thế lực thù địch tiếp tục không ngừng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, với một trong các thủ đoạn là đòi hỏi “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị”. Để làm tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị phải tiếp tục được coi trọng đặc biệt, xứng đáng với vị trí là nguyên tắc cơ bản hàng đầu trong xây dựng quân đội cách mạng, cụ thể là:
Một là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội trong sạch, vững mạnh.
Thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức và đạo đức; đấu tranh chống mọi tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; miễn dịch trước sự tấn công, xâm nhập của những khuynh hướng, quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch. Ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm hạ thấp và xóa bỏ vai trò lãnh của Đảng đối với quân đội. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” và các Nghị quyết Trung ương khóa XII của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Chú trọng việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; trong đó, cần quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, sáng tạo Nghị quyết 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên gương mẫu về mọi mặt, thực sự là hạt nhân đoàn kết, tổ chức lãnh đạo đơn vị chấp hành nghiêm đường lối của Đảng và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, chiến sĩ về bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định con đường cách mạng - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, bồi dưỡng tình cảm đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam cho mỗi người quân nhân trong quân đội. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hình thành, phát triển ở mỗi cán bộ, chiến sĩ ý chí quyết tâm cao, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, có năng lực hoạt động thực tiễn và phương pháp tác phong công tác tốt, lối sống trung thực, giản dị, không bị cám dỗ bởi lối sống cá nhân chủ nghĩa, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường. Không ngại khó, ngại khổ, ngại học, ngại rèn, thường xuyên nâng cao trình độ năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị phải làm cho bản chất cách mạng của quân đội tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong tư tưởng, tình cảm, ý chí và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Ba là, coi trọng xây dựng môi trường văn hóa ở các cơ quan, đơn vị quân đội trong sạch, lành mạnh, xây dựng đạo đức, lối sống, nhân cách người quân nhân cách mạng.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội”, kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi trọng gắn kết giữa thực hiện các chuẩn mực con người Việt Nam mới, “Đơn vị văn hóa” với đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng, xây dựng điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là đoàn viên, thanh niên làm nòng cốt đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giảm thiểu vụ việc vi phạm kỷ luật. Thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội địa phương đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa trong quân đội gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Thực hiện nghiêm các quy định của Nhà nước và quân đội về công tác quản lý, kiểm tra, thẩm định biên tập, in ấn, phát hành, lưu hành, sử dụng các phương tiện nghe nhìn, thiết bị điện tử kết nối internet,… Phát huy dân chủ cơ sở gắn với tích cực đấu tranh với mọi biểu hiện ứng xử thiếu văn hóa, tạo môi trường và điều kiện tốt nhất cho bộ đội tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
Bốn là, tăng cường đấu tranh trên mặt trận lý luận - tư tưởng, vạch trần âm mưu của các thế lực thù địch muốn làm cho quân đội ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo khuynh hướng “phi chính trị hóa”.
Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng theo Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Chủ động bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội. Đấu tranh trực diện, vạch trần bản chất chính trị phản động, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội. Nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực xây dựng nội bộ đơn vị, tổ chức vững mạnh toàn diện, tạo khả năng “miễn dịch” trước những thủ đoạn tấn công bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Phát huy vai trò của hệ thống báo chí và các đơn vị văn hóa nghệ thuật quân đội, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với hệ thống truyền thông, văn hóa nghệ thuật của cả nước để làm thất bại mọi thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lý luận có đủ phẩm chất và năng lực, nhanh nhạy, sắc bén trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận lý luận, tư tưởng.
Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, chống “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng hàng đầu trong xây dựng quân đội cách mạng. Đó là một quá trình liên tục, xuyên suốt sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội cách mạng, đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp các biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách… trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định rõ nguyên tắc căn bản đó và hiện nay vẫn đang tiếp tục được coi trọng làm nền tảng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
__________________________
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.41, tr.147.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.14, tr.11.
(3) V.I.Lênin: Toàn tậpSđd, t.43, tr.277.
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.28, tr.368.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.5, tr.507.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.318.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.350.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.75.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...