Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018

ĐẤU TRANH NHỮNG HÀNH VI LỢI DỤNG TỰ DO NGÔN LUẬN BÁO CHÍ ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA
Đại Nguyễn
Ở Việt Nam, “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”[1] đã được quy định trong Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) và được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật, nghị định, như: Luật Báo chí (2016), Luật tiếp cận thông tin (2016), Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-07-2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng,…và thực thi nghiêm túc, tạo không khí dân chủ trong xã hội. Điều đó khẳng định và thể chế hóa quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí...Quyền tiếp cận thông tin của công dân được quy định rộng rãi hơn; đó không chỉ là một quyền thụ động do cơ quan nhà nước công khai thông tin theo nhận thức của mình, mà còn là quyền chủ động, được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng. Trên không gian mạng, Nhà nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội…
Tuy nhiên, cũng như các quyền khác của con người, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin phải do pháp luật quy định và trong khuôn khổ pháp luật; quy định rõ mối quan hệ giữa quyền với nghĩa vụ công dân; “không được xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Vì thế, việc hạn chế các quyền này “theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[2] là một tất yếu. Những hành vi đăng, phát thông tin xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,...đều bị pháp luật xử lý.
Hiện nay, quyền tự do ngôn luận, báo chí ở Việt Nam không những được bảo đảm tốt mà còn là nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn được báo chí phanh phui, trước khi cơ quan chức năng phát hiện, như: vụ án Trịnh Xuân Thanh bắt nguồn từ bài báo “Xe tư gắn biển xanh” là một minh chứng. Những năm gần đây, các tổ chức đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc tham gia tích cực việc giám sát, phản biện đối với chính sách của Nhà nước. “Quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới”, tham gia phản biện, giám sát của cá nhân, tổ chức được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng, khuyến khích. Tuy nhiên, vấn đề là phản biện ở đâu và động cơ phản biện như thế nào để đảm bảo tính khách quan; tránh hiện tượng “bôi đen” xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng gây tổn hại cho người dân, xã hội và đất nước.
Trong thời gian gần đây, xuất hiện cái gọi là “đấu tranh bất bạo động”, “hội chứng đám đông” của một số “người bất đồng chính kiến”... được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây “tăng âm”, phát tán với các bình luận bao che, cổ súy cho các hành vi phạm tội của họ với luận điệu lặp đi, lặp lại rằng: Việt Nam đang “bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền thông tin”; “vi phạm quyền con người, quyền công dân”...Điều này hoàn toàn phi lý và ngang ngược. Vì, pháp luật Việt Nam không có quy định về cái mà báo chí phương Tây gọi là những “người bất đồng chính kiến”. Do đó, cũng không có quy định pháp luật nào về tội danh đối với “người bất đồng chính kiến”; không có quy định nào về những ý kiến “bất đồng” hay ý kiến khác với Nhà nước là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số người lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự gắn cho mình cái mác “người bất đồng chính kiến” để viết, phát tán những nội dung xuyên tạc sự thật, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa trên mạng internet…Điển hình là: Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc, Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…và họ đã nhận những bản án thích đáng về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (1999). Đó là minh chứng cho cái giá phải trả của việc lợi dụng tự do ngôn luận, báo chí để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Trước Tòa, họ biện luận rằng: họ chỉ là những “người bất đồng chính kiến”, đấu tranh hợp pháp, bằng “bất bạo động” và điều này hoàn toàn không vi phạm pháp luật. Thực tế chứng minh điều ngược lại. Những người này đã đăng tải nhiều video/clip trên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật; lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân trong xã hội. Nói cách khác, những “người bất đồng chính kiến” bị pháp luật xử lý là vì hành vi vi phạm pháp luật của chính họ.
Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, nhất là quyền sử dụng mạng internet đã và đang bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng triệt để để vu cáo, bội nhọ vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá chế độ xã hội và Nhà nước ta. Những luận điệu cho rằng: “Chế độ Hà Nội là độc tài toàn trị”, Đảng Cộng sản Việt Nam “chiếm quyền” của dân, “đứng trên pháp luật”,…là một sự vu khống trắng trợn, hoàn toàn sai trái cả về lý luận và thực tiễn. Cũng như pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền tự do ngôn luận nói riêng luôn luôn có mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội. Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ghi rõ: mọi dân tộc đều có quyền tự quyết; xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Quy định này đã mặc nhiên thừa nhận các dân tộc có quyền tự quyết lựa chọn chế độ chính trị; quyền và nghĩa vụ công dân đều do pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Hơn nữa, pháp luật luôn mang tính chính trị, lịch sử và đặc thù về văn hóa. Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến định tại Điều 4, Hiến pháp (2013) và được Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ta, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ghi nhận. Đảng ta không chỉ là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn có chức năng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Về thể chế chính trị của nước ta, Điều 2, Hiến pháp (2013), quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”6. Những thông tin, luận điệu cổ súy “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, lấy mô hình “tam quyền phận lập” phương Tây làm đối chứng để bác bỏ thể chế của Nhà nước ta không chỉ là một thủ đoạn bôi nhọ chế độ ta, mà còn ấu trĩ trong nhận thức về sự đa dạng các mô hình xã hội trên thế giới hiện nay.





[1] Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.CTQG, H. 2014, tr. 18.
[2] Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.CTQG, H. 2014, tr. 18.
PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI BÓP MÉO, THỔI PHỒNG SỰ THẬT CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY
Đại Nguyễn
Nhìn rộng ra trong cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng chính trị chúng ta dễ dàng nhận thấy, nhằm triển khai chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá các nước không cùng quỹ đạo, thổi phồng để bóp méo, xuyên tạc, làm sai lệch bản chất sự việc, vấn đề là một trong những thủ đoạn được các thế lực thù địch, phản động thường xuyên áp dụng. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế trở thành một xu thế lớn, tất yếu của thế giới, các thế lực thù địch, phản động coi đó là thủ đoạn hữu hiệu nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, gây rối an ninh chính trị và sự ổn định tại các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Toan tính của họ khi sử dụng chiêu thức này là thêm thắt, nói quá về những sự việc, sự kiện xảy ra trong xã hội để thổi phồng cho nó lớn hơn so với thực tế, từ đó bóp méo, xuyên tạc, bôi đen sự thật, làm cho các vấn đề, các vụ việc bé xé ra to, từ đơn giản làm cho thêm phức tạp để kích động, chống phá, lũng đoạn lòng tin của nhân dân, gây chia rẽ nội bộ. Họ triệt để khai thác và sử dụng những lợi thế của công nghệ thông tin như: internet, truyền đơn, tung tin tức thất thiệt, thổi phồng để bóp méo sự thật, nhằm làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng, Nhà nước và cá nhân lãnh đạo; gây nhiễu thông tin, từ đó đẩy tới rối loạn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, từ đó bạo loạn tất yếu rất dễ xảy ra. 
Đơn cử như vụ việc gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, thông qua mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức thổi phồng làm tăng tính nghiêm trọng, phức tạp của tình hình theo kiểu “có ít xít ra nhiều”, “bé xé ra to” để rồi bóp méo, xuyên tạc “chính trị hóa” một vụ án hình sự đơn thuần thành vụ án chính trị như cách nói của họ. Hay trong vụ án Lê Duy Phong, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, bị Công an Thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái khởi tố, bắt tạm giam để điều tra và truy tố về tội “lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, theo Điều 280, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009...Thế nhưng trên một vài trang mạng, một số phần tử phản động, có tư tưởng thù địch đã thổi phồng, bóp méo, suy diễn, xuyên tạc về vụ việc theo kiểu lấy cái cụ thể để đánh giá, kết luận về cái tổng thể và cho rằng chính quyền Việt Nam “gài bẫy” để đưa các nhà báo chống tham nhũng vào vòng lao lý; Việt Nam “vi phạm tự do báo chí”...Hơn thế, từ sự việc này họ còn suy diễn, xuyên tạc, bóp méo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; xuyên tạc thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: “Cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh”, “tăng cường phòng, chống tham nhũng chỉ là chiêu trò mị dân”; có sự “bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng” của cấp ủy, chính quyền các cấp...Nguy hiểm hơn, họ còn chụp mũ cho rằng tham nhũng thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là hệ quả của cơ chế lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền... Không chỉ thổi phồng, bóp méo các vụ việc phức tạp, nhạy cảm, các thế lực thù địch, phản động còn triệt để sử dụng chiêu trò này trước các sự kiện lớn, quan trọng của đất nước. Chẳng hạn như Hội nghị Trung ương 9 khóa XII - bước chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIII sắp tới của Đảng ta. Tuy nhiên, trên nhiều trang mạng xã hội, các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền phá hoại, chống phá, họ cho rằng đó chỉ là hình thức để che mắt dư luận, che mắt nhân dân, trong thực tế việc qui hoạch nhân sự khóa tới chỉ là hình thức, đó toàn là con cha cháu ông mà thôi. Từ đó gây ra sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ XHCN.
 Chỉ cần điểm qua một số nét như vậy đã đủ thấy “thổi phồng để bóp méo”, xuyên tạc sự thật là chiêu trò không có gì mới nhưng vẫn hết sức nguy hiểm mà các thế lực thù địch, phản động, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị đã và đang triệt để khai thác sử dụng hòng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trước sự tác động đa chiều của thông tin hiện nay, vấn đề đặt ra là phải nâng cao khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trước những chiêu trò thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội, bất mãn. Cùng với đó chúng ta cần kịp thời đấu tranh kiên quyết, phê phán, phản bác mạnh mẽ với những bài viết có nội dung thông tin thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự thật, nhất là trên không gian mạng. Đối với những phần tử cơ hội, bất mãn trong nước, tùy từng trường hợp, các cơ quan chức năng cần có biện pháp trừng trị thích đáng, nghiêm minh. Đó là những việc làm cơ bản, cấp thiết để xây dựng một trật tự xã hội ổn định, một môi trường thông tin an toàn, lành mạnh, một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đúng với bản chất xã hội chủ nghĩa./.
















Thứ Tư, 19 tháng 12, 2018

XÂY DỰNG Ý THỨC TÔN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN

Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân là nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo động lực to lớn cho công cuộc đổi mới; đồng thời là giải pháp quan trọng, cấp bách trong xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay. 
1. Về tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dânđược thể hiện là phải có thái độ đánh giá cao vai trò, vị trí của nhân dân.
Theo Bác, muốn thật sự tôn trọng nhân dân thì phải hiểu dân. Chính tài dân, sức dân, của dân, quyền dân, lòng dân, sự khôn khéo, hăng hái, anh hùng đã tạo nên “cái gốc” của dân. Cùng với thái độ đánh giá cao vai trò của nhân dân, ý thức tôn trọng nhân dân còn phải đặc biệt chú ý không xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi hợp pháp, không xúc phạm nhân dân. Phải luôn luôn tôn trọng và giữ gìn của công, của nhân dân.
Phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng nhân dân. Từ chỗ đánh giá cao vai trò của dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm.
Dân chủ được Người giải thích ngắn gọn, súc tích là dân làm chủ và dân là chủ. Trong nước dân chủ thì địa vị cao nhất là dân, dân là quý nhất, lực lượng nhân dân là mạnh nhất. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân. Muốn vậy, thì phải chịu khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi dân để lãnh đạo dân. Theo Hồ Chí Minh “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”(1).
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân là vì con người, do con người, trước hết là vì dân và do dân. Người nói rằng “tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(2)
Theo Bác, muốn có sức dân, lòng dân thì phải chăm lo đời sống của dân. Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm “đầu tiên là công việc đối với con người”. Người dặn trong Di chúc “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Thứ hai, đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức tôn trọng Nhân dân thể hiện nổi bật ở sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và tư tưởng chính trị của Người.
Ý thức tôn trọng nhân dân ở khía cạnh đạo đức cần phải khai thác ở việc coi trọng, đề cao nhân dân. Tôn trọng nhân dân trong đạo đức Hồ Chí Minh là đề cao ý dân, sức dân, bởi “dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, “đối với dân ta đừng có làm điều gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(3). Người yêu cầu cán bộ, đảng viên hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, yêu kính nhân dân, thật sự tôn trọng nhân dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ được hiểu ngắn gọn: dân là chủ và dân làm chủ. Từ chỗ nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức, năng lực làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của Đảng, Chính phủ, thì một điều quan trọng là tạo điều kiện cho dân “dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(4).
Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân thể hiện rất rõ ở quan điểm khi Người nói về một trong những điều tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Chăm lo đời sống nhân dân là sứ mệnh của Đảng ta ngay từ khi ra đời. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(5).
Trăn trở về đời sống Nhân dân, trong Di chúc, Người không quên nhắc nhở Đảng, Nhà nước “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Thứ ba, phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng nhân dân xuất phát một cách tự nhiên từ nhân cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức vì nước, vì dân của Người. Phong cách tôn trọng nhân dân của Hồ Chí Minh thể hiện nhiều cách. Hồ Chí Minh có cách giao tiếp hoàn toàn mới giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân, thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người.
Phong cách Hồ Chí Minh phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng nhân dân, đề cao vai trò, vị trí của nhân dân. Dù bận rất nhiều công việc đối nội, đối ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, những người “không quan trọng” để học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý là nhu cầu thường trực của Bác.
Để thực hiện phong cách dân chủ, cần phải hiểu: “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích. Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”(6). Người chỉ rõ: “để phát huy ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng phải bàn với dân; dân sẽ có ý kiến hay”(7).
Phong cách Hồ Chí Minh chăm lo đời sống cho nhân dân:
Trong sự nghiệp kiến thiết chủ nghĩa xã hội, Người cho rằng “hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ”(8). Người nói: “một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu cực khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”, Người biến tình thương thành trách nhiệm của bản thân.
Theo Người, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải gần gũi nhân dân, quan tâm đến những việc nhỏ cho đời sống hằng ngày của Nhân dân. “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”(9).
Nói chuyện tại hội nghị sản xuất cứu đói, Người chỉ rõ: “Khi thiếu gạo, cán bộ không biết tổ chức sản xuất tự cứu, không biết tổ chức nhân dân giúp đỡ nhau. Không biết tổ chức trưng vay. Khi nhận được gạo, lại còn cấp phát tràn lan, chậm chạp, gạo đến người đói chậm, người không đói cũng nhận được gạo. Quá tệ hơn nữa là gạo của Chính phủ giúp dân, chừng một nửa đến tay dân đói, còn một nửa bị tham ô, lãng phí”(10).
Theo Hồ Chí Minh, tham nhũng là tội ác với dân, cần nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai, ở cương vị nào.
2. Thực hiện có hiệu quả xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
Năm 2019 là năm toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019); 70 năm Bác viết tác phẩm “Dân vận” (1949 - 2019); 50 năm tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969 - 2019).
Thứ nhất, đối với tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:
Trong bối cảnh nêu trên, việc thực hiện có hiệu quả chủ đề xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân trong năm 2019 và các năm tiếp theo chính là góp phần thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Trong đó, cần chú trọng một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau:
Quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về "dân làm gốc"; chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân tự do sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Nghiêm túc triển khai thực hiện: Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị khóa XI “về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định “về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quy định 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốcViệt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.
Thứ hai, đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu, cần chủ động, tích cực trong thực hiện các chương trình, kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ môi trường; phát huy sức dân, huy động nhân dân tham gia thực hiện các mục tiêu đề ra vì lợi ích của nhân dân.
Thực hiện nghiêm Quy định 08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về“Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Nghiêm túc thực hiện yêu cầu về tiếp xúc, trao đổi, đối thoại với nhân dân được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” là “cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời”.
Thứ ba, đối với cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị:
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái trong đội ngũ cán bộ. Thực hiện tốt Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về "Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ".  Tự giác thực hiện nghiêm Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”. 
Trong đó, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Ðảng, Nhà nước và của nhân dân./.
PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
-----------------------
(1)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.432.
(2) (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187, 169.
(4) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.293, 526
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.421.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.402.
(9) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.518, 519.
Theo: tuyengiao.vn


NHẬN DIỆN HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

Những năm qua, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch sử dụng mọi phương thức, thủ đoạn hoạt động; trong đó, triệt để lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) nhằm xâm phạm an ninh quốc gia, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Họ coi đó là một trong những nội dung quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, kết hợp với kích động các hoạt động chống phá từ bên trong nước ta.
Nhận thức rõ trong thời đại ngày nay, việc hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do đó Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo để ngày càng phát triển, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, trong đó có HNKTQT. Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước về HNKTQT, những năm qua, tiến trình này của Việt Nam đã, đang đạt nhiều kết quả hết sức to lớn. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước trên thế giới và cũng là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các thành viên nhóm G7 và 13/20 nước G20. Việt Nam đã ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ HNKTQT, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cùng với các lĩnh vực khác của xã hội. Năm 2016, GDP Việt Nam đạt 203 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2006; GDP năm 2017 đạt hơn 220 tỷ USD, tăng cao nhất kể từ 2011 trở lại đây và tăng 6,81% so với năm 2016. Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng 4 lần so với năm 2006, lên 11,8 tỷ USD. Năm 2017, FDI vào Việt Nam đạt gần 36 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng 10 tháng năm 2018, cả nước có 2.458 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 27,9 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 425,12 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng tăng 73,74 tỷ USD) so với năm 2016, là mức tăng kỷ lục trong vòng 10 năm trở lại đây. Chỉ trong 10 tháng năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu đạt 396,85 tỷ USD, tăng 13,8%, tương ứng tăng 48,12 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2017. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng thế giới mới công bố, dự báo Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017.
Thế nhưng trong sự thành công của Việt Nam về HNKTQT, các thế lực thù địch cũng không ngừng lợi dụng lĩnh vực này để nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với Việt Nam. Những năm qua, các thế lực thù địch đã ráo riết triển khai một số hoạt động cơ bản như sau:
Một là, thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài để từng bước chi phối nền kinh tế Việt Nam; thông qua đó nhằm làm cho Nhà nước từng bước mất dần khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với phương châm: “Lấy kinh tế để chuyển hóa chính trị”, các thế lực thù địch âm mưu từng bước xóa bỏ chế độ XHCN một cách từ từ, êm ả, không gây ra chấn động lớn trong xã hội mà khởi nguồn là từ những sai lầm trong HNKTQT ở Việt Nam.  
Hai là, họ lợi dụng HNKTQT và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là thông qua hợp tác với các cơ quan của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, thu thập tin tức bí mật nhà nước để chống phá Việt Nam. Họ đặc biệt triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao để thu thập tin, đánh cắp bí mật nhà nước, lấy cắp các phát minh, sáng chế của Việt Nam, gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.  
Ba là, triệt để thông qua các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp quốc tế hợp tác, làm ăn với Việt Nam để đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý. Họ còn tìm cách gây ra “khủng hoảng”, những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến phúc lợi nhân dân và sức mạnh của Nhà nước.  
Bốn là, họ tìm cách tác động tới các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước phương Tây, đòi gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện cải cách chính trị, pháp luật theo kiểu phương Tây (như yêu cầu Nhà nước xóa bỏ một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành…); đòi thay Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải thúc đẩy tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây, đòi thả các đối tượng chống đối vi phạm pháp luật... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, xã hội ngay từ bên trong đất nước.
Cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, việc HNKTQT của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, đó là: Cơ cấu tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa thay đổi căn bản; chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và chưa thực sự ổn định, bền vững. Quá trình HNKTQT chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý về HNKTQT; chưa có chiến lược rõ ràng khi tham gia các FTA. Việc ứng phó với các biến động và xử lý những tác động xấu do nền kinh tế thế giới gây ra còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ; hệ thống luật pháp Việt Nam theo yêu cầu HNKTQT chưa hoàn thiện và đầy đủ. Ở một số địa phương, các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến khiếu nại, tố cáo… chậm được giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt. Còn tồn tại tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng, triển khai các dự án, đề án hợp tác kinh tế quốc tế… Đó là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng hòng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Nhằm tận dụng những cơ hội, thuận lợi trong hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hành vi lợi dụng HNKTQT để chống phá Việt Nam, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để chống phá nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính tất yếu khách quan của việc HNKTQT; âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của các thế lực thù địch; vị trí, vai trò công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Hai là, bảo đảm thực hiện hiệu quả quá trình HNKTQT trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; do vậy, cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế, coi đây là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong HNKTQT. 
Ba là, thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác, làm ăn với Việt Nam để chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác để xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Cần tập trung nắm tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài, các chương trình, dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài triển khai ở Việt Nam… nhằm kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh chính trị, trật tự xã hội để phòng, chống hiệu quả. Chủ động phát hiện đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp làm lộ, lọt bí mật nhà nước, cung cấp bí mật nhà nước cho các tổ chức nước ngoài, hoặc bị kẻ địch mua chuộc, lôi kéo nhằm phá hoại kinh tế nước ta.
Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm việc ở các cơ quan, đơn vị thường xuyên tiếp xúc, trao đổi, hợp tác với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, bảo đảm cho đội ngũ này luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực HNKTQT; có khả năng nắm bắt và tận dụng cơ hội lớn, vượt khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia nước ta trong HNKTQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến HNKTQT trên cơ sở tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng nội luật hóa theo lộ trình phù hợp với những cam kết quốc tế, bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong HNKTQT, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, chủ quyền của đất nước ta.   
Những năm tới, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng HNKTQT để phá hoại thành quả cách mạng và chống phá chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Với những thành tựu đã đạt được trong HNKTQT, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta sẽ HNKTQT thành công, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, phát triển.
TÂN LONG 

http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/nhan-dien-hoat-dong-loi-dung-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-de-chong-pha-viet-nam-555447

KHÔNG ĐỂ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TẠO "KHOẢNG TRỐNG" VỀ TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA

QĐND - Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, cả trước đây cũng như hiện nay, các thế lực thù địch luôn xác định tiến công trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa (TTVH) là một “mũi đột phá” và là một nội dung trọng yếu, là vũ khí lợi hại nhất. Trong cuốn sách “1999-chiến thắng không cần chiến tranh”, R.Nixon đã xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng!".

Thực hiện mũi tiến công trên lĩnh vực TTVH hiện nay, cùng với việc thực hiện những phương thức, thủ đoạn quen thuộc, các thế lực thù địch luôn quan tâm đổi mới cách thức, thủ đoạn tiến công để tác động vào tư tưởng, tâm lý, tình cảm, tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, làm nhụt ý chí, suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, tạo điều kiện để cho hệ tư tưởng tư sản ngày càng xâm nhập sâu hơn vào đời sống tinh thần của xã hội ta, nhằm đạt tới mục tiêu là xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong đó, chúng tập trung tiến công vào một số nội dung chủ yếu như:
Một là, tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm giảm niềm tin của nhân dân vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng tập trung mọi cố gắng để chứng minh sự “lỗi thời” của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện mục tiêu, tham vọng: “Giải thể ý thức hệ cộng sản!". Chúng coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là sản phẩm chủ quan của Mác, đồng thời cho rằng, những người cộng sản kế tục Mác nhưng không hiểu thực chất các luận điểm của Mác, nên đã vận dụng một cách giáo điều, dẫn đến sai lầm cả trong đường lối và cả trong tổ chức thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH)! Chúng trắng trợn vu cáo Đảng ta “đem tư tưởng Chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng vào Việt Nam là một sự gán ghép, gượng gạo dẫn đến sai lầm!". Chúng ra sức ca tụng mô hình phát triển và thích ứng “vạn năng” của chủ nghĩa tư bản. Bằng nhiều thủ đoạn mới hết sức thâm độc, các thế lực thù địch tìm cách tạo ra sự phân hóa, đối lập, xung đột trong đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm của nhân dân đối với CNXH, từng bước rơi vào vòng xoáy của tư tưởng, giá trị tư sản. Mặt khác, chúng còn hướng nhận thức của nhân dân tin theo con đường “CNXH dân chủ”, “CNXH nhân văn”, “nhân bản”, mà thực chất là từ bỏ CNXH khoa học.
Hai là, tuyên truyền xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Người, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong khi toàn thể dân tộc và nhân loại đều khẳng định công lao và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các thế lực thù địch lại lớn tiếng xuyên tạc: Hồ Chí Minh du nhập Chủ nghĩa Mác-Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm! Rằng “Con đường Hồ Chí Minh đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải CNXH!". Chúng xuyên tạc trắng trợn nhằm thực hiện ý đồ “hạ thần tượng Hồ Chí Minh”, trong đó, dựng chuyện bôi nhọ thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng còn dùng thủ đoạn đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh đến mức đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin!
Ba là, xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN; đồng thời, ra sức du nhập văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản. Nhận rõ vai trò to lớn của văn hóa, đạo đức, lối sống trong đời sống tinh thần của xã hội ta hiện nay, nhất là trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, dưới sự tác động của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, chúng ra sức xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN trong đời sống tinh thần của xã hội ta hiện nay; đồng thời, ra sức tuyên truyền, quảng bá, tìm cách du nhập văn hóa, lối sống phương Tây vào nước ta. Coi đây là một vấn đề then chốt trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa hiện nay.
Chúng luôn khuyến khích khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ (VHVN) hoạt động độc lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự quản lý của Nhà nước, đối với VHVN, tìm cách lôi kéo các văn nghệ sĩ sáng tác theo khuynh hướng văn hóa, nghệ thuật phương Tây, hạ thấp, coi rẻ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, khuyến khích các giá trị văn hóa cá nhân cực đoan, đề cao giá trị “dân chủ”, “tự do” tư sản; làm tha hóa thế hệ trẻ bằng “văn hóa, tư tưởng, lối sống Mỹ”, nhằm tạo ra một thế hệ “mất gốc”, phủ nhận các giá trị truyền thống dân tộc, thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển. Thông qua các quan hệ giao lưu văn hóa, chúng tìm mọi cách để tuyên truyền xuyên tạc làm cho tư tưởng, lối sống tư sản xâm nhập vào đời sống xã hội ta, lấn át các giá trị truyền thống dân tộc tốt đẹp. Các lực lượng phản động bên trong và bên ngoài phối hợp chặt chẽ với nhau để đưa một số lớn tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình, băng nhạc, tán phát trên internet có nội dung phản động, đồi trụy. Chúng đưa nhiều thông tin sai lệch, độc hại lên internet, qua đó tác động xấu tới nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ, văn hóa, lối sống của nhân dân ta.
Bốn là, sử dụng các cách thức, biện pháp, phương tiện để đưa TTVH, lối sống tư sản xâm nhập vào Việt Nam. Để thực hiện các âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền phản động, các thế lực thù địch đã triệt để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng, như: Sách, báo, phim ảnh, internet, mạng xã hội… để phá hoại trận địa tư tưởng của ta. Chúng sử dụng các đài phát thanh và truyền hình, các tờ báo và tạp chí tiếng Việt, các nhà xuất bản ở nước ngoài để tuyên truyền chống phá ta trên mặt trận TTVH. Chúng triệt để lợi dụng các con đường hợp tác văn hóa để tiếp xúc, mời các nhà văn, các đoàn nghệ thuật sang thăm, học tập, “trao đổi” văn hóa; đặc biệt quan tâm tìm cách tiếp cận giới trẻ, văn nghệ sĩ để tác động, làm cho họ nhanh chóng quên đi lý tưởng xây dựng XHCN và say mê với lối sống, văn hóa phương Tây. Thúc đẩy việc truyền bá văn hóa phương Tây đối với học sinh, sinh viên, cán bộ đi học tập, công tác ở nước ngoài. Chúng coi đây là biện pháp tốt nhất để chuyển hóa TTVH, thực hành “diễn biến hòa bình” đối với lớp trẻ theo con đường tư bản chủ nghĩa với “giá rẻ”, mà hiệu quả đạt được lại cao, “một đô la cho tuyên truyền có tác dụng ngang với năm đô la chi cho quốc phòng".
Để góp phần bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữ vững trận địa tư tưởng vô sản; xây dựng và phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới, cần phải thực hiện tốt một số nội dung và biện pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao chất lượng giáo dục, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong toàn xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta. Sự nghiệp đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trước hết và trên hết là do Đảng ta nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.
Nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng, nhất là giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trước hết cần tập trung: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng trong các văn kiện Đại hội XII và các nghị quyết Trung ương khóa XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; thống nhất chương trình, nội dung học tập cho các đối tượng trong toàn xã hội; chống làm theo kiểu phong trào, hình thức, phô trương. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng; bảo vệ, phát triển và làm cho Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội ta. Giáo dục sâu rộng chủ nghĩa yêu nước XHCN, lý tưởng cách mạng; tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo ra sự “miễn dịch”, tăng cường “sức đề kháng” cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước các đòn tiến công về chính trị tư tưởng của các thế lực thù địch và sự xâm nhập của tư tưởng tư sản.
Hai là, đẩy mạnh đấu tranh tư tưởng, văn hóa. Đấu tranh TTVH là đòn trực diện tấn công vào các quan điểm phản động, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong tình hình mới. Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp chính, như: Chủ động tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận sâu rộng, củng cố nhận thức, quan điểm của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời, làm thất bại các quan điểm, tư tưởng chống đối từ nhiều phía. Tăng cường tính chủ động, tinh thần đấu tranh chống các luận điệu chống phá nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, cần có kế hoạch ngăn chặn ý đồ của các thế lực thù địch trong việc tác động, từng bước làm chuyển hóa tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta theo quan điểm tư tưởng tư sản phương Tây. Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng; vô hiệu hóa các luận điệu, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ thành công trận địa tư tưởng, quan điểm của Đảng trong quá trình đổi mới. Củng cố, giữ vững niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào con đường đi lên CNXH trong cán bộ, đảng viên và  nhân dân. Nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và mọi tầng lớp nhân dân trong đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, bảo đảm định hướng chính trị trong các sinh hoạt văn hóa và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng. Các sinh hoạt văn hóa và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng phải hướng vào phục vụ, cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng con người Việt Nam mới, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chống mọi biểu hiện “thương mại hóa”, “phi chính trị” trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản, VHVN; kịp thời ngăn chặn những quan điểm lệch lạc, thương mại hóa, xa rời tôn chỉ mục đích, lộ bí mật quốc gia, gây rối nội bộ. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng chính trị các hoạt động văn hóa, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch hòng thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam bằng hệ “giá trị” văn hóa tư sản; bảo vệ và phát triển nền văn hóa truyền thống, cách mạng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tình hình mới.
PGS, TS NGUYỄN VĨNH THẮNG


CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG MƯU MÔ LÀM SUY GIẢM UY TÍN

CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

QĐND - Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tung nhiều thông tin xấu độc bôi nhọ, xuyên tạc về Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ nhằm làm suy giảm uy tín, hình ảnh của Quân đội ta, từ đó tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với quân đội. Trước những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm này, chúng ta càng phải kiên trì giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng và bản chất, truyền thống tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ của dân, do dân, vì dân.

Lộ rõ ý đồ “bám lâu, ngoáy sâu” vào một vài bất cập để bôi nhọ hình ảnh quân đội
Những ngày gần đây, sắp đến dịp kỷ niệm 74 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam và 29 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12), trên một số trang mạng tái xuất hiện những hình ảnh liên quan đến sai sót về lễ tiết, tác phong, hành vi ứng xử của số ít quân nhân. Động thái này không ngoài ý đồ làm cho cư dân mạng và người dân có cái nhìn thiếu thiện cảm về bộ đội.
Theo thống kê của cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng, đến nay đã phát hiện hơn 300 trang báo điện tử, trang mạng xã hội (MXH) mà các thế lực phản động thường xuyên đăng thông tin chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội, công an. Chỉ tính trong 3 tháng gần đây (từ tháng 9 đến 11-2018) đã xuất hiện hơn 8.500 thông tin xấu độc về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trong đó gần 50% là thông tin trên MXH. Những người tự xưng là “nhà báo công dân”, “phóng viên không biên giới” đều có mưu toan “bám lâu, ngoáy sâu” vào một vài hiện tượng bất cập nảy sinh trong hoạt động quân sự, quốc phòng để cố tình nghiêm trọng hóa vấn đề, qua đó nhằm gây nhiễu thông tin dư luận. Ý đồ của họ là lợi dụng triệt để mặt trái của công nghệ truyền thông và MXH để viết bài, thông tin tiêu cực, tán phát tài liệu sai trái về quân đội, từ đó tác động, thẩm thấu vào nhận thức, tình cảm, niềm tin của cán bộ, chiến sĩ, gây hoài nghi về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, qua đó làm cho bộ đội dễ dao động, phân tâm về tư tưởng, giảm sút ý chí, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Ví như, nhân việc hai nhà trường quân sự trả về địa phương hai thí sinh do chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn sức khỏe phục vụ lâu dài trong quân đội, họ lớn tiếng phê phán đó là “việc làm vô tâm, bất nghĩa” (!). Lợi dụng vụ va chạm giao thông giữa một quân nhân với người dân, họ cố tình dựng chuyện với những câu từ hằn học, như: “Sĩ quan quân đội hỗn chiến với người dân trên đường”; “Một sĩ quan quân đội đánh lộn với dân” (!). Lợi dụng sự bất cập trong quản lý đất quốc phòng ở một số đơn vị, họ coi nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là “do một đảng toàn trị, độc tài lãnh đạo quân đội nên quân đội được đặc quyền đặc lợi mà không ai kiểm soát” (!). Từ vụ việc hai quân nhân đã phục viên, ra quân do thoái hóa, biến chất rồi a dua với một số trí thức, văn nghệ sĩ cực đoan tham gia cái gọi là “phong trào từ bỏ đảng”, họ cố tình xuyên tạc rằng “phong trào bỏ đảng trong quân đội đang có dấu hiệu lan rộng” (!)…
Thật không khó để nhận diện các chiêu trò của những kẻ chống phá, cơ hội bày tỏ thái độ quy chụp, vu khống, ít xít ra nhiều, bé xé ra to, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, thậm chí đổi trắng thay đen hòng thực hiện âm mưu thâm độc là bôi nhọ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, từ đó làm suy giảm uy tín của quân đội.   
Uy tín, sức mạnh quân đội bắt nguồn từ yếu tố kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh
QĐND Việt Nam đã trải qua 74 năm xây dựng, chiến đấu và không ngừng trưởng thành, lớn mạnh. Sức mạnh của Quân đội ta không chỉ thể hiện sâu sắc ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, mà còn thể hiện ở bản chất là một quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, uy tín, sức mạnh của quân đội còn xuất phát từ yếu tố kỷ luật tự giác, nghiêm minh, đòi hỏi mọi quân nhân phải tự giác tuân thủ triệt để, chấp hành đến nơi đến chốn.
Quân đội là một lực lượng trong xã hội và chịu sự tác động, ảnh hưởng từ môi trường xã hội. Nhận thức sâu sắc điều đó, những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội luôn quan tâm giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội cho mọi quân nhân; đồng thời chú trọng công tác quản lý, duy trì chặt chẽ, nghiêm túc điều lệnh, điều lệ, quy định, kỷ luật quân đội nhằm không ngừng củng cố, tăng cường sự thống nhất về ý chí và hành động cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân, qua đó xây dựng đội ngũ quân nhân cách mạng giàu lòng yêu nước, trung thành, kiên định, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Được bồi đắp, giáo dục truyền thống vẻ vang của quân đội, tình cảm cách mạng trong sáng, lý tưởng cao đẹp và được tôi luyện trong môi trường quân sự chặt chẽ về kỷ luật, thân thiện về tình đồng chí, đồng đội, lành mạnh về văn hóa, tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ đã đề cao ý chí trách nhiệm, ý thức kỷ luật nghiêm minh, sẵn sàng nhận và thực hiện tốt chức trách, cương vị được giao. “Ở đâu gặp khó, ở đó có mặt bộ đội kịp thời”, “Nơi nào gian khổ, nơi đó có bộ đội xung kích đi đầu”, “Nghiêm minh như kỷ luật quân đội”… Đó không chỉ là phương châm hành động của cán bộ, chiến sĩ toàn quân, mà từ lâu đã trở thành niềm tin sâu sắc của các tầng lớp nhân dân dành cho quân đội. Phẩm chất, nhân cách Bộ đội Cụ Hồ là một trong những giá trị đạo đức văn hóa tiêu biểu, mẫu mực của con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Điều này được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học và nhân dân ta thừa nhận, khẳng định. Thế nên, một số ít quân nhân nào đó vi phạm kỷ luật quân đội, sai sót về lễ tiết, tác phong, giao tiếp ứng xử hay có thái độ, hành vi chưa chuẩn mực như văn hóa quân sự đòi hỏi thì đó chỉ là hiện tượng cá biệt.
Tuy vậy, nói thế không có nghĩa là quân đội coi nhẹ, làm ngơ trước các sai phạm của một số quân nhân như có kẻ từng rêu rao trên MXH. Ngược lại, những trường hợp quân nhân vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội đều được cơ quan có thẩm quyền và cấp ủy, chỉ huy đơn vị liên quan phát hiện, xử lý kịp thời, đúng người, đúng lỗi sai phạm. Cách đây ít ngày, Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương đã xem xét và đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo về Đảng đối với một tổ chức đảng và kỷ luật bằng hình thức khai trừ khỏi Đảng đối với 3 đảng viên, cảnh cáo về Đảng đối với 5 đảng viên; đồng thời đề nghị thi hành kỷ luật quân đội đối với 11 quân nhân, trong đó tước danh hiệu quân nhân đối với 5 người, cách chức, giáng cấp bậc quân hàm đối với một người, cảnh cáo đối với 5 người. Nhắc lại điều đó để thấy, với phương châm kỷ luật không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất cứ ai ở cương vị nào khi có sai phạm, khuyết điểm đều phải xử lý kịp thời, chính xác, công minh, Quân đội ta không bao giờ xem nhẹ hay “dung dưỡng” bất cứ trường hợp quân nhân nào có thái độ, hành vi gây phương hại đến bản chất truyền thống, ý chí thống nhất và sức mạnh kỷ luật của một quân đội cách mạng đã được tôi rèn, hun đúc, giữ gìn bền bỉ suốt hơn bảy thập niên qua.
Được ví như “một xã hội thu nhỏ”, QĐND Việt Nam có nhiều lực lượng, tổ chức, cơ quan, đơn vị, thành phần… hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành, nghề trên khắp mọi miền Tổ quốc. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, “năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài”, trong một xã hội nói chung, một tập thể nói riêng cũng có “người thế này thế khác”, vấn đề là ở chỗ chúng ta phải khơi dậy, phát huy được cái tốt, cái hay, cái đẹp của mỗi người, đồng thời hạn chế, giảm được những khuyết điểm còn tồn tại trong mỗi con người. Thấm nhuần quan điểm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã kiên trì, nỗ lực nuôi dưỡng, vun đắp những giá trị truyền thống tích cực, tốt đẹp của dân tộc và QĐND Việt Nam cho mọi cán bộ, chiến sĩ; đồng thời thường xuyên bồi đắp, giáo dục mọi cán bộ, chiến sĩ tự giác tuân thủ, chấp hành nghiêm điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định, kỷ luật quân đội, qua đó không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
THIỆN VĂN

http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-viet-nam/canh-giac-voi-nhung-muu-mo-lam-suy-giam-uy-tin-cua-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-558266
THÀ HY SINH TẤT CẢ, CHỨ NHẤT ĐỊNH KHÔNG CHỊU MẤT NƯỚC
Cuối năm 1946, sau những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp bị thất bại; quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh. Với dã tâm thống trị Việt Nam của thực dân Pháp, từ ngày 16 đến 18-12-1946, tại nhiều nơi trên đất nước ta, quân đội thực dân Pháp đã gây ra nhiều vụ tàn sát đối với đồng bào ta; gửi hậu thư đòi yêu sách… và đe dọa hành động chiến tranh. Trước  tình hình đó, Ngày 18 và 19-12-1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong đó, Bác nhấn mạnh: "… Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ …"1.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố vào tối ngày 19-12-1946, trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với ý chí quyết tâm "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" của cả dân tộc đã giúp cho Đảng, Chính phủ vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thành công.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến viết cách đây hơn 70 năm được xem là một lời hịch của non sông - lời hiệu triệu lịch sử, là một văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị, quân sự có giá trị thời đại sâu sắc. Trong tình hình mới, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tiếp tục nêu cao tinh thần giác ngộ cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thi đua đóng góp công sức, trí tuệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Quân đội ta, để thực sự là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"; tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, ứng phó thắng lợi với mọi tình huống; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
_______________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 534.


PHÁT HUY VAI TRÒ NÒNG CỐT CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN TRONG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC
Cách đây 74 năm, thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Đây là sự kiện chính trị, lịch sử trọng đại, đánh dấu sự ra đời, phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam; khẳng định sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và dân tộc ta. Trải qua hơn bảy thập niên xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, càng đánh càng mạnh, lập nhiều chiến công hiển hách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, Quân đội nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất; chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước có quyết sách đúng đắn, xử lý kiên quyết, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, cả trên không, trên biển, biên giới và nội địa, không để bị động, bất ngờ; phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Đồng thời, tích cực triển khai toàn diện và thực hiện có hiệu quả các mặt công tác: huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, khoa học công nghệ, đối ngoại quốc phòng, v.v. Đời sống, sinh hoạt của bộ đội ngày càng được cải thiện; chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội ngày càng được nâng lên.
Toàn quân đã chú trọng thực hiện tốt công tác dân vận, thắt chặt tình đoàn kết “Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”1; tích cực tham gia giúp đỡ nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu nạn, góp phần tô thắm phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, cùng nhân dân củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
http://uploads.tapchiqptd.vn/Article/congtam/2018/12/11/lich1092131637.jpg
Đại tướng Ngô Xuân Lịch duyệt đội danh dự Quân đoàn 1. (Ảnh: qdnd.vn)
Đảng bộ Quân đội và toàn quân luôn quán triệt, thực hiện tốt phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đã có nhiều chủ trương, biện pháp củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân, gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện. Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn gương mẫu đi đầu, chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những kết quả, thành tích mà Đảng bộ Quân đội và toàn quân đạt được trong thời gian qua có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị - xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.
Trong những năm tới, trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chủ đạo nhưng tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó dự báo; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai, khủng bố, tấn công mạng có chiều hướng gia tăng; các nước lớn sẽ thực thi nhiều biện pháp cứng rắn hơn trong quan hệ quốc tế, cả về chính trị và kinh tế, sẵn sàng thỏa hiệp vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Biển Đông vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột, đe dọa đến sự ổn định, phát triển của khu vực và an ninh thế giới. Bên cạnh thuận lợi là cơ bản, đất nước ta cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức trong thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường các hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa; thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội, v.v. Trước tình hình đó, để hoàn thành tốt trọng trách được giao, Quân đội nhân dân phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu, phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một làthường xuyên nghiên cứu, nắm chắc tình hình, nâng cao chất lượng dự báo chiến lược, thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Đây là nội dung quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong bối cảnh nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bởi vậy, Quân đội nhân dân phải thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo chiến lược, làm cơ sở để tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng đúng đắn, khoa học, có đối sách phù hợp, kịp thời xử lý kiên quyết, thắng lợi các tình huống về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ về chiến lược. Các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan chiến lược của Bộ Quốc phòng phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành có liên quan, nhất là Bộ Công an, Bộ Ngoại giao trong chia sẻ thông tin, thực hiện tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 347-NQ/QUTW, ngày 23-5-2015 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo; nắm vững những nội dung cơ bản của các chiến lược, đề án về quốc phòng, an ninh; tích cực nghiên cứu, dự báo, đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực, quốc tế, các tình huống quốc phòng. Đồng thời, nắm vững những vấn đề phức tạp nảy sinh cùng động thái của các nước liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… của đất nước.
Quá trình nghiên cứu, dự báo chiến lược, cần đảm bảo khách quan, khoa học, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, vận dụng đan xen, tổng hợp trên tất cả các ngành, lĩnh vực có liên quan; coi trọng việc dự báo, tham mưu về các đối sách chiến lược, kịp thời giải quyết tốt các mối quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, có kế hoạch, phương án ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi bên trong, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống.
Hai làphát huy vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách đó, Quân đội cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, với nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và đặc điểm, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương. Cùng với xây dựng lực lượng và tiềm lực, cần tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt là “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở các địa bàn chiến lược, khu vực biên giới, biển, đảo.
Trên cơ sở kết quả tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị (khóa X), tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; triển khai thực hiện tốt quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cả nước đến năm 2020; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động nguồn lực địa phương cho xây dựng tiềm lực của khu vực phòng thủ; nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ các cấp, đảm bảo cho các địa phương có thể chủ động đối phó, xử lý tốt các tình huống quốc phòng, an ninh trong cả thời bình và thời chiến. Phát huy tốt vai trò nòng cốt của các doanh nghiệp quốc phòng, khu kinh tế - quốc phòng trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng, an ninh ở địa bàn chiến lược đặc biệt khó khăn dọc biên giới đất liền, trên biển, hải đảo; huy động các doanh nghiệp công nghiệp ngoài lực lượng vũ trang tham gia sản xuất, sửa chữa trang thiết bị cho Quân đội, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, đảm bảo tiết kiệm ngân sách nhà nước. Thực hiện nghiêm túc Luật Quốc phòng, Luật Dân quân tự vệ, nhất là chỉ đạo xây dựng điểm mô hình chốt chiến đấu của dân quân thường trực biên giới; Đề án xây dựng hải đội dân quân thường trực tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới; kế hoạch mở rộng lực lượng dân quân tự vệ trong các trạng thái sẵn sàng chiến đấu, trạng thái quốc phòng. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về quốc phòng ở các ban, bộ, ngành, địa phương; tăng cường phối hợp với lực lượng Công an giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên từng địa bàn và cả nước.
Ba làtập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Quân đội nhân dân,… là nòng cốt”2. Như vậy, Quân đội không chỉ là chủ thể, mà còn là đối tượng cần được xây dựng, bảo đảm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện điều đó, cần tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; chủ động phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ và “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Cùng với đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải chú trọng thực hiện tốt công tác chính sách, dân vận, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phong trào Thi đua Quyết thắng và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; ra sức xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện ba khâu đột phá mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X đã xác định; tập trung rà soát, sắp xếp tổ chức biên chế Quân đội theo hướng: “tinh, gọn, mạnh”, cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận, Nghị quyết của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội đến năm 2021; bảo đảm vũ khí, trang bị đến năm 2025; thành lập mới, tổ chức lại một số cơ quan, đơn vị theo kế hoạch. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 765-NQ/QUTW, ngày 20-12-2012 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo; triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, hiệu quả, tạo sự chuyển biến về chất lượng huấn luyện, diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng, diễn tập đối kháng trong các môi trường; nâng cao trình độ làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí, trang bị mới, hiện đại. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, phục vụ hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ quân sự, phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới.
Bốn làđẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tạo thế và lực để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Quân đội nhân dân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đưa công tác đối ngoại quốc phòng đi vào chiều sâu, bền vững. Tăng cường hợp tác với các nước cả trên bình diện song phương và đa phương; ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng, củng cố, phát triển mối quan hệ với các nước lớn, coi trọng hợp tác với ASEAN và các nước bạn bè truyền thống, nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Quá trình thực hiện, phải giữ vững nguyên tắc chiến lược, nhưng hết sức linh hoạt, mềm dẻo về sách lược để tổ chức thực hiện đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng; gắn kết chặt chẽ nội dung hợp tác về chính trị, quốc phòng với các nội dung hợp tác về kỹ thuật, trang thiết bị quân sự, thương mại quân sự, công nghiệp quốc phòng và các hoạt động quốc phòng khác thành một thể thống nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu hội nhập và đối ngoại đã đề ra. Tích cực, chủ động tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương, nhất là cơ chế về hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, các cuộc diễn tập đa phương trong lĩnh vực nhân đạo, tìm kiếm, cứu nạn, cứu trợ thảm họa ở từng quy mô khác nhau. Trước mắt, Quân đội cần chủ động xây dựng, hoàn chỉnh Đề án tổng thể hoạt động đối ngoại quốc phòng năm 2020 khi Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN; thực hiện tốt các cuộc giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng; phát huy vai trò Bệnh viện dã chiến cấp 2 tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng,… góp phần tạo sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin chiến lược, nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội và đất nước trên trường quốc tế.
Năm lànâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan, đơn vị toàn quân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác xây dựng Đảng. Trọng tâm là các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X cùng các quy chế, quy định của Đảng. Trong đó, coi trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình, năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết, nhất là trong lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu. Kịp thời củng cố, kiện toàn cấp ủy các cấp phù hợp với quá trình điều chỉnh tổ chức lực lượng ở từng cơ quan, đơn vị; tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ trì các cấp.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, quy trình, quy chế về công tác cán bộ, có nhiều giải pháp thiết thực, cụ thể trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng; bảo đảm cân đối về cơ cấu, số lượng và chất lượng, nhất là đối với cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; coi trọng kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, lấy ngăn chặn, phòng ngừa là chủ yếu, bảo đảm 100% cơ quan, đơn vị tuyệt đối an toàn về chính trị. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngang tầm nhiệm vụ.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, nhiệm vụ này lại càng quan trọng, cấp thiết. Với niềm tự hào dân tộc, phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, toàn quân sẽ tiếp tục nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng, cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
_____________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 435.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.

http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/phat-huy-vai-tro-nong-cot-cua-quan-doi-nhan-dan-trong-cung-co-quoc-phong-bao-ve-to-quoc/12965.html

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...