Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI MƯU ĐỒ ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI TA HỆN NAY


GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI MƯU ĐỒ ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI TA HỆN NAY
                                                    Đại Nguyễn
Một trong những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội ta hiện nay là đòi phi chính trị hóa quân đội ta; thực chất là đòi tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Họ yêu cầu quân đội phải đứng ngoài chính trị, không thực hiện chức năng trấn áp bạo lực. Bởi, họ cho rằng đã là quân đội thì chỉ có chức năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhân dân khi có kẻ thù xâm lược; không được tham gia các hoạt động khác như: Bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa…tiến tới  phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta, làm mất vai trò của Đảng đối với quân đội. Đây là một lập luận, mưu đồ sai trái, không thể chấp nhận, thực chất là làm mất vai trò của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội mất phương hướng hoạt động.
Phi chính trị hóa quân đội là một thủ đoạn không mới, nhưng cực kỳ nguy hiểm. Thủ đoạn trên đã được các nước đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện thành công ở Đông Âu, Liên Xô trước đây, để lại hậu quả vô cùng đau xót cho nhân loại tiến bộ, cho tương lai phát triển của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Hiện nay, các thế lực thù địch công khai nhận định: muốn chuyển hóa Việt Nam, trước hết phải chuyển hóa trên ba lĩnh vực cơ bản. Trong đó phá vỡ nền tảng chính trị tư tưởng là then chốt; chống phá về kinh tế là biện pháp cơ bản, thường xuyên, lâu dài; phi chính trị hóa lực lượng vũ trang trong đó có quân đội là cơ bản và là nhiệm vụ trọng yếu. Đây là thủ đoạn rất xảo quyệt và cực kỳ nguy hiểm, bởi khi quân đội ta bị phi chính trị hóa thì chắc chắn sẽ suy yếu, không còn khả năng sức mạnh, sức chiến đấu để ngăn chặn các cuộc tiến công cả từ bên trong và bên ngoài của các thế lực thù địch chống phá, không giữ vững được sự ổn định chính trị; dễ mất độc lập, tự chủ trong tương lai gần; thông qua “cách mạng hoa hồng”, “cách mạng đường phố”, các thế lực phản động sẽ lật đổ chế độ. Rõ ràng mục đích là không đổi, nhưng thủ đoạn, cách thức thực hiện có những biểu hiện rất tinh vi, xảo quyệt, thâm độc.
Xét về lý luận: Trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” của Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Không có cảnh sát, nhà nước không thể tồn tại được”. V.I.Lênin cũng khẳng định rằng sự nghiệp cách mạng cần có quân đội cách mạng, vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng vũ lực và tổ chức vũ lực đó có nghĩa là tổ chức quân sự. V.I.Lênin còn yêu cầu quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thành lập các chi bộ đảng trong mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên… coi đó là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Hồng quân. Sự thật lịch sử ấy đã tồn tại trong mọi loại hình nhà nước và phù hợp với mọi thời đại, nhưng tiếc thay những kẻ chống chủ nghĩa xã hội đã lảng tránh và cố tình không hiểu.
Trước những khó khăn của phong trào cách mạng, nhất là sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, chúng tung hô đề cao tính khoa học của các luận thuyết tư sản và phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với thời đại. Do vậy, chúng đưa ra luận điểm quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm; quân đội phải đứng ngoài chính trị, phi chính trị hóa mới phù hợp với thời đại ngày nay. Chúng đang tập trung luận giải cho quan điểm: không cần phân biệt chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, không cần chính trị, chỉ cần tiền, cần vũ khí, do đó bỏ Đảng cũng được vì quân đội không thuộc một thể chế chính trị, đảng phái nào...” mà thuộc về nhân dân. Họ nhấn mạnh, quân đội nên là lực lượng đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị của các đảng phái nhằm giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước; việc tổ chức ra quân đội chỉ là để bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Bởi thế, quân đội phải trung lập, đứng ngoài chính trị, không cần chịu sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái nào.
Về hình thức chống phá, các thế lực thù địch cho rằng, trong điều kiện hiện nay chưa thể xóa bỏ được ngay nền tảng tư tưởng của quân đội nên chúng tìm cách tác động làm cho cán bộ, chiến sĩ hoang mang về tư tưởng, dao động về lập trường, không xác định rõ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu... Đặc biệt, hiện nay chúng triệt để lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta để làm giảm niềm tin, gây mâu thuẫn giữa lãnh đạo, chỉ huy với cán bộ, chiến sĩ, phá hoại khối đoàn kết thống nhất nội bộ, kích động hình thành bè phái và các nhóm lợi ích trong nội bộ quân đội ta.
Tập trung phá hoại các nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng quân đội, xóa bỏ công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Bôi nhọ và xuyên tạc lịch sử, truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và các giá trị dân chủ phương Tây. Thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội, các thế lực thù địch còn tập trung chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, bội nhọ, xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc tính chính nghĩa của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; xuyên tạc sự kiện chiến tranh biên giới Tây Nam, quan hệ Việt - Trung, quan hệ Việt - Mỹ…; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh trong quân đội. Chúng ra sức truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thờ ơ lãnh đạm, không quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội… nhằm tạo khoảng trống về ý thức hệ, hòng làm phai nhạt bản chất cách mạng, tạo điều kiện cho hệ tư tưởng tư sản thẩm thấu vào đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội.
Đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn phi chính trị hóa quân đội ta hiện nay của các thế lực thù địch, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu sau đây.
Một là, phải tăng hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Thực hiện đúng nguyên tắc nhất quán: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Cần quan tâm xây dựng đảng trong quân đội vững mạnh về mọi mặt theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, thường xuyên, lâu dài đối với quân đội ta.
Hai là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày vững mạnh, theo hướng  cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đặc biệt chú trọng đấu tranh ngăn chặn, kiên quyết không để xảy ra tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ quân đội ta.
Ba là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận vạch trần âm mưu, bản chất, sự phi lý của quan điểm đòi phi chính trị hóa quân đội của các thế lực thù địch, đặc biệt là sai lầm khi tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng. 
Bốn là, quân đội phải làm tốt công tác nắm, nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình, âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch đòi phi chính trị hóa quân đội, để chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các tình huống xảy ra.
Năm là, chú trọng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, trong quân đội, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, để cán bộ, chiến sĩ trong quân đội luôn yên tâm, tin tưởng tuyện đối vào khả năng, sức mạnh trưởng thành của quân đội ta, bảo đảm cho quân đội luôn đủ sức chiến đấu.
Đấu tranh, phòng, chống mưu âm mưu phi chính trị hóa quân đội là nhiệm vụ cấp thiết, quan trọng, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta. Trong đó, xây dựng quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân là vấn đề cốt lõi, đảm bảo cho quân đội luôn đủ sức mạnh chiến đấu./.



GIÁO DỤC NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ CHO QUÂN ĐỘI TA HIỆN NAY


GIÁO DỤC NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ CHO QUÂN ĐỘI TA HIỆN NAY
                Đại Nguyễn
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã nhận diện và chỉ ra những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã tác động và làm ảnh hưởng đến sự phát triển, cũng như sự tồn vong của Đảng. Gần đây, tại Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá XII Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Như vậy, vấn đề này đã được Đảng ta cụ thể hóa bằng Nghị quyết, nhằm  có sự đánh giá đúng hơn, sát hơn về các biểu hiện. Nguyên nhân sâu xa và chủ yếu nhất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xuất hiện ngày càng hiện hữu trong Đảng ta là do bản thân một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí phấu đấu; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài. Sự chống phá quyết liệt, nhất là hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch cũng là một tác nhân trực tiếp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng ta hiện nay.
Thực chất “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình chuyển biến tư tưởng theo chiều hướng tiêu cực với những biểu hiện và mức độ khác nhau, diễn ra ở trong từng con người cụ thể lúc đầu chỉ mới bằng những biểu hiện đơn lẻ, dần dần thành thói quen xấu, nguy hiểm với Đảng với tổ chức. Ban đầu là những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, đến chỗ xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; từ chỗ hoang mang, hoài nghi, nhận thức lệch lạc, đến chỗ đưa ra những quan điểm sai trái, phủ nhận giá trị, tính cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thành quả của cách mạng Việt Nam; từ hành vi nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương của Đảng, dẫn đến những hành động “tiếp tay hoặc câu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”[1]. Xét về hậu quả, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một trong những thách thức, nguy cơ hàng đầu đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Quân đội nhân dân là lực lượng tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề đó, quân đội cần phải kiên định, có bản lĩnh vững vàng; không dao động trước mọi khó khăn thử thách. Có niềm tin yêu cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Qua các biểu hiện, cụ thể là 27 biểu hiện nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII mà Đảng ta đã chỉ ra, nhằm mục đích mỗi tổ chức Đảng, trước hết là mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó có cả các cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ quân đội phải nhận diện đầy đủ, để đi đến tự soi, tự sửa nếu mình có biểu hiện. Không để ảnh hưởng đến truyền thống, bản chất của quân đội, cũng như hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Để phòng ngừa kịp thời những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ quân đội ta, trước hết cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, lấy xây dựng bản lĩnh chính trị, lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân là mục tiêu giáo dục cao nhất. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải góp phần bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, để khi đối mặt với khó khăn, thử thách, đứng trước những cám dỗ vật chất, tác động từ các tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường hay đòn tấn công hiểm độc của các thế lực thù địch, cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn kiên định, vững vàng, không hoang mang, dao động, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu.
Các cấp uỷ, tổ chức Đảng các cấp cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức; tổ chức thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, gắn với cuộc vận động: “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời làm tốt công tác tự phê bình và phê bình, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, chiến sĩ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái ngay từ khi mới xuất hiện; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở từng cơ quan đơn vị trong toàn quân.
Tăng cường đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đây là yếu tố rất nguy hiểm, đóng vai trò thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung đấu tranh, phản bác các luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch bằng những luận cứ khoa học, có sức thuyết phục, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng và thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng; đồng thời, nâng cao nhận thức chính trị, lập trường tư tưởng, tinh thần cảnh giác, củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ đối với Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để phòng ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ta trong quân đội ta, cần thiết phải thực hiện một số giải pháp cơ bản, chủ yếu sau đây:
Một là, người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng đơn vị cần gương mẫu trong rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, đi đầu trong đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sự nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng đơn vị sẽ có tác dụng thúc đẩy sự tự giác, thái độ nghiêm túc của cán bộ, chiến sĩ trong rèn luyện và đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” hiện nay.
Hai là, bản thân mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự giác rèn luyện, nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, tăng cường “sức đề kháng” và “độ miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Trong môi trường công tác hết sức phức tạp như hiện nay, lại chịu sự tác động của nhiều yếu tố tiêu cực, nếu mỗi cán bộ, chiến sĩ thiếu bản lĩnh chính trị, đạo đức suy giảm sẽ dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy của lợi ích cá nhân, bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc, đi đến chỗ phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Vì vậy, muốn phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong môi trường quân đội, bản thân cán bộ, chiến sĩ quân đội phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng một cách thường xuyên, liên tục.
Phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ rất quan trọng để xây dựng quân đội ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn của cấp ủy, thủ trưởng đơn vị và từng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Trong đó, ý thức tự rèn luyện của mỗi quân nhân được xem là giải pháp quan trọng hàng đầu, có tính quyết định để ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” hiện nay. Bởi V.I. Lênin cũng từng khẳng định: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”[2]. Thật vậy, nếu cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, thì nguy cơ xâm nhập nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ không thể xuất hiện trong môi trường quân đội ta./.










[1] Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, BCHTW Đảng khoá XII, tr.23.
[2] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 42, tr.311.

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2018

DANLAMBAO VÀ CHIÊU TRÒ BÔI ĐEN SỰ THẬT NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM


DANLAMBAO VÀ CHIÊU TRÒ BÔI ĐEN SỰ THẬT
NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM
                                                                Trần Trí Nam
Ngày 13/11/2018, trên trang facebook danlambao đăng tải bài viết đưa tin về hoạt động của Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đang ở Washington D.C. Điều đáng nói là blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã từ lâu bán rẻ cội nguồn dân tộc, tiếp sức cho những phần tử xấu chống phá chế độ, chống phá thành quả phát triển mọi mặt của nước Việt Nam. Danlambao đã lợi dụng mạng xã hội facebook để đăng tải các thông tin trắng trợn vu cáo và quy chụp về nhân quyền ở Việt Nam.
Đáng chú ý, Danlambao liệt kê các hoạt động tiếp xúc với VOA, RFA của blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Họ rất có chủ ý khi đăng tải thông tin này, coi đó như một cứu cánh cho hoạt động cổ xúy cho đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, dễ nhận thấy rằng các thông tin mà họ đưa ra hoàn toàn vô giá trị với những ai thường xuyên theo dõi và nắm bắt tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Về thực chất họ vẫn tiếp tục rêu rao cái luận điệu cũ rích là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền và đòi thả các tù nhân lương tâm ở Việt Nam, nhưng thử hỏi có phải họ đấu tranh cho điều đó hay chính họ là những kẻ đang vi phạm nghiêm trọng pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
Do vậy, dù Danlambao có tiếp tục lợi dụng vào các vấn đề dân chủ, nhân quyền để phát tán thông tin xuyên tạc, bôi đen sự thật về nhân quyền ở Việt Nam, song chắc chắn người dân trong nước, cũng như độc giả với lương tri và trách nhiệm của mình sẽ chẳng ai tin, vì nó quá vô lý và hoàn toàn đi ngược lại với thực tiễn bảo đảm phát huy dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, cũng như đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của mọi người dân ở Việt Nam./.



LẬP LUẬN PHIẾN DIỆN CỦA THÀNH ĐỖ VỀ Ý THỨC HỆ CHO TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI


LẬP LUẬN PHIẾN DIỆN CỦA THÀNH ĐỖ
VỀ Ý THỨC HỆ CHO TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI
                                                                Trần Trí Nam
Ngày 19/11/2018, trên trang facebook danlambao đăng tải bài viết “Một trật tự mới về kinh tế và địa chính trị cho Châu Á Thái Bình Dương” của blogger Thành Đỗ với mục đích cổ xúy cho tư tưởng phương Tây và phủ nhận học thuyết Mác – Lênin. Điều mà blogger này lập luận về một viễn cảnh trật tự mới về kinh tế và địa chính trị cho Châu Á Thái Bình Dương mà học thuyết Mác – Lênin đã trở nên lạc hậu? Đây là những lập luận hoàn toàn phiến diện và chỉ dựa trên suy diễn cá nhân chứ không hề có giá trị khoa học và hết sức phi lý.
Về thực chất, blogger Thành Đỗ muốn xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ đó phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam theo mô hình xã hội phương Tây. Lập luận này không mới và chỉ dựa trên sự suy diễn nên Thành Đỗ đã quên mất rằng chủ nghĩa Mác – Lênin có giá trị khoa học, cách mạng và sức sống mãnh liệt, bởi học thuyết đó là sự tổng hợp các thành tựu khoa học của nhân loại, vì mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người triệt để nhất. Và đi theo con đường “Cách mạng vô sản” mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lựa chọn là con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam. Tất cả các con đường khác đều bất lực trước sức mạnh của thực dân, đế quốc. Và cho đến nay, thế giới dù còn nhiều thay đổi nhưng học thuyết Mác – Lênin vẫn có chỗ đứng vững chắc trong dòng chảy lịch sử nhân loại. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động là hoàn toàn chính xác, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.
Do vậy, dù blogger Thành Đỗ và các phần tử cơ hội chính trị có tiếp tục phát tán thông tin xuyên tạc, bôi đen sự thật, song chắc chắn mọi cách lập luận suy diễn phiến diện đòi phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin đều sẽ bị chính thực tiễn lịch sử phủ nhận./.

TRẦN QUANG THÀNH VÀ THÍCH KHÔNG TÁNH VU CÁO VIỆT NAM ĐÀN ÁP, TRIỆT HẠ TÔN GIÁO


TRẦN QUANG THÀNH VÀ THÍCH KHÔNG TÁNH VU CÁO
VIỆT NAM ĐÀN ÁP, TRIỆT HẠ TÔN GIÁO
                                                                Trần Trí Nam
Ngày 13/11/2018, trên trang facebook danlambao đăng tải bài viết vu cáo Việt Nam đàn áp, triệt hạ tôn giáo của blogger Trần Quang Thành. Đáng nói là blogger này đã đính kèm đường link của youtube, về trả lời phỏng vấn của hòa thượng Thích Không Tánh, từ đó dùng những lời lẽ vô căn cứ để trắng trợn bôi đen lịch sử về sự phát triển các tôn giáo ở Việt Nam.
Về thực chất, blogger Trần Quang Thành vốn được biết là một kẻ tiếng là đấu tranh cho tự do tôn giáo, nhưng những hành động của y lại luôn đi ngược lại với  điều đó. Có lẽ, người ta đã cảm thấy nhàm chán với cái luận điệu láo xược và trắng trợn của y, hơn thế, người ta càng cảm thấy tức giận với kẻ vô liêm xỉ như y. Y chưa làm gì cho sự phát triển của tôn giáo, mà chỉ nhăm nhăm tìm mọi cách tán phát thông tin để rêu rao một cách trắng trợn Việt Nam đàn áp tôn giáo, nhưng thử hỏi có phải y đấu tranh cho điều đó hay chính y là một trong những kẻ đang vi phạm nghiêm trọng pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Và đáng buồn thay, trong giới chức sắc của nhà Phật có cả Thích Không Tánh cũng hà hơi cổ xúy và bài xích chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Lập luận hết sức phi lý của Thích Không Tánh thật đáng lên án, vì ông ta căn cứ vào đâu mà quy chụp Việt Nam đàn áp tôn giáo? Đây là sự vu cáo nhằm bôi đen lịch sử phát triển các tôn giáo ở Việt Nam. Bởi lẽ, từ trước khi giành chính quyền từ tay thực dân đến nay, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm “tự do tôn giáo và lương giáo đoàn kết”. Thực tế đã chứng minh chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, cũng như quốc tế công nhận về tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Do vậy, dù blogger Trần Quang Thành và Thích Quang Tánh có tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo để phát tán thông tin xuyên tạc, bôi đen sự thật, song chắc chắn các độc giả sẽ chẳng ai tin, vì nó hoàn toàn vô lý./.

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM VIỆC TRONG MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ


NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM VIỆC TRONG MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Để phát huy tính tích cực và chủ động hội nhập quốc tế của đội ngũ cán bộ, Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã xác định các mục tiêu, yêu cầu, lộ trình cụ thể về năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ các cấp. Đây là một thách thức rất lớn đối với cả chủ thể quản lý và bản thân cán bộ, đòi hỏi các cấp, các ngành phải xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ rất khoa học, bài bản và mỗi cán bộ phải xác định rõ trách nhiệm và tìm động lực mới cho phát triển.
Năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý: Quan niệm, nội dung và yêu cầu cấp bách
Năng lực là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lý của tổ chức hoặc cá nhân phù hợp với yêu cầu một dạng hoạt động nhất định nhằm bảo đảm cho hoạt động đạt hiệu quả tối ưu. Ứng với từng môi trường, dạng thức hoạt động nhất định đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có những phẩm chất, năng lực, kỹ năng chuyên biệt phù hợp. 
Nói tới môi trường quốc tế là nói tới không gian có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài với nhiều cấp độ: từ cấp cao đến cấp thấp, từ song phương đến đa phương, từ chính thức đến phi chính thức... Môi trường quốc tế là tổng thể các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh - quốc phòng..., đại diện cho quan hệ lợi ích trên các lĩnh vực then chốt, đan xen, tương tác, ràng buộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế; là không gian mà từng chủ thể (quốc gia, doanh nghiệp, cá nhân...) thể hiện quá trình hội nhập quốc tế cũng như khẳng định vị thế, năng lực cạnh tranh, bản sắc của mình trước thế giới, trước các định chế quốc tế, trước các đối tác. Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi nước đều theo đuổi lợi ích của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên từng lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận; tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế(1). Hội nhập quốc tế là xu hướng khách quan đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có được những năng lực nội sinh nhất định mới có khả năng đáp ứng được những yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. 
Năng lực làm việc trong môi trường quốc tế là những đặc điểm, thuộc tính tâm lý bảo đảm cho chủ thể hoạt động (cán bộ lãnh đạo, quản lý) thực hiện một cách chủ động, có hiệu quả nhất những nhiệm vụ thuộc bộ, ban, ngành, lĩnh vực được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong điều kiện phải xử lý hài hòa các mối quan hệ lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh - quốc phòng... của nước ta với các quốc gia, các tổ chức trên thế giới, phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp quốc tế. 
Làm việc trong môi trường quốc tế là hoạt động tương tác giữa những con người thuộc nhiều quốc gia, tộc người, tôn giáo, nền văn hóa, ngôn ngữ đa dạng. Căn cứ cho hoạt động là dựa trên cả luật pháp quốc gia, luật pháp nước sở tại và luật pháp/tập quán quốc tế, mà ở đó, lợi ích cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, dân tộc và nhân loại đan cài rất phức tạp. Hoạt động trong môi trường quốc tế có thể diễn ra theo cơ chế song phương hoặc đa phương, chính thức hoặc phi chính thức, được bảo đảm bằng nguồn tài chính ngân sách hoặc nguồn lực quốc tế. Tư cách hoạt động có khi là “chủ”, có khi lại hoán đổi thành “khách”, ngày nay còn phải hoạt động trên cả môi trường không gian số. Làm việc trong môi trường quốc tế có thể với tư cách hoạt động tập thể hoặc hoạt động cá nhânhoạt động tổng hợp hoặc hoạt động chuyên biệt trên một phân hệ - lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng...) mà giữa chúng có quan hệ tương tác lẫn nhau.
Không thể hội nhập quốc tế thành công nếu không có đội ngũ cán bộ đủ năng lực tương ứng, bởi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Vì tính phức tạp nêu trên, nên người cán bộ lãnh đạo, quản lý làm việc trong môi trường quốc tế chỉ thành công khi hội đủ trình độ, phẩm chất, năng lực nhất định, thậm chí đó là năng lực vượt trội so với các hoạt động mang tính quốc nội (trình độ học vấn, chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, vốn văn hóa, sự trải nghiệm). Tùy theo trình độ, khả năng nhận thức và sự trải nghiệm của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý mà sự tác động của từng yếu tố này cũng khác nhau. Điều này lý giải tại sao trong thực tế cùng một trình độ như nhau, môi trường làm việc như nhau, nhưng có người làm việc có hiệu quả, có người làm việc lại kém hiệu quả.
Yêu cầu về năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương trong điều kiện mới
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương có vai trò quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và hội nhập quốc tế.
Yêu cầu về số lượng: 
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp xác định rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là: 1- Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40% đến 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; 2- Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20% đến 25% dưới 40 tuổi; từ 50% đến 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế(2).
Mục tiêu này thể hiện tính cấp bách của thực tiễn và chiến lược hết sức rõ ràng của Đảng ta về công tác cán bộ trong điều kiện hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đặc biệt là yêu cầu hội nhập quốc tế tinh thần mới. Vì vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và ở các cơ quan Trung ương nói riêng cần phải được xây dựng theo một khung năng lực được thiết kế bài bản, khoa học, có tầm nhìn và lộ trình cụ thể thì mới đáp ứng được yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế, trong đó cần tập trung vào những phẩm chất, năng lực cốt lõi sau đây:
Về tư tưởng, lập trường, bản lĩnh chính trị
Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là ở các cơ quan Trung ương phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là các quan điểm nêu trong Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Trong đó, những vấn đề cốt lõi phải nắm vững, biến thành phương pháp xử lý nhuần nhuyễn khi tác nghiệp hằng ngày, như giữa đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh, kiên định lợi ích quốc gia dân tộc và hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy văn hóa, xã hội(3)... Môi trường làm việc quốc tế đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; hiểu rõ bản chất chính trị của đối tác, đối tượng, không lơ là mất cảnh giác, xa rời nguyên tắc khi hoạt động hoặc quá cứng nhắc, thiếu linh hoạt cần thiết; nhạy bén, tỉnh táo trong nhận diện những cạm bẫy được ngụy trang rất tinh vi, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhất là những cám dỗ về tiền tài, vật chất khi phải làm việc với những đối tác quốc tế liên quan đến những dự án thuộc lợi ích tầm quốc gia; phải hiểu và thấm nhuần triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” và vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp và cách xử trí trước mọi tình huống trong môi trường làm việc quốc tế với phương châm: hội nhập nhưng không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong môi trường làm việc quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; cảnh giác với những âm mưu của các thế lực thù địch thông qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Về vốn văn hóa - lịch sử dân tộc và đạo đức cách mạng
Hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi cán bộ phải đứng vững trên nền tảng văn hóa dân tộc thì mới khai thác tốt nhân tố thời đại phục vụ cho lợi ích quốc gia - dân tộc, biến ngoại lực thành nội lực. Không có nền tảng văn hóa dân tộc vững chắc, cán bộ khi hội nhập dễ bị “lóa mắt” trước những cái mới lạ, rồi rơi vào bi lụy, xem nhẹ giá trị dân tộc, hình thành tư tưởng vọng ngoại. Nền tảng văn hóa dân tộc chính là vốn hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của dân tộc không phải ở cái hình thức bề ngoài, mà phải thẩm thấu các giá trị minh triết của cha ông, biến thành phương pháp, cốt cách, giá trị của mỗi cán bộ cả trong tác nghiệp hằng ngày lẫn phong cách sống mang bản sắc Việt Nam. Đến lượt nó, bản sắc văn hóa dân tộc khi thấm sâu vào mỗi cán bộ không chỉ tạo điểm tựa, căn cước cho hội nhập quốc tế mà còn trở thành “vốn đối ứng” để hấp thu có hiệu quả mọi nguồn lực bên ngoài, biến ngoại lực thành nội lực, xây dựng ý thức tự lực, tự cường, tự chủ quốc gia. Trong hội nhập quốc tế, nền tảng văn hóa còn giúp cho cán bộ luôn biết danh dự, tự tôn dân tộc để khi thấy cái yếu của mình mà không rơi vào tự ti, thậm chí phải tìm cách bứt phá vươn lên; thấy cái hay của người không bị “mê hoặc”, mà luôn tỉnh táo, biết chọn lọc cái phù hợp để học tập, phòng ngừa chủ nghĩa giáo điều. Trong môi trường làm việc quốc tế, mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cấp chiến lược và cán bộ ở các cơ quan Trung ương còn có sứ mệnh hết sức cao cả là những sứ giả quảng bá những giá trị văn hóa, cốt cách, tâm hồn con người Việt Nam ra với thế giới. Để thực hiện được sứ mệnh ấy, đội ngũ này còn phải hiểu biết sâu sắc lịch sử và những giá trị đặc sắc của văn hóa dân tộc, biết chắt lọc, kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với tinh hoa văn hóa nhân loại trong công việc thuộc lĩnh vực được phân công. Hoạt động trong môi trường quốc tế luôn cần đến khả năng chia sẻ giá trị giữa các nền văn hóa, giúp đối tác, bạn bè hiểu biết về Việt Nam. Trên những vấn đề thường xảy ra đụng độ giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, giữa Đông và Tây, giữa các tôn giáo, giữa các nước theo các mô hình thể chế chính trị khác nhau... thì hiểu biết về văn hóa giúp chia sẻ cách nhìn khoan dung, tránh rơi vào định kiến hoặc áp đặt giá trị, nhất là đối với các vấn đề nhạy cảm, như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,.. mà ngày nay còn được chuyển hóa thành cả thao tác kỹ thuật trong đàm phán tự do kinh tế theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII cùng với yêu cầu nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ đã xác định giải pháp phải “chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc”(4).
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ giỏi về chuyên môn, vững vàng về lập trường chính trị, mà còn phải là người có đạo đức cách mạng. Hội nhập quốc tế là tham dự vào một môi trường rất phức tạp, mà ở đó người cán bộ phải luôn đối diện với cả đối tượng và đối tác, lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia - dân tộc, cơ hội mang lại và khả năng thua thiệt, hào quang và cạm bẫy,... đan xen nhau. Vì vậy, tăng cường phẩm chất đạo đức bảo đảm cho người cán bộ trong hội nhập quốc tế luôn giữ vững phương hướng, không mơ hồ, mất cảnh giác, không vì lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích quốc gia - dân tộc. Đạo đức là thành tố cốt lõi của văn hóa, do đó, một khi nó được hóa thân vào trong tư tưởng, tình cảm, lẽ sống, sẽ trở thành động lực mạnh mẽ cho cán bộ hội nhập quốc tế thành công; một khi trở thành phong cách công tác và phong cách sinh hoạt đời thường sẽ tham dự tích cực vào phong cách ngoại giao mang cốt cách riêng để chinh phục và tranh thủ đối tác, cảm hóa và đấu tranh với đối tượng. 
Về trình độ, năng lực chuyên môn
Môi trường làm việc quốc tế là môi trường cạnh tranh rất khốc liệt về chuyên môn, trí tuệ và công nghệ cao, với những tiêu chuẩn, tiêu chí của giới tinh hoa các nước. Do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ công tác, có hiểu biết sâu, rộng về văn hóa, phong tục, tập quán của các nước và định chế, luật pháp và thông lệ quốc tế. Để làm việc hiệu quả trong môi trường quốc tế, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được trang bị đủ những kiến thức về thể chế, hệ thống chính trị quốc tế và hiểu biết sâu sắc về chính trị quốc tế, đặc biệt là về quan hệ giữa các nước lớn trên thế giới, những nước có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, các nước ASEAN, những nước láng giềng và bạn bè truyền thống. 
Năng lực chuyên môn là cơ sở cho đàm phán, thương thảo, thực hiện các thỏa thuận hợp tác trong hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong nhiều lĩnh vực mới mẻ đối với chúng ta trong hội nhập quốc tế, đòi hỏi cán bộ phải có nỗ lực vượt bậc để nắm bắt thì mới đủ khả năng đàm phán, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, hạn chế các thua thiệt ở mức cao nhất. Trong những lĩnh vực chuyên ngành, cán bộ không thể nắm vấn đề hời hợt, mà phải rất cụ thể, chuyên sâu về từng loại hình, cấp độ, phạm vi, quy mô với cả lợi thế và bất lợi thế,... nhờ đó mà khi thương thảo, xác định lộ trình thực hiện các cam kết hội nhập cũng như tình hình thực hiện bảo đảm cho chúng ta tận dụng được lợi thế và hạn chế bất lợi thế, vừa hội nhập, vừa tranh thủ thời gian củng cố, tăng cường năng lực các lĩnh vực, rộng hơn là năng lực cạnh tranh quốc gia. Năng lực chuyên môn sâu là cơ sở giúp nắm bắt lợi thế và bất lợi thế của từng nước, trên cơ sở đó lựa chọn đối tác và phương pháp hợp tác có khả năng bổ sung cho hạn chế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế cũng tạo ra các thách thức; vì vậy, trình độ, kiến thức chuyên ngành phải đủ để nhận diện, phân tích các mối đe dọa, nhờ đó xác định cách thức hợp tác hiệu quả, phòng ngừa các rủi ro và ứng phó có hiệu quả với các thách thức. 
Về tác phong, kỹ năng giao tiếp 
Làm việc trong môi trường quốc tế phải tuân theo những kỷ luật, tác phong nghiêm ngặt nhất định, đặc biệt đối với những phong cách đã trở thành giá trị phổ quát mang tính thông lệ quốc tế. Do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có kỷ luật cao; có khả năng làm việc độc lập trong điều kiện không phải lúc nào cũng có liên hệ được với bộ phận lãnh đạo ở trong nước; có khả năng tổ chức nhóm và làm việc nhóm. Trong các cuộc đàm phán, đối tác bao giờ cũng tìm cách áp đặt các luật chơi có lợi cho họ, nên cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế phải thích ứng với cường độ lao động cao, có phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế. Một yêu cầu cấp bách là phải khắc phục tình trạng yếu kém về ngoại ngữ. Nhiều cán bộ làm việc chủ yếu qua phiên dịch, thường rơi vào trạng thái thụ động, tự ti trong giao tiếp, làm việc. Vì vậy, cần phải xây dựng chiến lược quốc gia về đào tạo ngoại ngữ cho cán bộ, thông qua những cách làm phù hợp, khắc phục cách đào tạo không hiệu quả tồn tại bấy lâu nay. Trong thời đại không gian số phát triển thì cán bộ phải làm chủ cả về tin học, cách thức sử dụng các phương tiện kỹ thuật số phục vụ cho hội nhập quốc tế. 
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ giao tiếp giỏi, mà còn phải nắm vững nghệ thuật đàm phán, thương lượng, biết cách chia sẻ các giá trị chung, quảng bá những giá trị của dân tộc khi làm việc với các đối tác quốc tế. Ngày nay, trong điều kiện bùng nổ thông tin toàn cầu, kỹ thuật số... giao tiếp không chỉ là bằng lời nói và chữ viết, cử chỉ hay ngôn ngữ cơ thể, mà còn thông qua tương tác trên nền tảng đa phương tiện, qua các ứng dụng số, mạng xã hội. Vì vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần chủ động, nhanh chóng làm chủ kỹ năng giao tiếp này trong kỷ nguyên số. 
Về khả năng nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là dự báo chiến lược
Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương, nhất là cán bộ cấp chiến lược có một nhiệm vụ rất quan trọng và nặng nề là tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các ban, bộ, ngành về chiến lược, sách lược đối ngoại phù hợp. Vì vậy, khi làm việc trong môi trường quốc tế họ còn phải chủ động nắm bắt, đánh giá đúng thông tin, sát hợp với tình hình thực tiễn. Để khả năng dự báo đúng đắn tình hình, cục diện quốc tế, phải có tầm nhìn dài hạn, tư duy chiến lược và năng lực dự báo khoa học, nhạy bén trong nhận diện thách thức và nắm bắt thời cơ. Năng lực dự báo không hẳn là bẩm sinh, tiên nghiệm, mà nó là kết quả của quá trình được đào tạo cơ bản, nhất là các phương pháp và và dữ liệu cần thiết cho dự báo. Khả năng nhanh nhạy, linh hoạt của người cán bộ dự báo khi hoàn cảnh thay đổi dựa trên chính nguyên lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. 
Thực trạng và giải pháp tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương
Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương hiện có 29.093 đồng chí, trong đó có 660 cán bộ cấp tổng cục; 9.741 cán bộ cấp vụ và 18.692 cán bộ cấp phòng(5).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII nêu rõ: Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực nói chung được nâng lên. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. 
Tuy nhiên, năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế(6). Thực tế cho thấy, vì hạn chế về trình độ ngoại ngữ, nên nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý còn tỏ ra thiếu tự tin khi giao tiếp, làm việc với các đối tác nước ngoài. Ngoài ra, còn tình trạng một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương chưa am hiểu luật pháp quốc tế, nên khả năng đàm phán, tham mưu còn hạn chế; thiếu khả năng nắm bắt, đánh giá và dự báo cục diện, tình hình quốc tế, nhất là những dự báo tầm chiến lược.
Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương có đầy đủ bằng cấp, chứng chỉ ngoại ngữ, tin học..., nhưng lại không đủ năng lực sử dụng thực sự, lúng túng khi làm việc trong môi trường quốc tế. Một số cán bộ đi học chỉ vì bằng cấp để chuẩn hóa chức danh. Do vậy, vẫn còn khoảng cách khá xa, độ vênh rất lớn giữa bằng cấp và trình độ, năng lực thực và điều này ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng công việc và khả năng hội nhập quốc tế.
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày một sâu rộng hơn, không chỉ có những thời cơ, thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII chỉ rõ: Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau. Do đó, xuất hiện những thuận lợi, nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều khó khăn, thách thức đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và ở các cơ quan Trung ương nói riêng khi phải làm việc trong môi trường quốc tế. Về cơ bản, những cán bộ lãnh đạo, quản lý có lập trường chính trị vững vàng, kiên định với sự nghiệp cách mạng, song thường gặp nhiều khó khăn về trình độ ngoại ngữ, tin học, luật pháp quốc tế khi làm việc trong môi trường quốc tế hiện nay.
Những cán bộ được đào tạo bài bản ở nước ngoài, nhất là các nước phát triển trên thế giới, có được những thuận lợi rất cơ bản, như giỏi ngoại ngữ, tin học, am hiểu văn hóa, luật pháp của các nước sở tại, có tác phong, kỹ năng giao tiếp tốt, tư duy năng động, sáng tạo và được học tập, làm việc trong môi trường quốc tế, tỏ ra thích ứng tốt với môi trường làm việc quốc tế vốn mang tính đa văn hóa. Mặc dù vậy, một số cán bộ trong số đó lại chưa có phẩm chất chính trị thật sự vững vàng, chưa nắm chắc những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tuyển dụng sinh viên tài năng, thủ khoa xuất sắc được đào tạo ở trong nước và nước ngoài vào làm việc tại các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước hoặc đã cố gắng cử cán bộ lãnh đạo, quản lý (từ cấp vụ trở lên) đi đào tạo, bồi dưỡng, học tập kinh nghiệm ở các nước phát triển nhằm tạo nguồn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa được như mong muốn. Chất lượng đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý đã được nâng lên một bước, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về trang bị kiến thức mới, đổi mới tác phong, kỹ năng giao tiếp... cho học viên. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn nặng về lý thuyết, ít về thực hành, chồng chéo về nội dung, cho nên cán bộ không có được những kỹ năng, năng lực cần thiết để có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế và của môi trường làm việc quốc tế. 
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, giải pháp tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương cần tập trung vào mấy định hướng cơ bản sau đây: 
Thứ nhất, cần sớm sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-04-2013, của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Trong đó cần làm rõ: 1- Nguyên nhân của hạn chế và yếu kém xuất phát từ vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, từ cán bộ, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị; 2- Đánh giá cụ thể mức độ chuyển biến chất lượng nguồn nhân lực sau 5 năm thực hiện Nghị quyết bảo đảm sát hợp với từng ngành, từng lĩnh vực với các tiêu chí có thể đo đạc; 3- Nhận diện rõ những biến chuyển của tình hình quốc tế và nhu cầu mới về hội nhập quốc tế hiện nay để xây dựng tiêu chí và giải pháp tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ phù hợp, trong đó cán bộ ở các cơ quan Trung ương phải được đặt một vị trí đặc biệt quan trọng. 
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp về tầm quan trọng của năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở các cơ quan Trung ương trong điều kiện hội nhập quốc tế. Làm tốt công tác thông tin đối ngoại về hội nhập quốc tế, bao gồm cả tuyên truyền trong nước và tuyên truyền ở nước ngoài. Tuyên truyền không chỉ dừng lại ở những lời kêu gọi, động viên chung chung mà phải tổng kết được những mô hình hay, cách làm hiệu quả, những cá nhân tiêu biểu để nêu gương, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng trong xã hội. Những trường hợp tụt hậu, chậm tiến, không đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế phải bị phê bình, tạo áp lực dư luận để cán bộ không ngừng tự mình vươn lên. Các báo, đài phải dành những “giờ vàng”, những vị trí trang trọng để tuyên truyền cho hội nhập quốc tế và tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ. Tận dụng mạng xã hội để tuyên truyền, cổ vũ, động viên các mô hình tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế. 
Thứ ba, gắn trách nhiệm của bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan Trung ương trong nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Bản thân người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị phải nêu gương về nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cả về bản lĩnh chính trị, đạo đức, khả năng sử dụng ngoại ngữ, định hình phong cách, kỹ năng hội nhập. Bí thư cấp ủy, thủ trưởng phải xây dựng chương trình, kế hoạch rất cụ thể cho toàn thể ngành, cơ quan, đơn vị về tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế với những mục tiêu, lộ trình cụ thể gắn với xác định nguồn lực đầu tư, các hạng mục công việc phải hoàn thành, thứ tự ưu tiên. Hằng năm có đánh giá rất cụ thể mức độ hoàn thành chương trình, kế hoạch đó gắn với đổi mới chế độ thi đua - khen thưởng. Phải gắn đánh giá năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ với đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ của bản thân mỗi cán bộ. 
Thứ tư, xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (trong đó có cán bộ ở các cơ quan Trung ương) có đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập quốc tế. 
Chương trình quốc gia phải bao quát toàn diện các năng lực hội nhập từ các năng lực nhân văn, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học đến các kỹ năng khác. Đó là phải nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị bảo đảm cho cán bộ nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đủ bản lĩnh, kiên định và vững vàng trước mọi thay đổi của môi trường quốc tế, trước mọi đối tác và đối tượng; quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, luật pháp của Nhà nước để thao tác, xử lý những vấn đề cụ thể mà chuyên môn - nghiệp vụ đòi hỏi khi hội nhập quốc tế; có vốn văn hóa để mỗi cán bộ đủ bản lĩnh, tự tin, danh dự, ý thức tự cường trong hội nhập, không bị các thách thức của môi trường quốc tế làm hòa tan, biến chất, nhất là với cán bộ được đào tạo ở nước ngoài; có đạo đức cách mạng để luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, cảnh giác với mọi cám dỗ, đấu tranh với những hành vi đe dọa đến an ninh quốc gia; có chuyên môn sâu, vững chắc để đàm phán, thương thảo, thực thi các cam kết quốc tế một cách chuyên nghiệp, bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn chế các thua thiệt do áp lực của hội nhập quốc tế; sử dụng thành thục ngoại ngữ; có phong cách, kỹ năng mềm và kiến thức tin học phục vụ cho làm việc trong môi trường quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, cấp bách nhất của Chương trình quốc gia là phải nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ ở các cơ quan Trung ương một cách thực chất, có thời gian thỏa đáng đào tạo tại nước ngoài, có thời gian thực hành, áp dụng vào vị trí việc làm. 
Ban Tổ chức Trung ương chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng khung năng lực về làm việc trong môi trường quốc tế phù hợp với từng vị trí, chức danh của cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, trong đó xác định rõ những tiêu chí về năng lực làm việc trong môi trường quốc tế (trên các phương diện: tư tưởng, lập trường chính trị; trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ; tác phong, kỹ năng giao tiếp, khả năng đánh giá, dự báo...). Đây là cơ sở cho thiết kế Chương trình quốc gia về đào tạo cán bộ đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đồng thời, mỗi cơ quan, đơn vị dựa vào đó để đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. 
Thứ năm, tạo cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc, những trí thức, nhà khoa học, doanh nhân giỏi... ở nước ngoài về làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, cùng với chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc nhằm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực làm việc tốt trong môi trường quốc tế, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho công tác đối ngoại và phát triển đất nước. 
Thứ sáu, có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động đối ngoại chuyên nghiệp, có năng lực xuất sắc, đáp ứng yêu cầu làm việc trong các định chế quốc tế, thông qua đó góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Những cán bộ này cần được đào tạo một cách bài bản, căn cơ, có đầu tư đặc biệt, xứng đáng cả về tinh thần lẫn vật chất và tạo điều kiện cho họ rèn luyện, đóng góp, phát huy hết khả năng của mình trong môi trường làm việc quốc tế.
Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút tư nhân tham gia đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đối với những lĩnh vực mà các đối tác, các nước có thế mạnh, chúng ta phải chủ động thúc đẩy hợp tác để tranh thủ nguồn lực hỗ trợ, đặc biệt trên các phương diện luật quốc tế, chuyên môn sâu với những ngành mới, đào tạo ngoại ngữ... Hội nhập quốc tế là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, vì vậy, phải thu hút cả khu vực doanh nghiệp tham gia đào tạo nguồn nhân lực thông qua các cơ chế đối tác công tư; tạo thành một phong trào xã hội, một xu hướng phản ánh tiến bộ xã hội khi mỗi người đều có ý thức tự giác, định hình nhu cầu tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế./.
-------------------------------------------------

(1) Xem: GS, TS. Phùng Hữu Phú, GS, TS. Lê Hữu Nghĩa, GS, TS. Vũ Văn Hiền, PGS, TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 761
(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (lưu hành nội bộ), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 58 - 60
(3) Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính tri,̣ Về hội nhập quốc tế
(4) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (lưu hành nội bộ), Sđd, tr. 61
(5) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 39
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII (lưu hành nội bộ), Sđd, tr. 47
Nguyễn Chí Hiếu
PGS, TS, Tạp chí Cộng sản

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...