Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2018


NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM
TRONG PHÒNG CHỐNG TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA
Hồng Ngọc
Ban Chấp hành Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống với 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Việc đưa ra hệ thống những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là để làm “tấm gương chung” giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự soi mình; làm cơ sở để đóng góp ý kiến cho người khác và làm căn cứ để xử lý đối với những tập thể, cá nhân vi phạm. Hệ thống những biểu hiện này cũng là căn cứ để góp phần xây dựng tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên về phẩm chất chính trị, phẩm chất về đạo đức, lối sống phù hợp với yêu cầu cao của sự nghiệp cách mạng đang đòi hỏi. Đây là vấn đề khó, mà lâu nay chưa cụ thể hóa được nên còn lúng túng khi xem xét, đánh giá cán bộ. Bởi, Nghị quyết lần này có một số giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt như đổi mới và bắt buộc học tập lý luận chính trị; cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cơ chế kiểm soát quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước, công khai kết quả xử lý vi phạm; sự thống nhất về chính sách và kỷ luật giữa Đảng và Nhà nước; hợp đồng có thời hạn với viên chức; tăng thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu để xử lý cán bộ thuộc quyền; tăng cường sự giám sát của nhân dân trong xây dựng Đảng.
Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam.
Như chúng ta đã biết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, lãng phí, sự phân hóa giàu nghèo… dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, phản động v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, kỷ luật của quân đội v.v.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn dư âm. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm”. Để đấu tranh, phòng, chống hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhât, cần làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng mức độ nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh. Như chúng ta đều biết hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và mức độ nguy hiểm của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là giải pháp hết sức quan trọng. Trước mắt, cần làm cho mọi người nhận thức được những biểu hiện của nó được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra; tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành; thấy được việc phòng, chống sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh hết sức cam go, phức tạp diễn ra ngay trong nội bộ, giữa ta với ta, v.v. Việc giáo dục nâng cao nhận thức phải đi đôi với khắc phục những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác, xem nhẹ, không thể hiện rõ lập trường, quan điểm trước những hành vi tiêu cực, hoặc thờ ơ, không dám đấu tranh với sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hai là, phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, Nghị quyết lần này đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cơ sở để đấu tranh, khắc phục một cách triệt để. Nghị quyết xác định 4 nhóm giải pháp mang tính cơ bản, toàn diện, khoa học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Từ đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống các nhóm nhiệm vụ giải pháp, cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp, đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ ra những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên, bảo đảm rõ từng nội dung, hình thức, bước đi, biết lựa chọn vấn đề trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, làm qua loa đại khái.
Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng, từng đảng viên như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ, đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện tiến bộ hơn; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc phục đúng lúc có quan điểm đúng đắn. Do đó, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh. Cùng với đó, cần đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới tác phong, phong cách làm việc, sâu sát cụ thể tỉ mỉ ở cơ sở. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động chống phá, phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đôi với làm, tạo môi trường thuận lợi phòng, chống có hiểu quả những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bốn là, phát huy vai trò và nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trước mắt, cần tăng cường quản lý giáo dục, duy trì các hoạt động thông tin tuyên truyền, việc sử dụng mạng in-tơ-nét và các trang mạng xã hội; chủ động định hướng, cung cấp thông tin kịp thời với cấp trên. Từ đó chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương “người tốt, việc tốt”, tập thể tốt; đồng thời, có những bài viết sắc sảo, ý thức chính trị cao nhằm phê phán, lên án những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính nội bộ.
Với các biện pháp như đã nêu ở trên, cần nhận diện đúng, để đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà do nó gây ra đối với Đảng, chế độ và đất nước ta. Làm tốt các vấn đề đã trình bày ở trên, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại mọi mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch và bọn phản động./.



NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM
TRONG PHÒNG CHỐNG TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA
Hồng Ngọc
Ban Chấp hành Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống với 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Việc đưa ra hệ thống những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là để làm “tấm gương chung” giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự soi mình; làm cơ sở để đóng góp ý kiến cho người khác và làm căn cứ để xử lý đối với những tập thể, cá nhân vi phạm. Hệ thống những biểu hiện này cũng là căn cứ để góp phần xây dựng tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên về phẩm chất chính trị, phẩm chất về đạo đức, lối sống phù hợp với yêu cầu cao của sự nghiệp cách mạng đang đòi hỏi. Đây là vấn đề khó, mà lâu nay chưa cụ thể hóa được nên còn lúng túng khi xem xét, đánh giá cán bộ. Bởi, Nghị quyết lần này có một số giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt như đổi mới và bắt buộc học tập lý luận chính trị; cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cơ chế kiểm soát quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước, công khai kết quả xử lý vi phạm; sự thống nhất về chính sách và kỷ luật giữa Đảng và Nhà nước; hợp đồng có thời hạn với viên chức; tăng thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu để xử lý cán bộ thuộc quyền; tăng cường sự giám sát của nhân dân trong xây dựng Đảng.
Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam.
Như chúng ta đã biết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, lãng phí, sự phân hóa giàu nghèo… dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, phản động v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, kỷ luật của quân đội v.v.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn dư âm. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm”. Để đấu tranh, phòng, chống hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhât, cần làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng mức độ nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh. Như chúng ta đều biết hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và mức độ nguy hiểm của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là giải pháp hết sức quan trọng. Trước mắt, cần làm cho mọi người nhận thức được những biểu hiện của nó được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra; tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành; thấy được việc phòng, chống sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh hết sức cam go, phức tạp diễn ra ngay trong nội bộ, giữa ta với ta, v.v. Việc giáo dục nâng cao nhận thức phải đi đôi với khắc phục những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác, xem nhẹ, không thể hiện rõ lập trường, quan điểm trước những hành vi tiêu cực, hoặc thờ ơ, không dám đấu tranh với sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hai là, phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, Nghị quyết lần này đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cơ sở để đấu tranh, khắc phục một cách triệt để. Nghị quyết xác định 4 nhóm giải pháp mang tính cơ bản, toàn diện, khoa học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Từ đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống các nhóm nhiệm vụ giải pháp, cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp, đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ ra những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên, bảo đảm rõ từng nội dung, hình thức, bước đi, biết lựa chọn vấn đề trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, làm qua loa đại khái.
Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng, từng đảng viên như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ, đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện tiến bộ hơn; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc phục đúng lúc có quan điểm đúng đắn. Do đó, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh. Cùng với đó, cần đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới tác phong, phong cách làm việc, sâu sát cụ thể tỉ mỉ ở cơ sở. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động chống phá, phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đôi với làm, tạo môi trường thuận lợi phòng, chống có hiểu quả những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bốn là, phát huy vai trò và nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trước mắt, cần tăng cường quản lý giáo dục, duy trì các hoạt động thông tin tuyên truyền, việc sử dụng mạng in-tơ-nét và các trang mạng xã hội; chủ động định hướng, cung cấp thông tin kịp thời với cấp trên. Từ đó chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương “người tốt, việc tốt”, tập thể tốt; đồng thời, có những bài viết sắc sảo, ý thức chính trị cao nhằm phê phán, lên án những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính nội bộ.
Với các biện pháp như đã nêu ở trên, cần nhận diện đúng, để đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà do nó gây ra đối với Đảng, chế độ và đất nước ta. Làm tốt các vấn đề đã trình bày ở trên, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại mọi mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch và bọn phản động./.



MỘT SỐ GIẢI PHÁP LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU
CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG TÔN GIÁO
CHIA RẼ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
Giáp Huy
Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, tôn giáo là một vấn đề lớn đối với các quốc gia, nhưng cũng hết sức nhạy cảm. Bởi nó liên quan đến đời sống tâm linh, thế giới quan, ý thức xã hội của nhiều nhóm người khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với chính trị - pháp lý trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó có thể bị chính trị hóa và dễ bị các thế lực lợi dụng, biến thành công cụ đấu tranh chống đối nhau trong chính sách đối nội và đối ngoại của các quốc gia. Chính vì thế, ngay từ khi đặt chân vào Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã tính toán đến âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Chúng nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử quá khích trong tôn giáo có thái độ thách đố với chính quyền, như việc chúng có ý đồ thành lập “Ủy ban liên tôn chống cộng”, tìm cách mua chuộc, lôi kéo các giáo sĩ, tín đồ các tôn giáo, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để thực hiện mục đích chính trị phản động.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là hướng ưu tiên chính trong chính sách đối với Việt Nam, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước ta bằng việc tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động can thiệp, chống phá; tạo được sự dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt ở nước ngoài nằm trong các tổ chức hoạt động chống Việt Nam; đồng thời, hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá. Các công cụ, phương tiện tiến hành hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam rất đa dạng. Nhiều hội nhóm được lập ra cả ở trong và ngoài nước, như: Việt Tân, Cao trào Nhân bản, Đảng Dân chủ Việt Nam, Hội anh em dân chủ, Hội Cựu tù nhân lương tâm, Hội Phụ nữ nhân quyền,… Dù tên gọi khác nhau, song vẫn kiểu “bình mới rượu cũ”, quanh quẩn vài ba kẻ giật dây, điều hành, cùng mục đích chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoạt động chủ yếu được thực hiện trên internet thông qua website và các trang mạng xã hội như facebook, WhatApp, Twitter,… để đăng tải các bài viết, hình ảnh, clip xuyên tạc với cường độ cao, tính chất “đánh lận con đen” tung tin thất thiệt, sai lệch về đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta nhằm gây chia rẽ nội bộ. Từ đó, các thế lực thù địch tiếp tục khoét sâu tâm lý ly khai, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết vùng miền, đoàn kết lương giáo, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đoàn kết quân - dân, đoàn kết Đảng với Nhân dân.
Như vậy, có thể thấy, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là rất tinh vi, thâm độc; hành động quyết liệt, trắng trợn; đối tượng đa dạng, phức tạp; mục đích không thay đổi; hậu quả khó lường. Với tinh thần cảnh giác của người dân, cùng với các biện pháp nghiệp vụ kiên quyết của lực lượng chức năng, chúng ta đã phát hiện và đấu tranh ngăn chặn kịp thời âm mưu, hành động nguy hiểm đó, nhưng các thế lực thù địch không dễ từ bỏ, chúng vẫn luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để đấu tranh với mưu đồ đen tối đó, chúng ta cần thực hiện tốt và đồng bộ một số giải pháp cơ bản, quan trọng sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào theo đạo. Trong đó “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước” mà Đảng ta đã xác định. Đồng thời, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh, nhận diện, vạch mặt những kẻ có mưu đồ đen tối nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, đề cao truyền thống đoàn kết, yêu nước, tinh thần cảnh giác, trách nhiệm công dân, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, sự đồng thuận xã hội, ý thức, trách nhiệm cộng đồng, tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chống mọi biểu hiện tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, ly khai,… coi đó là yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng nội lực, tạo sức đề kháng trước mọi âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Trong đó, tuân thủ nghiêm túc những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài; mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tôn giáo; chống kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Chủ động giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Thực hiện nghiêm túc quan điểm mà Đại hội XII của Đảng đã nêu: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,… tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc”.
Ba là, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân vùng dân tộc và miền núi. Theo đó, rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và công tác dân tộc trong giai đoạn mới. Công tác dân vận cần đổi mới, tìm ra những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả hơn nữa trong tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia giúp địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới, phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, phòng, chống dịch bệnh, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn mới, định canh, định cư, tạo việc làm cho lao động tại chỗ là người dân tộc thiểu số; hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào theo đạo… Qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa những người theo tín ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đẩy mạnh thực hiện các phong trào, cuộc vận động, biểu dương kịp thời những tấm gương điển hình tiên tiến, “gương người tốt, việc tốt”; động viên và phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Đồng thời, phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những hành vi chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị - xã hội. Kiên trì thuyết phục, vận động những người nhẹ dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình đẳng với những người lầm lỗi đã ăn năn, hối cải, phục thiện. Thực hiện tốt công tác quản lý xã hội, nắm chắc tình hình, phối hợp với các lực lượng, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, gần gũi, sát dân, nắm tâm tư, nguyện vọng của đồng bào và những vấn đề xảy ra trên địa bàn để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả, ngăn chặn kẻ xấu lợi dụng. Kịp thời phát hiện, giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, không để kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động, chống phá.
Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc  và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp trên sẽ là “bức tường” vững chắc để ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.



Thứ Tư, 27 tháng 6, 2018


BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN
CHO CÁC GIẢNG VIÊN TRẺ, TRONG CÁC HỌC VIỆN,
NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Trình Văn
Hiện nay, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta trên các lĩnh vực, trong đó lĩnh vực tư tưởng, lý luận là hướng “đột phá”, nhằm làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra những ‘khoảng trống” về ý thức hệ để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên, nhân dân, xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. Sự chống phá đó diễn ra trên nhiều mặt trận, trong đó trên Intenet là mặt trận có ảnh hưởng nhanh, rộng, liên tục trong giai đoạn cuộc sống số hiện nay. Trước tình hình này, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.”;
         Nằm trong hệ thống giáo dục đào tạo của quốc gia, các học viện, trường đại học trong quân đội ngoài nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, còn có nhiệm vụ rất quan trọng là tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội khẳng định: “Tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, chính trị, tư tưởng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính, sách luật pháp của Nhà nước... Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình, chủ động dự báo, phát hiện và đấu tranh, phòng, chống có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến” của các thế lực thù địch”. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi đội ngũ giảng viên nói chung, trong đó có giảng viên trẻ ở các học viện, trường đại học trong quân đội phải không ngừng nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận của mình. Hơn nữa, trong tương lai giảng viên trẻ sẽ là lực lượng kế cận, nguồn lực quan trọng để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận của Quân đội. Do vậy, trước những yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, các học viện, trường đại học trong quân đội cần phải đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ với một số biện pháp chủ yếu sau:
1. Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường đại học trong quân đội nâng cao nhận thức về âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trên Internet
Inter net hiện nay đang cung cấp một cuộc sống số cho toàn cầu, trong đó có nhiều thông tin, tư liệu bổ ích song cũng có nhiều sự chống phá mà các thế lực thù địch lợi dụng vào đó để tác động tới tư tưởng người tham gia. Do đó cần nâng cao nhận thức và thái độ cảnh giác cho giảng viên trẻ ở các học viện Nhà trường trong Quân đội.
2. Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường đại học trong quân đội nâng cao trách nhiệm bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ
        Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường đại học trong quân đội cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm nghị quyết lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương, Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, nghị quyết của Đảng ủy tại mỗi học viện, trường đại học trong quân đội, hướng dẫn của các cơ quan chức năng về hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Cấp uỷ các cấp phải tìm ra mắt xích chủ yếu, khâu đột phá để có chủ trương, biện pháp giải quyết dứt điểm khâu yếu, mặt yếu đối với việc thực hiện nhiệm vụ này, phân công cụ thể, xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân đảng viên trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết. Các khoa giáo viên cần quán triệt nghiêm túc nghị quyết của cấp ủy cấp trên về công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới, về bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ, giảng viên trẻ, chỉ đạo  giảng viên trong khoa kết hợp chặt chẽ giữa truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm với bồi dưỡng, xây dựng động cơ đúng đắn, gợi mở, định hướng nội dung giảng dạy, nghiên cứu và đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ.
Các cơ quan tại các học viện, nhà trường cần có sự liên hệ chặt chẽ trong việc tham mưu cho đảng uỷ, Ban giám đốc, (Ban giám hiệu) đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo việc bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ. Hướng mọi nỗ lực vào việc nâng cao nhận thức, trình độ lý luận, năng lực trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận, xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm cho giảng viên trẻ, tạo cho họ sự mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận.
3. Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ
Về đổi mới nội dung, cần tập trung vào bồi dưỡng tri thức toàn diện, trong đó chú trọng bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối chính trị, quân sự của Đảng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội cho giảng viên trẻ; bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho giảng viên trẻ.
Về đổi mới hình thức, biện pháp, cần sử dụng linh hoạt, phong phú các hình thức, biện pháp trong bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ như: Thông qua chương trình, kế hoạch, nội dung giảng dạy, qua hoạt động nghiên cứu khoa học, hội thảo, tọa đàm khoa học, qua tập huấn, sinh hoạt học tập chính trị, quân sự, thông qua viết báo đấu tranh tư tưởng, lý luận. Xây dựng đội ngũ giảng viên, chuyên gia đầu ngành chất lượng cao, có đạo đức và uy tín nghề nghiệp, coi đó là lực lượng nòng cốt trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận và bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận cho giảng viên trẻ. Tiêp tục nghiên cứu đề xuất các hình thức đấu tranh tư tưởng, lý luận mới, hiệu quả như cho lập các blogger, lập ra các loại hình câu lạc bộ như “câu lạc bộ những cây viết trẻ”, “Chi đoàn viết báo”. Lập kế hoạch, giao chỉ tiêu viết báo, chuyên đề, bài hội thảo, hoặc thông tin chuyên ngành cho giảng viên trẻ về đấu tranh tư tưởng, lý luận, gắn việc bình xét khen thưởng, phân loại chất lượng cán bộ, đảng viên hàng năm với việc thực hiện kế hoạch chỉ tiêu viết bài đấu tranh tư tưởng, lý luận hàng tháng, quý và cả năm.
4. Phát huy tính tích cực, chủ động của giảng viên trẻ trong tự bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận
Để phát huy tính tích cực, chủ động của giảng viên trẻ, cần chú trọng việc giáo dục, xây dựng động cơ, thái độ, ý thức trách nhiệm của giảng viên trẻ trong tự bồi dưỡng nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận. Bằng các hình thức như: thông qua sinh hoạt đảng, giao ban hội ý, hoặc hội nghị chuyên đề, qua công tác thi đua, khen thưởng để giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, ý chí quyết tâm của cán bộ nghiên cứu trong tự học tập, tu dưỡng hoàn thiện bản thân về mọi mặt nhất là năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận trong các hoạt động khoa học.
       Lãnh đạo, chỉ huy các khoa giáo viên phải căn cứ vào trình độ kiến thức, kỹ năng, khả năng, sở trường, kinh nghiệm đấu tranh tư tưởng, lý luận của từng giảng viên trẻ để định hướng, hướng dẫn xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng, tập trung vào tự bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích đánh giá thực tiễn, khái quát chỉ ra bản chất của từng sự kiện, hiện tượng trong đời sống chính trị, tinh thần, tư tưởng của xã hội, quân đội, nắm chắc những âm mưu mới, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch đang chống phá cách mạng nước ta hiện nay. Đặc biệt là, lãnh đạo, chỉ huy các khoa giáo viên cần hướng cho giảng viên trẻ tự học tập phương pháp viết bài, viết báo đấu tranh tư tưởng, lý luận trên các diễn đàn, hội thảo, các phương tiện thông tin đại chúng, khả năng đấu tranh tư tưởng, lý luận trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, khả năng trình bày quan điểm đấu tranh tư tưởng, lý luận trong sinh hoạt và học tập.
5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, các điều kiện bảo đảm và xây dựng môi trường thuận lợi để giảng viên trẻ tham gia đấu tranh tư tưởng, lý luận
         Chế độ, chính sách chi phối mạnh mẽ đến việc thúc đẩy giảng viên trẻ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Để hoàn thiện cơ chế, chính sách cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định về đấu tranh tư tưởng, lý luận của Quân đội và của các học viện, trường đại học trong quân đội. Xây dựng và hoàn thiện các quy chế về khai thác, quản lý và cung cấp thông tin trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. Xây dựng các cơ chế quản lý và sử dụng các tài liệu, phương tiện, trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học, giảng viên trẻ làm lực lượng nòng cốt, kế cận trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Tăng cường đầu tư và trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật theo hướng hiện đại, đảm bảo cho các học viện, trường đại học trong quân đội tham gia đấu tranh kịp thời và có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện dạy học cần thiết như: nhà ở, phòng làm việc, máy tính, Internet, bàn ghế, giấy bút, đèn chiếu, máy trình chiếu... để giảng viên trẻ thực hiện tốt nhiệm vụ và củng cố, rèn luyện, phát triển năng lực chuyên môn, phát triển năng lực đấu tranh tư tưởng lý luận. Không ngừng nâng cao uy tín và vị thế của mỗi học viện, trường đại học trong quân đội cả về giáo dục đào tạo - nghiên cứu khoa học và đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Thông qua đó, nâng cao vị thế xã hội của giảng viên nói chung, giảng viên trẻ nói riêng, theo đó tạo cho mỗi giảng viên trẻ niềm vinh dự lớn lao, lòng tự hào được cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho nhiệm vụ vẻ vang của nhà trường và quân đội. Từ đó tạo được sức đề kháng cần thiết cho việc đấu tranh vời các quan điểm sai trái trên Internet, luôn có thái độ đúng đắn có trình độ lý luận để phản bác các luận điểm vu khống , các quan điểm đi ngược với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, độc lập của dân tộc.




CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐI ĐẦU TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH", "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"
                                                                                     An Nhiên
Được biết đến như một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng -  “diễn biến hòa bình” là cách mà chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế tiến hành bằng các biện pháp “phi quân sự” với chủ thuyết “chiến thắng không cần chiến tranh”, nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa, mục đích làm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
          Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1-1994) đã chỉ ra bốn nguy cơ đe dọa cách mạng Việt Nam, trong đó có nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Các kỳ đại hội tiếp theo, nguy cơ này tiếp tục được Đảng ta đề cập. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp.
          Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức. Một trong số đó là việc các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, tìm cách gây chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, với lực lượng vũ trang. Mặt khác, chúng gây sức ép với ta trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; chúng tập trung “mũi đột phá” vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tác động đến các tầng lớp xã hội nhằm làm thấm dần hệ tư tưởng tư bản, lối sống thực dụng phương Tây, phủ nhận học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, thông qua đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho một bộ phận xa rời lý tưởng cách mạng, mục tiêu độc lập dân tộc và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
          Mục tiêu mà các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” ở nước ta là hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, hơn bao giờ hết, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là giải pháp quan trọng để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên trong Quân đội là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Và đặc biệt cán bộ, đảng viên trong quân đội còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Để phát huy tốt vai trò đó, mỗi cán bộ, đảng viên  cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:
 Tiếp tục quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vào thực tiễn công tác, chiến đấu và trên cương vị chức trách nhiệm vụ được giao. Cần chủ động trong nắm tình hình đơn vị, địa bàn nơi đóng quân, dự kiến tình huống để kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy đơn vị và cấp ủy chính quyền địa phương có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.
          Bên cạnh đó phải thường xuyên làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ với phương châm “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”, không để các thế lực thù địch lợi dụng sơ hở chống phá Nhà nước ta; tích cực phòng, chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
          Nâng cao  hiệu quả công tác dân vận trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự; tuyên truyền, giúp quần chúng nhân dân nhận rõ bản chất của “diễn biến hòa bình” và đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, có sức đề kháng tốt, “tự miễn nhiễm” trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
          Đồng thời, tích cực tham gia tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội và các tầng lớp nhân dân; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, định hướng dư luận, chống “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
          Góp phần xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh; Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất; đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội.


Thứ Ba, 26 tháng 6, 2018


NGUYỄN ÁI QUỐC VỀ NƯỚC LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIÀNH THẮNG LỢI HOÀN TOÀN
Ngay khi trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28-1-1941), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có những quyết sách quan trọng, tạo ra những bước ngoặt to lớn cho cách mạng Việt Nam, đó là: Chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), xây dựng căn cứ địa tại Cao Bằng, xây dựng Mặt trận Việt Minh, thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân... Từ đó, hình thành lực lượng chính trị rộng rãi, lực lượng vũ trang thống nhất, tạo nên sức mạnh giải phóng của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Với khát vọng tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, ngày 5-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc khi mới 21 tuổi. Người đã bôn ba khắp năm châu, bốn biển, vừa lao động vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, để rồi tìm thấy chân lý của thời đại: Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28- 1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam - thời kỳ xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngay khi trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành nhiều công việc quan trọng. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941). Hội nghị đã đưa ra những quyết sách quan trọng, trước hết là chuyển hướng chiến lược cách mạng, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương; nhiệm vụ trước hết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được độc lập, tự do cho dân tộc; tập trung giải quyết đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Nghị quyết nêu rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, sự tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi hỏi độc lập tự do cho toàn dân tộc, thì không những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến hàng vạn năm cũng không đòi lại được”(1). Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm liên hiệp đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, kể cả xu hướng chính trị, cùng nhau giải phóng và sinh tồn. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh là chủ trương mang tính chiến lược, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đây vừa là kết quả của quá trình lãnh đạo, đúc rút kinh nghiệm cách mạng của Đảng ta từ khi thành lập (1930) đến tháng 5 -1941; vừa là kết quả trực tiếp của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng cho phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta trong tình hình mới. Với sự ra đời của Việt Minh, tư duy về vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng đạt tới đỉnh cao mới, mở đường cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo làm thí điểm xây dựng Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng, nhằm kiểm nghiệm, bổ sung, hoàn thiện về chính cương, điều lệ, phương pháp tổ chức của Mặt trận Việt Minh trước khi mở rộng ra cả nước.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: cách mạng muốn thành công phải có lực lượng cách mạng, phải đoàn kết thật rộng rãi các tầng lớp nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chính vì vậy, Người rất chú trọng đến công tác tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng. Đi đến đâu, làm việc gì, Người cũng dựa vào quần chúng, được quần chúng bảo vệ, che chở. Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng của Người rất phong phú, đa dạng, linh hoạt, thiết thực, hiệu quả. Người đặc biệt chú trọng tới việc tuyên truyền giác ngộ đồng bào các dân tộc vùng cao do họ còn rất nghèo, trình độ văn hóa thấp, lại bị đế quốc tay sai kìm kẹp, chia rẽ. Người căn dặn cán bộ làm công tác tuyên truyền vận động là phải làm thế nào cho “dân tin, dân phục, dân yêu”, phải tin dân, gần dân, trọng dân, giải quyết những khó khăn cho nhân dân. Có như vậy mới vận động được nhân dân, mới xây dựng lực lượng cách mạng, cách mạng mới thành công.
Sau Hội nghị, Cao Bằng là tỉnh được tiếp thu sớm nhất tinh thần Nghị quyết của Trung ương, nhanh chóng chuyển thành hành động thực tiễn, tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc. Cao Bằng được Nguyễn Ái Quốc chọn làm nơi xây dựng căn cứ địa cách mạng do có hệ thống tổ chức Đảng mạnh, phong trào quần chúng vững, địa hình rừng núi thuận lợi. Những kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa cách mạng đã được Nguyễn Ái Quốc đúc kết sau thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc (1924-1927) , thể hiện rõ trong tác phẩm Công tác quân sự của Đảng trong nông dân (1928): “Việc tuyên truyền cách mạng phải được tiến hành trong tất cả các vùng nông thôn, nhưng phải tập trung chủ yếu vào một tỉnh hoặc một vài tỉnh đặc biệt. Khi Đảng cách mạng đoán trước được tình thế cách mạng trực tiếp đang tới gần thì phải chỉ ra được tỉnh nào hay huyện nào là quan trọng nhất theo quan điểm tuyên truyền trong nông dân và phải dồn sức chú ý vào đó, phải tập trung sức người, sức của cho nó”. Nguyễn Ái Quốc trong khi nhấn mạnh vai trò của nông thôn, nông dân trong việc xây dựng căn cứ địa trong buổi đầu cách mạng cũng đồng thời đánh giá cao mối quan hệ của những căn cứ vùng nông thôn với phong trào cách mạng ở các tỉnh, các thành phố, các trung tâm công nghiệp.
Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp huấn luyện chính trị - quân sự ngắn hạn, chọn thanh niên Cao Bằng đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc), giao nhiệm vụ cho đồng chí Vũ Anh triệu tập Hội nghị cán bộ Cao Bằng rút kinh nghiệm tổ chức Mặt trận Việt Minh Cao Bằng(cuối tháng 4-1941). Người còn giao cho các đồng chí: Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm tổ chức đội vũ trang Cao Bằng và phân công họ làm Đội trưởng, Chính trị viên và Đội phó (tháng 10-1941). Người đặc biệt quan tâm việc xây dựng Đội vũ trang đầu tiên của Cao Bằng, biên soạn Mười điều kỷ luật và chiến thuật cơ bản của chiến tranh du kích, trực tiếp giáo dục, huấn luyện họ. Đồng thời, Người trực tiếp chỉ đạo các đoàn thể cứu quốc tại ba châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình để rút kinh nghiệm cho việc xây dựng, mở rộng Mặt trận Việt Minh ra cả nước(2). Kinh nghiệm xây dựng Mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang Cao Bằng là chỗ dựa quan trọng để mở rộng lực lượng cách mạng ra cả vùng núi rừng Bắc - Lạng.
Tháng 7-1942, sau khi đã có những tổng, xã Việt Minh “hoàn toàn”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trương “Nam tiến” mở thêm đường liên lạc và mở rộng các lực lượng, tổ chức Việt Minh theo tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn và tuyến Cao Bằng - Bắc Cạn, Thái Nguyên. Liên lạc giữa “đầu nguồn” với Thường vụ Trung ương Đảng thêm thuận tiện(3). Đồng thời với “Nam tiến”, Tổng bộ Việt Minh cũng chủ trương các đội du kích đánh thông con đường Thái Nguyên - Tuyên Quang với các miền lân cận. Đến giữa năm 1944, mặc dù thực dân Pháp tiến hành khủng bố ráo riết, nhưng nhìn chung cơ sở Việt Minh đã mở rộng khắp các tỉnh vùng Cao - Bắc - Lạng, Hà - Tuyên - Thái.
Cuối tháng 9-1944, từ Trung Quốc về Pác Bó, Hồ Chí Minh nghe báo cáo về việc Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng quyết định khởi nghĩa giành chính quyền, Người chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa để tránh tổn thất cho cách mạng. Người phân tích: “Chủ trương phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc - Lạng là mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục. Trong điều kiện bây giờ, nếu phát động ngay nhân dân nhất tề nổi lên đánh du kích theo quy mô và phương thức đã định trong Nghị quyết, thì sẽ gặp nhiều khó khăn, có thể còn khó khăn hơn thời kỳ bị khủng bố vừa rồi. Bởi vì, các địa phương khác trong toàn quốc tuy phong trào cách mạng đang lên cao nhưng hiện chưa nơi nào có điều kiện vũ trang, chiến đấu để sẵn sàng hưởng ứng... Riêng về mặt quân sự, thì  cũng không theo đúng nguyên tắc tập trung lực lượng; cán bộ, vũ khí đều phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt”(4).
Người nhận định: “Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự”(5). Vì vậy, đầu tháng 12-1944, Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho đồng chí Võ Nguyên Giáp xúc tiến thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Trong chỉ thị thành lập, Người nêu nguyên tắc tổ chức lực lượng là “sẽ chọn lọc trong hàng ngũ du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực...”(6).
Việc thành lập lực lượng vũ trang ở căn cứ địa cách mạng đã củng cố và hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh đã viết các sách, như: “Cách đánh du kích”, “Kinh nghiệm du kích Tàu”, “Kinh nghiệm du kích Nga”,... Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập đội vũ trang Cao Bằng và Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cũng như những quyết định sáng suốt, kịp thời của Người đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Cao - Bắc - Lạng thời kỳ 1941-1945 đã minh chứng cho tư tưởng quân sự đúng đắn, sáng tạo của Người.
Trong giai đoạn từ 1941 đến tháng 5-1945 (thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình từ Pác Bó về Tân Trào chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám), tư tưởng Hồ Chí Minh được nhân dân các dân tộc ở Cao Bằng tiếp nhận, cùng nhau xây dựng địa phương thành quê hương giải phóng. Giữa năm 1945, Hồ Chí Minh sau khi nghe báo cáo về nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ đã ra chỉ thị: Nay vùng giải phóng ở miền ngược đã bao gồm các tỉnh: Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái, địa thế nối liền với nhau, nên lập thành một khu căn cứ lấy tên là Khu giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang lại, đặt tên là Quân giải phóng. Người đã bàn với các đồng chí: Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng chuẩn bị triệu tập Hội nghị cán bộ toàn thể khu để thống nhất lãnh đạo và triển khai công tác. Những thành quả phong trào cách mạng Cao Bằng đã được nhân lên, lan rộng phát triển mạnh đến miền xuôi.
Từ khi chọn Cao Bằng làm căn cứ địa cách mạng, đến khi hình thành Khu giải phóng, thời gian chỉ trên dưới 4 năm, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho phong trào cách mạng Cao Bằng và cho cách mạng cả nước. Đây vừa là kết tinh truyền thống yêu nước, đoàn kết của các dân tộc ở đây, vừa thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo cách mạng của tư tưởng, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh được áp dụng vào thực tế vùng đồng bào các dân tộc. Những thành công này đã lan tỏa ra cả nước, tạo nên sức mạnh giải phóng của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị lãnh tụ thiên tài, không chỉ tạo ra bước ngoặt to lớn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX mà còn để lại nhiều bài học quý giá. Đó là bài học về xác định “thời cơ”, nhiệm vụ cách mạng, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trước sự thay đổi của tình hình. Thực hiện con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn liền với những nhiệm vụ về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2017
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng 1930-1945, 1977, t.3, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.196.
(2) Xem Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.105.
(3) Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng, (1920-1945), t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.552-553.
(4), (5), (6) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 1977, tr.129-130, 130, 130.

Nguyễn Văn Công
 Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/2515-nguyen-ai-quoc-ve-nuoc-lanh-dao-cach-mang-viet-nam-gianh-thang-loi-hoan-toan.html


Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018


TỈNH TÁO, NHẬN DIỆN ĐÚNG NHỮNG Ý KIẾN CÒN MẬP MỜ
CỦA QUẦN CHÚNG VỀ LUẬT ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH KINH TẾ ĐẶC BIỆT
Khánh Anh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng quần chúng nhân dân là chủ thể của cuộc cách mạng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng”. Nhưng để nhân dân nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình thì Đảng phải gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân và tuyên truyền, vận động nhân dân giác ngộ, tự nguyện làm tròn bổn phận và trách nhiệm công dân của mình. Tuy nhiên, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhưng không được theo đuôi quần chúng, bởi dân có 3 hạng “tiên tiến”, “lừng chừng” và “yếu kém”. Vì thế, việc người dân thiếu hiểu biết và bị lợi dụng làm những việc trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng là chuyện dễ xảy ra…
Quan tâm đến vận mệnh đất nước là quyền, nhu cầu chính đáng của mỗi người dân; đồng thời đó cũng là một trong những biểu hiện của tình yêu Tổ quốc. Nhưng sự quan tâm, tình yêu đối với đất nước chỉ thật sự có ý nghĩa khi người dân tham gia phản biện, đóng góp ý kiến cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp phải xuất phát từ cái tâm trong sáng, thái độ chuẩn mực, động cơ lành mạnh và hướng đến những mục tiêu chung, lợi ích chung của quốc gia dân tộc.
Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân để hoàn thiện chính sách, luật pháp
Sự kiện Chính phủ đã thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội xem xét, cho lùi việc thông qua Dự án Luật Đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt từ kỳ họp thứ 5 sang kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Thực ra, khi đưa ra dự thảo quy định cho nhà đầu tư thuê đất lên đến thời hạn 99 năm trong Dự án Luật Đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt, Chính phủ cũng mong muốn tạo ra một ưu đãi nổi trội, đủ sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài muốn làm ăn lâu dài tại khu vực này. Tuy nhiên, nội dung dự thảo nêu trên đã được nhiều nhân sĩ, tri thức, chuyên gia, nhà khoa học, luật sư phân tích ở nhiều góc độ, khía cạnh có lý, có tình và đều có chung nhận định: Thời gian cho thuê đất như vậy là quá dài và có thể dẫn đến những hệ lụy không đáng có cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc.
Thành tâm lắng nghe, tôn trọng và tiếp thu ý kiến đóng góp đầy tâm huyết, trách nhiệm của đông đảo người dân thuộc các giai cấp, thành phần trong xã hội, Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đưa ra một quyết định đúng đắn, hợp thời, hợp lòng dân. Điều đó chứng tỏ cơ quan hành pháp, lập pháp của nước ta không chỉ quán triệt, thực hiện đúng phương châm “dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc) trong suốt quá trình hoạt động của mình, thực sự là một Chính phủ, Quốc hội của dân, do dân, vì dân, mà còn thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Điều gì có lợi cho dân thì hết sức làm. Điều gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Qua sự việc này cho thấy, rất nhiều người trong xã hội ta, dù hằng ngày phải tần tảo lo toan sinh kế của gia đình và thể hiện trách nhiệm của bản thân đối với cơ quan, đơn vị nơi công tác, nhưng vẫn không nguôi trăn trở với những việc hệ trọng liên quan đến quốc gia đại sự của đất nước. Với một thái độ trung thực, thẳng thắn, tư duy phản biện có cơ sở khoa học, có lý lẽ thuyết phục, có chiều sâu văn hóa, có sự cân nhắc lợi- hại trước sau, có sự cảnh tỉnh, cảnh báo cần thiết, nhiều ý kiến đóng góp đã thể hiện tâm- tầm- tài của một công dân có trách nhiệm đối với vận mệnh chế độ và tương lai đất nước. Đó là tư duy phản biện khoa học, vì nước, vì dân, nên đã được cơ quan thẩm quyền và người có trách nhiệm chắt lọc, tiếp thu để đưa ra những quyết định hợp thời, đúng lúc.
Tỉnh táo, nhận diện đúng âm mưu của các thế lực thù địch, cảnh giác trước những ý kiến “mập mờ”
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý người cán bộ, đảng viên phải luôn học hỏi quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng nhưng tuyệt đối không nên "theo đuôi" quần chúng. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị, như một tiếng chuông ngân văng vẳng bên tai mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải suy ngẫm nghiêm túc.
Bởi như chúng ta biết, ngày 10-6, sau khi xuất hiện những lời kêu gọi biểu tình phản đối Dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc và Luật An ninh mạng và sau đó là Luật An ninh mạng được thông qua, một số người dân do bị kích động hoặc thiếu hiểu biết đã tham gia tuần hành, tụ tập trái phép ở một số địa phương, gây ảnh hưởng xấu tới an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…nhất là ở Bình Thuận, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt nghiêm trọng là ở Bình Thuận một số người dân bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, mua chuộc, dụ dỗ đã đập phá cơ quan, trụ sở chính quyền, phá hoại cơ sở vật chất, ảnh hưởng vô cùng to lớn đến cuộc sống của người dân cũng như làm cho tâm lý xã hội bất an với những hệ lụy khó lường…
Qua sự việc này cho thấy, trong xã hội ta vẫn còn một bộ phận nhân dân hoặc là thiếu tỉnh táo, hoặc là thiếu động cơ trong sáng, nên đã đưa ra những ý kiến phản biện theo kiểu “phản bác”, không những không đưa ra được những cơ sở, lý lẽ có sức thuyết phục, mà còn cố ý làm nghiêm trọng hóa vấn đề nhằm làm nhiễu thông tin trong dư luận, gây phân tâm lo lắng. Đáng nói hơn, có những kẻ “ăn theo, nói leo”, chứa đựng động cơ “phá bĩnh” hơn là “phản biện”.
Thậm chí có những kẻ đã lợi dụng sự việc này để tung ra những luận điệu sai trái, hằn học, xuyên tạc, bôi nhọ sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ và hoạt động, công tác lập pháp của Quốc hội. Ví như họ rêu rao rằng: “Bán rẻ đất đai tổ tiên cho người khác”, “Gần năm trăm dân biểu không đủ thẩm quyền để thông qua một đạo luật đã được Đảng cộng sản Việt Nam chuẩn bị sẵn”…(!)
Cha ông ta có câu “Nói phải củ cải cũng nghe”. Hàm ý câu này muốn nói lên sức mạnh, sức sống của chân lý, lẽ phải luôn có giá trị bởi tính thuyết phục của nó. Đến “vô tri vô giác” như củ cải mà cũng nghe lời nói phải, thì không có lý do gì mà những người cầm cân nảy mực, những cơ quan có trách nhiệm quyết định đến vận mệnh của hàng triệu con người lại không lắng nghe, tiếp thu những ý kiến tâm huyết, chuẩn xác. Nhưng đồng thời với sự tôn trọng những góp ý vì quốc kế dân sinh, vì quốc gia đại sự, chúng ta cũng phải tỉnh táo nhận diện những ý kiến “mập mờ đánh lận con đen”, bóc mẽ những chân tướng đội lốt “yêu nước” mà thực chất là “hại dân” và lật tẩy các chiêu trò lợi dụng tình hình khó khăn của đất nước, lợi dụng những ý kiến trái chiều trong xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Quan tâm đến vận mệnh đất nước là quyền, nhu cầu chính đáng của mỗi người dân; đồng thời đó cũng là một trong những biểu hiện của tình yêu Tổ quốc. Nhưng sự quan tâm, tình yêu đối với đất nước chỉ thật sự có ý nghĩa khi người dân tham gia phản biện, đóng góp ý kiến cho Đảng, Nhà nước, Quốc hội, cấp ủy, chính quyền các cấp phải xuất phát từ cái tâm trong sáng, thái độ chuẩn mực, động cơ lành mạnh và hướng đến những mục tiêu chung, lợi ích chung của quốc gia dân tộc. Còn những ý kiến “biện” ít, “phản” nhiều, thiếu tính xây dựng và mang tính kích động nhằm làm rối ren thêm tình hình thì chúng ta cần tỉnh táo, nhận diện đúng đắn vấn đề để bốc thuốc chữa cho khỏi bệnh kẻo lại nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự ATXH như thời gian qua ở một số địa phương trên mảnh đất hình chữ S của chúng ta.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...